Bình thường hóa quan hệ Việt - Trung

Thứ năm, 25/04/2019 - 09:40 AM

Năm 1992 quan hệ giữa hai nước Việt Nam – Trung Quốc chính thức được bình thường hóa sau sự kiện chiến tranh xâm lược biên giới Việt Nam của Trung Quốc (17/2/1979).

Người “mở lối” là Đại tướng Lê Đức Anh - Bộ trưởng Bộ quốc phòng, được Bộ Chính trị cử làm phái viên sang Trung Quốc gặp Tổng Bí thư Giang Trạch Dân.

Hai luồng thăm dò

Đại tướng Lê Đức Anh kể lại việc tiến tới bình thường hóa quan hệ Việt – Trung trong hồi ký như sau:

“Trong suy nghĩ, tôi dự kiến mình sẽ mở "hai luồng thăm dò": Một là thăm dò qua cộng đồng người Hoa ở khu vực Chợ Lớn - Thành phố Hồ Chí Minh. Việc gặp gỡ, tiếp xúc, thăm dò từ khối Hoa kiều này thì có thể "bắt mạch" được tư tưởng của Chính phủ nước họ. Hai là thăm dò qua đường Đại sứ Trung Quốc tại Hà Nội.

Vào đầu tháng 3/1987, ông vào gặp Bí thư Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, ông Võ Trần Chí. Ông nói với Ban Hoa vận của Thành ủy, tiến hành mời và gặp gỡ một số người đại diện và có uy tín trong cộng đồng người Hoa ở Chợ Lớn. Cuộc gặp thân tình và thẳng thắn đã diễn ra tại trụ sở của Thành ủy với sự tham gia của 8 Hoa kiều, 1 người đại diện Thành ủy và Đại tướng Lê Đức Anh.

Bình thường hóa quan hệ Việt - Trung
Hồi ký của Đại tướng Lê Đức Anh

“Tôi nói về Cộng đồng người Hoa suốt mấy chục năm qua định cư, làm ăn sinh sống tại Việt Nam đã tham gia, đóng góp vào hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong cuộc tổng tiến công Tết Mậu Thân 1968, tôi đã trực tiếp chứng kiến có những bà mẹ người Hoa đã nuôi giấu và cứu chữa thương binh là bộ đội Giải phóng ngay tại nhà mình, bất chấp nguy hiểm, đó là những nghĩa cử cao đẹp của bà con Hoa kiều tại khu vực Chợ Lớn này. Người Việt và người Hoa, Trung Quốc và Việt Nam, hai nước bấy lâu vẫn đoàn kết, hữu nghị là chuyện bình thường. Vừa rồi xảy ra chuyện Trung Quốc và Việt Nam lại xung khắc nhau là chuyện không bình thường. Vậy thì yêu cầu bà con người Hoa hãy góp sức mình để hàn gắn lại tình hữu nghị, để xoá bỏ cái không bình thường này đi. Tình hữu nghị Trung - Việt là truyền thống tốt đẹp và bền lâu, chúng ta cần làm cho nó bền vững và phát triển”.

Nghe ông nói những điều này, 8 người Hoa kiều nét mặt rạng rỡ, phấn chấn. Họ phát biểu: Từ lâu rồi chúng tôi cũng muốn như thế. Việt Nam và Trung Quốc cứ tốt như hồi xưa với nhau, giúp nhau như anh em trong nhà thì chúng tôi sung sướng lắm. Sống trên đất Việt Nam, chúng tôi cũng muốn chăm lo xây dựng gia đình và góp công xây dựng đất nước Việt Nam, quê hương thứ hai của mình…Vậy là cuộc gặp gỡ những người Hoa tại Thành phố Hồ Chí Minh kết thúc với sự đồng thuận cao.

Bình thường hóa quan hệ Việt – Trung

Trở ra Hà Nội, khoảng nửa tháng sau đó, ông Lê Đức Anh nói với ông Vũ Xuân Vinh, Cục trưởng cục Đối ngoại quân sự đi mời Đại sứ Trung Quốc Trương Đức Duy đến dùng cơm tại nhà khách Bộ Quốc phòng (28 phố Cửa Đông). Cuộc gặp tuy bí mật nhưng ông đánh giá không khí thoải mái và không ai cảm thấy có gì căng thẳng. Hai người vừa ăn cơm vừa nói chuyện.

“Tôi điểm lại quá trình quan hệ hữu nghị giữa hai nước và nói rằng Trung Quốc giúp Việt Nam về cách mạng nói chung, về quân sự nói riêng là rất quan trọng... Vậy mà bây giờ tại sao lại xung đột với nhau. Việc này không phải do dân và bộ đội gây ra, mà do lãnh đạo của hai nước gây ra. Đề nghị đồng chí Đại sứ báo cáo với lãnh đạo của Trung Quốc. Tôi mới nhận chức nhưng cũng sẽ báo cáo với lãnh đạo của Việt Nam; để lãnh đạo hai nước gặp nhau giải quyết việc này”, Đại tướng Lê Đức Anh viết.

Sứ mệnh "mở luồng" và "thăm dò" mà Bộ Chính trị tin cậy giao cho ông Lê Đức Anh xem như đã hoàn tất. Ông báo cáo tình hình với Bộ Chính trị để có kế hoạch gặp lãnh đạo Đảng, Nhà nước Trung Quốc.

Sau đó, tháng 7/1990, trong chuyến đi thăm Singapore, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng đã "đánh tiếng" là "sẵn sàng bình thường hoá quan hệ với Việt Nam". Một tháng sau, ngày 19/8/1990, Tổng Bí thư Trung Quốc Giang Trạch Dân có thư qua đường Đại sứ mời Tổng Bí thư Việt Nam Nguyễn Văn Linh, Cố vấn Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Đỗ Mười sang thăm Trung Quốc. Cuộc gặp không công khai giữa hai Tổng Bí thư và hai Thủ tướng Chính phủ đã diễn ra trong hai ngày 3 và 4/9/1990.

“Tiếp đó, cuối tháng 7 năm 1991, tôi được cử làm phái viên của Bộ Chính trị sang bàn bạc những vấn đề cụ thể việc bình thường hoá quan hệ hai nước – Đại tướng Lê Đức Anh kể tiếp trong hồi ký – Cùng đi với tôi có đồng chí Hồng Hà, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Đối ngoại Trung ương”.

Ngày 29/7/1991, tại Đại lễ đường, ông Kiều Thạch, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị Đảng cộng sản Trung Quốc làm việc với hai ông Lê Đức Anh và Hồng Hà để chuẩn bị cho cuộc hội đàm với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân. Cuộc hội đàm chính thức với Tổng Bí thư Giang Trạch Dân diễn ra tại Trung Nam Hải vào buổi chiều ngày 31 tháng 7 năm 1991. Sang năm 1992, quan hệ giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc chính thức được bình thường hóa.

X

This site uses cookies. By continuing, you agree to their use. Learn more, including how to control cookies.

Bình thường hóa quan hệ Việt - Trung

Trần Hoàng

 Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc từ sau năm 1975 đã xuất hiện những mâu thuẫn ngày càng trầm trọng dẫn đến việc chấm dứt ngoại giao vào năm 1978. Đỉnh cao của mâu thuẫn đó là cuộc chiến tranh biên giới năm 1979 và kéo dài suốt thập niên sau đó. Trong những thập niên 1980 – 1990 đã xuất hiện những tác động từ bên ngoài đến quan hệ ngoại giao giữa hai nước.

  1. Quan hệ Liên Xô và Mĩ được cải thiện từ giữa thập niên 80 thế kỉ XX

Đầu thập niên 80 của thế kỉ XX, tình hình căng thẳng giữa hai siêu cường Xô – Mĩ trở nên căng thẳng. Mĩ đề ra chính sách cứng rắn chạy đua ũ trang nhằm lấy lại vị trí đứng đầu về quân sự của Mỹ trên trường quốc tế. Trong khoảng năm 1980 – 1986 ngăn sách quân sự tăng đến 50%, tên lửa tầm trung được đặt ở Tây Đức, Bỉ, Hà Lan và một vài nước khác xung quanh Liên Xô. Đồng thời, Mĩ cũng đề ra kế hoạch “sáng kiến phòng thủ chiến lược” (SDI) với chi phí 26 tỷ USD trong 5 năm. Cùng thời gian này, Mĩ tiến hành các chiến dịch chống phong trào cách mạng ở Grênađa, Panama, Libi và cung cấp vũ khi cho lực lượng đối lập ở Ápganixtan. Để đói phó lại, Liên Xô cũng tăng ngân sách quốc phòng chiếm tới 25% GDP, đặt tên lửa tầm trung ở các nước Đông Âu và phần Trung Á thuộc Liên Xô. Nhưng tình trạng đối đầu, chạy đua vũ trang giữa Liên Xô và Mĩ đã đem lại nhiều bất lợi cho chính hai siêu cường đó. Những tốn phí về chạy đua vũ trang từ sau chiến tranh thế giới đã làm suy giảm nghiêm trọng tiềm lực kinh tế của hai nước, tốc độ tăng trưởng bị giảm sút. Trong khi đó, sụ phát triển vượt bậc của Đức, Nhật Bản và Khối thị trường chung Châu Âu (EEC) đã làm xuất hiện các thế lực cạnh tranh hùng mạnh, đe dọa vị thế của Mĩ và Liên Xô.[1]

Trước tình hình đó, từ năm 1985, hai bên đã có những cuộc tiếp xúc, gặp gỡ để bàn về việc hạn chế chạy đua vũ trang và hợp tác kinh tế, khoa học – kĩ thuật. Đến năm 1989, tổng bí thư Đảng cộng sản Liên Xô M.Gorbachev và tổng thống Mĩ G.Bush ra tuyên bố chấm dứt tình trạng chiến tranh lạnh giữa hai nước sau hơn 40 năm đối đầu căng thẳng. Tháng 11 – 1990, tại Pari, hai nguyên thủ Liên Xô và Mĩ cùng các nhà lãnh đạo 20 nước thành viên khối NATO và khối Warsaw kí kết hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau, đưa ra Hiến chương Paris tuyên bố chấm dứt Chiến tranh lạnh.

Trước quan hệ giữa Liên Xô và Mĩ có những thay đổi như vậy, quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc với hai nước này cũng thay đổi mạnh mẽ. Bởi từ những năm 50, mối quan hệ giữa hai nước Liên Xô và Mĩ đã có sự ảnh hưởng lớn đến hai nước Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam và Trung Quốc từ những năm 50, 60 của thế kỉ XX có mối quan hệ thân thiết với Liên Xô.

Trung Quốc và Liên Xô ban đầu là hai quốc gia thân thiện, nhưng đến năm 1955 thì cả hai đã bộc lộ những mâu thuẫn về ý thức hệ. Điều này thể hiện rõ trong chiến lược phản đế, phản tu và cách mạng thế giới đầu thập niên 60. Năm 1956, tại Đại hội Đại biểu Đảng cộng Sản Liên Xô tại Mátxcơva, Tổng bí thư N.Khrútxốp đã trình bày bảng báo cáo của Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, và vạch ra con đường “chung sống hòa bình, cạnh tranh hòa bình, quá độ hòa bình”. Chính sự kiện này mà Trung Quốc cho rằng ở Liên Xô đang tồn tại chủ nghĩa xét lại, và đề ra phong trào “phản tu”. Chúng ta có thể thấy rõ qua việc “Trung Quốc ủng hộ Việt Nam chống Mỹ, ngoài đóng góp thiết thực cho phong trào cách mạng thế giới, ngoài vấn đề ý thức hệ và lợi ích chống chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ hoà bình, còn có ý nghĩa chiến lược trực tiếp: Mỹ là kẻ thù của Trung Quốc, tiến hành chiến tranh sát nách Trung Quốc, đe dọa trực tiếp an ninh của Trung Quốc từ phía Nam. Giúp Việt Nam chống Mỹ, Trung Quốc có lợi ích kiềm chế Mỹ, bảo đảm an ninh của Trung Quốc, bảo đảm một số điều kiện cho Trung Quốc nhanh chóng trỗi dậy trở thành cường quốc ở khu vực.”[2] Cũng có thể nói đây là giai đoạn mà sự viện trợ của Trung Quốc và Liên Xô đối với Việt Nam có những thay đổi rất lớn.

Từ mâu thuẫn về ý thức hệ tuy sau này Liên Xô cũng tỏ ra “cứng rắn” với phương tây nhưng Trung Quốc và Liên Xô đã xuất hiện sự rạn nức lớn. “Sự kiện đánh dấu sự chia rẻ Trung – Xô là trong cuộc chiến tranh Trung – Ấn, Liên Xô công khai đứng về phía Ân Độ, chỉ trích và phê phán Trung Quốc. Nhưng sự đối kháng thực sự giữa hai nước bắt đầu từ năm 1969 trong sự kiện đảo Trân Bảo, bất đồng về ý thức hệ giữa hai đảng Trung – Xô cuối cùng đã dẫn đến cuộc xung đột vũ trang giữa hai bên”[3]. Bước sang những năm 70, Trung Quốc đã xem Liên Xô là “mối đe dọa đến lớn nhất đối với an ninh quốc gia của Trung Quốc”, xem mâu thuẫn Trung – Xô lớn hơn những mâu thuẫn khác đang tồn tại trên trường quốc tế. Cũng từ đây, Mĩ và Trung Quốc bắt đầu có những tiếp xúc để cải thiện mối quan hệ với nhau để “chống chủ nghĩa bá quyền, phản đối sự bành trướng chống lại chủ nghĩa bá quyền của Liên Xô”[4].

Bước sang đầu thập niên 1980, các nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng, không nên tạo ra cục diện đối địch, cắt đứt quan hệ giao lưu song phương nữa. Cho nên khi Liên Xô bắt đầu bày tỏ mong muốn cải thiện mối quan hệ Trung Quốc, thì Trung Quốc cũng đã phản ứng một cách thiện chí và tích cực chuẩn bị tiến hành đối thoại Trung – Xô. Khi các nhà lãnh đạo của Liên Xô qua đời, Trung Quốc điều cử người với cương vị phó thủ tương sang viếng thăm, chia buồn. “Việc vận dụng một cách khéo léo hình thức ngoại giao “viếng thăm, chia buồn” và sự kiện Goócbachốp. người lãnh đạo có quan điểm “tư duy hoàn toàn mới” lên nắm quyền đã tạo điều kiện tốt đẹp cho việc cải thiện mối quan hệ giữa hai nước”[5]. Tuy nhiên, từ năm 1987, khi quan hệ Xô – Mĩ được cải thiện thì quan hệ Trung – Xô cải thiện chậm hơn, làm cho vị trí của Trung Quốc bị suy yếu trong quan hệ giữa ba nước (Mĩ- Trung- Xô).

Về phía Việt Nam, thì quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô trong giai đoạn này tương đối tốt đẹp. Trong những năm 1954 – 1975, do mâu thuẫn Trung – Xô mà Liên Xô có khi ủng hộ Việt Nam có khi là trở cản của Việt Nam. Sau năm 1975, quan hệ giữa hai nước đầy tiến chuyển và là “cái cớ” cho Trung Quốc tấn công Việt Nam vào năm 1979. “Trong quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa, tháng 6-1978, Việt Nam gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế, tháng 11 ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô, có giá trị trong 25 năm. Tháng 5-1979, chính phủ hai nước thỏa thuận cho phép tàu hải quân Liên Xô được ra vào, ghé đậu và máy bay Liên Xô được hạ cánh ở Cam Ranh (thuộc tỉnh Khánh Hòa)”[6].

Nước Mĩ được xem là kẻ thù chung của Việt Nam và Trung Quốc trong những năm 1950 – 1960. Song do mâu thuẫn với Liên Xô mà Trung Quốc và Mĩ đã từng bước cải thiện mối quan hệ ngoại giao trong những năm 1970. Về Việt Nam sau năm 1975, luôn tiến hành đối ngoại và mong muốn sự hợp tác, bình thường hóa quan hệ với Mĩ sau chiến tranh.

Từ thập niên 1970, Trung Quốc và Mĩ từng bước cải thiện quan hệ và trong vòng 10 năm hai nước đã tiến tới thiết lập quan hệ ngoại giao. Sau cuộc đụng độ với Liên Xô, Trung Quốc nhận ra rằng “Chúng ta bị cô lập rồi, bây giờ không còn ai quan tâm đến chúng ta nữa” (Mao Trạch Đông, 1969). Trước nhu cầu đó, thì việc tìm kiếm một đồng minh để chống Liên Xô là yêu cầu mà Trung Quốc cần phải làm. Cũng như đã nói thì Liên Xô là kẻ thù của Mĩ nên hai nước bây giờ có chung một kẻ thù thì chống lại kẻ thù chung đó là tất yếu. Cho nên, khi Mỹ “truyền đi tín hiệu mong muốn cải thiện mối quan hệ Trung – Mỹ, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã căn cứ vào diễn biến về thời thế, đưa ra phản ứng tích cực, cuối cùng đã dẫn đến cuộc viếng thăm bí mật tới Trung Quốc vào tháng 7 năm 1971 của Kissinger và cuộc viếng thăm Trung Quốc của Tổng thống Nixon vào tháng 2 năm 1972, góp phần tích cực vào việc bình thường hóa quan hệ Trung – Mĩ”[7]. Đồng thời, Mĩ cũng mong muốn thiết lập mối quan hệ “ổn định, chắc chắn, lâu dài” với Trung Quốc.

Nhìn chung, “trong thời gian đó, mặc dù hai bên phải đối mặt với với nhiều sóng gió do vấn đề Đài Loan gây ra, nhưng nói chung quan hệ Trung – Mĩ phát triển tương đối ổn định, thậm chí hai bên còn hợp tác với nhau trong cả lĩnh vực quân sự, thỏa thuận được một loạt các hạng mục hợp tác về trang thiết bị kĩ thuật quan sự”[8]. Có thể thấy rằng, Đài Loan là vấn đề xuyên suốt trong quan hệ đối ngoại của hai nước. Tuy trong Tuyên bố Thượng Hải năm 1972, Mĩ lần đầu tiên bày tỏ quan điểm thừa nhận trên thế giới chỉ có một nước Trung Quốc, Đài Loan là một bộ phận của Trung Quố, thậm chí còn khẳng định nhất định sẽ rút hết lực lượng vũ trang và các thiết bị quân sự của Mĩ ra khỏi Đài Loan. Tuy nhiên mãi sau khi thết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1979, khi quốc hội Mỹ bàn đến “luật về quan hệ với Đài Loan” thì vẫn “tuyên bố để phòng ngừa mọi hành vi dùng vũ lực đe dọa đến an ninh nhân dâ và xã hội Đài Loan, Mĩ sẽ cung cấp đủ các vũ khí và trang bị phòng ngự để Đài Loan có thể duy trì khả năng tự vệ…”[9].

Về phía Việt Nam với Mĩ thì hai bên đã có những thông điệp về việc duy trì quan hệ lẫn nhau trên tinh thần hiệp định Pari năm 1973 và nguyên tắc không thù địch. Quan hệ Việt Nam với Mĩ xoay quanh với vấn đề bình thường hóa quan hệ với điều kiện tiên quyết là “hàn gắn chiến tranh”. Song đến năm 1978, Việt Nam đồng ý với Mỹ “bình thường hóa không điều kiện” quan hệ giữa hai nước, Việt Nam không đặt vấn đề “bồi thường chiến tranh” làm điều kiện tiên quyết. Nhưng trong thời kì này, quan hệ Mĩ và Trung Quốc đang tiến triển rất tốt nên đối với Việt Nam, Mĩ “không thay đổi lập trường bình thường hóa quan hệ nhưng phải chậm lại”, Mĩ cũng đưa ra cho Việt Nam cần giải quyết rõ “vấn đề Campuchia”.

Như vậy, quan hệ Xô – Mĩ từ giữa thập niên 80 của thế kỉ XX đã tác động mạnh mẽ đến mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc với hai nước này. Vì sự ảnh hưởng của Mĩ và Liên Xô còn ở một mức độ nhất định. Mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng từ đó bị tác động, sự tác động này đã diễn ra từ lâu đến những năm 80 của thế kỉ XX vẫn còn hiện diện.

  1. Vấn đề Campuchia và cải thiện mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước Đông Nam Á

“Vấn đề Campuchia” được xem là một vấn đề mang tầm ảnh hưởng lớn trong quan hệ quốc tế của Việt Nam từ cuối thập niên 70, 80 của thế kỉ XX. Bản thân Việt Nam cũng đã nhìn nhận vấn đề này mang ý nghĩa to lớn. “Vấn đề Campuchia” là một trong số những vấn đề mà Trung Quốc lấy đó là lí do để gây khó dễ cho việc cải thiện quan hệ với Việt Nam. Sau công cuộc cải cách mở cửa, mục tiêu hàng đầu của Trung Quốc trong đối ngoại là tạo môi trường ổn định để phục vụ cho sự phát triển kinh tế. Là các nước tiếp giáp gần Trung Quốc ở phía nam nên Trung Quốc hết sức coi trọng phát triển mối quan hệ hữu nghị với các quốc gia Đông Nam Á. “Tôn chí trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc trong chính sách ngoại giao của Trung Quốc tại khu vực này là thân thiện với láng giền, làm bạn với láng giềng và mục lân (chan hòa) với an lân (giữ an ninh với láng giềng) và phú lân (làm cho láng giềng giàu có)”[10]. Ban đầu, Trung Quốc tăng cường quan hệ song phương với từng quốc gia trong khu vực này.

Trung Quốc và hầu hết các quốc gia Đông Nam Á (trừ Thái Lan) đều là thuộc địa của các nước phương Tây trong giai đoạn lịch sử cận đại. Riêng về khu vực này, các cương quốc luôn có những lợi ích kinh tế hoặc lợi ích chiến lược sâu sắc. Thế kỉ XĨX, do có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú với các loại hương liệu, thiếc, cao su,… Đông Nam Á trở thành điểm hấp dẫn trong mưu đồ thôn tính, chiếm đóng của các nước tư bản như Anh, Tây Ban Nha, Hà Lan. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, do cuộc chiến tranh ở Việt Nam ên Mĩ đã đưa quân đội đến khu vực này. Cho đến, khu vực này vẫn có vị trí chiến lược cũng như lợi ích an ninh, kinh tế tương đối quan trọng đối với Mĩ. Cho nên khi Mĩ rút khỏi khu vực này với sự giải thể của SEATO (khối quân sự ở đây) thì đã tạo ra “một khoảng trống quyền lực” nên Trung Quốc đã tỏ ra mong muốn nâng cao vị thế ảnh hưởng của mình ở khu vực này sau năm 1975.

Theo dòng lịch sử, cuộc cách mạng xã hội ở Trung Quốc và các cuộc đấu tranh gành độc lập của các quốc gia Đông Nam Á diễn ra trong cùng một khoảng không gian, do vậy cả hai bên đều phải đối mặt với vấn đề làm thế nào để giải quyết mối quan hệ đối ngoại. Quan hệ song phương của các quốc gia Đông Nam Á đều chịu sự ràng buộc khá lớn của chiến tranh lạnh, và chiến lược của Trung Quốc lúc bấy giờ là chống lại sự đe dọa của chủ nghĩa đế quốc. Cũng từ thập niên 1960, một số phản ứng khác nhau ở khu vực này đã xuất hiện đối với Trung Quốc: “Mianma giữ thái độ trung lập, nghiêng về phái Trung Quốc, ngược lại Thái Lan và Philipin lại cùng Mỹ xây dựng liên minh trong khuôn khổ của Tổ chức Hiệp hội các quốc gia Đông Nam. Đồng thời, chính sách đối với Hoa kiều của một số quốc gia trong khu vực cũng đã trở thành hòn đá cản đường các nước này phát triển mối quan hệ hữu nghị với Trung Quốc”[11].

Cũng vào thời điểm này, Việt Nam và Liên Xô kí kết hiệp ước hợp tác hữu nghị thì Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình đã chuyến công du đến một số nước Đông Nam Á – Malaixia, Xingapo và Thái Lan, đã nói về nguy hiểm của Hiệp ước đó đến an ninh khu vực và thế giới, tuyên bố ba điều: “Trung Quốc sẵn sàng đặt quan hệ ngoại giao với các chính phủ đang cầm quyền, cam kết không hỗ trợ lực lượng cộng sản trong các nước đó và báo trước sẽ trừng phat, dạy cho Việt Nam một bài học”. Vấn đề lo ngại “làn sóng cộng sản” từ Việt Nam theo thuyết quân cờ domino, lại được hứa hẹn loại bỏ lực lượng cộng sản bên trong vốn là nổi nhức nhối của chính quyền các nước Đông Nam Á nên giới cầm quyền một số nước đã “hòa vào dàn đồng ca đòi Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia. Họ đã lôi kéo một số nước Đông Nam Á vào cuộc đấu tranh nhằm cô lập Việt Nam” (GS. Vũ Dương Ninh, 2017, trang 197). Đồng thời, “các nước ASEAN lo ngại chiến tranh có thể lan rộng sang Thái Lan và kéo họ vào cuộc xung đột khu vực, nên quan hệ giữa các nước ASEAN và Việt Nam trở nên căng thẳng, đối đầu, kéo dài hơn một thập niên về vấn đề Campuchia”[12].

Việc Việt Nam mang quân vào Campuchia không những đã tác động đến “cái nhìn” của nước trong khu vực Đông Nam Á mà còn ảnh hưởng sâu sắc đến ngoại giao giữa Việt Nam với các nước trên thế giới đang và sẽ thiết lập quan hệ với Việt Nam. Tuy nhiên, sự kiện lịch sử này diễn ra là do sự đòi hỏi, yêu cầu tất yếu của lịch sử lúc bấy giờ.

Vào năm 1975, ngày 1 tháng 5, quân Khmer Đỏ đồng loạt tấn công và xâm phạm nhiều địa điểm biên giới Việt Nam – Campuchia từ Hà Tiên đến Tây Ninh, tấn công đảo Phú Quốc, chiếm đảo Thổ Chu của Việt Nam. Cuộc xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam của tập đoàn khmerKhơ Đỏ đã diễn ra và tiếp diễn một cách mạnh mẽ. Tháng 12 năm 1978, chúng tập trung 19 trong số 25 sư đoàn chủ lực ở biên giới tấn công tỉnh Tây Ninh, vạch kế hoạch tiến về Thành phố Hồ Chí Minh. Hành động xâm phạm củ Khrmer Đỏ bị quân dân Việt Nam giáng trả đích đáng, đẩy lui chúng ra khỏi bờ cõi. Bên cạnh đó, Khmer Đỏ còn thi hành “chính sách diệt chủng” ở Campuchia. Lợi dụng tình hình giải phóng Phom Pênh năm 1975, chúng lên cầm quyền đất nước, đưa dất nước “trở về con số không”. Chúng giết chết 2 triệu người, nhiều người Việt sinh sống ở Campuchia  cũng bị đánh đập, giết chốc. Những người cách mạng chân chính Campuchia đã nổi dậy chống chế độ tàn bạo Polpot nhưng bị đàn áp dã man. Trước tình hình đó, nhiều người đã chạy sang Việt Nam nhờ sự giúp đỡ, Hun Sen có nói: “Theo các cuộc thảo luận, chúng tôi đã có kế hoạch bộ đội Việt Nam tấn công và sau đó rút quân ngay vào năm 1979. Tôi đã nói với họ, nếu họ rút quân và Polpot quay trở lại thì sẽ càng có nhiều người bị giết. Vào thời điểm đó, các lực lượng của Campuchia không đủ sức chống lại Polpot, chúng tôi cần thời gian để cũng cố lực lượng và nền kinh tế của mình”, “Chính phủ Việt Nam không muốn để quân ở lại. Phía chúng tôi yêu cầu họ, sau đó tôi đồng ý họ sẽ thử giảm bớt lực lượng của họ vào năm 1982. Chính phủ Việt Nam giảm quân số, còn chúng tôi sẽ tăng lực lượng của mình lên”[13].

Theo đó, cũng năm 1978 Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia được thành lập đề ra Cương lĩnh 11 điểm với nhiệm vụ chính là đoàn kết toàn dân đánh đổ tập đoàn Khmer Đỏ, xây dựng đất nước Campuchia hòa bình, độc lập, dân chủ, trung lập, không liên kết và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đáp lại lời kêu gọi của Mặt trận, quân tình nguyện Việt Nam cùng với dơn vị yêu nước Campuchia mở nhiều cuộc phản công quyết liệt. Đến ngày 7/1/1979, thủ đô Phnom Penh được giải phóng, bè lũ Polpot bỏ chạy, tan rã, một số thì chạy sang lãnh thổ Thái Lan, bọn cầm đầu thì bỏ ra nước ngoài. Nhân dân Cmapuchia được giải phóng khỏi chế độ diệt chủng. Những yêu cầu giúp đỡ đất nước Campuchia khôi phục sau chiến tranh và làm hạn chế sự trở lại của Khmer Đỏ là yêu cầu tiên quyết mà quân tình nguyện Việt Nam không thể không làm. Trước sự ở lại của quân đội Việt Nam đã làm cho “cái nhìn” của quốc tế đối với Việt Nam “lạnh” đi và quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các nước trở nên căng thẳng hơn bao giờ hết. Việt Nam rơi vào tình trạng cấm vận, trong khi đất nước đang rơi vào khủng hoảng trầm trọng.

Trước khi sự kiện trên xảy ra, thì từ năm 1976, Việt Nam đã công bố chính sách bốn điểm đối với các nước Đông Nam Á. Nếu so với Hiệp ước thân hữu và hợp tác (Bali) trước đó giữa các thành viên ASEAN thì chúng ta có thể nhận thấy sự gạp gỡ trong nhiều quan điểm cơ bản về độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ; về sự không can thiệp vào công việc nội bộ nước; giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, thiết lập quan hệ hữu nghị và thúc đẩy sự hợp tác cùng phát triển. Quan hệ giữa ASEAN và Việt Nam dần dần tiến triển, song do nhiều lí do, nhất là “vấn đề Campuchia” nên hai bên càng ngày càng xa cách và chưa tiến tới phát triển cao hơn. Tuy trong khi thực hiện chính sách bao vây, cấm vận chóng Việt Nam, một vài nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á như Inđônêsia, Malaixxia, vẫn duy trì đối thoại với Việt Nam và các nước Đông Dương qua con đường chính thức và không chính thức nhằm tìm cách giải quyết vấn đề Campuchia và bình thường hóa tình hình ở Đông Nam Á.

Sau công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, đổi mới chính sách đối ngoại, Việt Nam tiếp tục chủ trương rút quân khỏi Campuchia. Trước đó từ năm 1982, hằng năm, một bộ phận quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia được rút về nước. Song các nước ủng hộ lực lược ba phái Khmer đối lập vin vào việc Viejt Nam theo yêu cầu của Campuchia tiếp tục bảo vệ xây dựng đất nước, chống sự phục hồi của các thế lực đã gây ra họa diệt chủng, để lấy cớ cấm vận và các hoạt động chống phá Việt Nam. Đòi Việt Nam rút quân là điều kiện tiên quyết để bình thường hóa. Trung Quốc là một trong số đó.[14] Ngày 11/10/1987, Bộ Quốc phòng Việt Nam và Campucha đã ra Thông cáo chung về việc rút quân tình nguyện Việt Nam ở Campuchia về nước đợt 6 vào tháng 11/1987. Ngày 26/5/1988, Việt Nam tuyên bố rút 5 vạn quân và Bộ tư lệnh Việt Nam tại Campuchia. Bên cạnh đó, Việt Nam không cho rằng việc giải quyết vấn đề Campuchia liên quan đến bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc.  Tuy nhiên, Trung Quốc không có thiện chí trong việc nối lại đàm phán.

Đồng thời, năm 1987, mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á (nhất là ASEAN) được cải thiện so với trước về “vấn đề Campuchia”. Ngày 29/7/1987, nhân chuyến thăng chính thức Việt Nam của Bộ trưởng bộ Ngoại giao Imdonesia, hai bên đã ra thông cáo chung, đánh dấu sự kết thúc của thời kì đối đầu giữa Việt Nam và ASEAN xung quanh “vấn đề Campuchia” và mở ra thời kì của những cuộc gặp gỡ trực tiếp giữa Hunsen và Sihanouk. Những thuận lợi này đã mở ra cho Việt Nam một hướng mới trong việc giải quyết “vấn đề Campuchia”: nếu chưa nối lại được đàm phán với Trung Quốc, thì Việt Nam có thể chuyển sang hợp tác với các nước ASEAN và cộng đồng quốc tế để tìm giải pháp cho “vấn đề Campuchia”. Để có được “cái nhìn” thân thiện như vậy, chúng ta không thể không nói đến việc Việt Nam đổi mới chính sách đối ngoại, nó là một khâu quan trọng và đóng vai trò to lớn.

Cũng như đã nói, trước sự hòa hoãn giữa hai siêu cường Liên Xô và Mĩ thì trong khu vực Đông Nam Á thì quan hệ căng thảng giữa hai khối ASEAN và Đông Dương không đem lại lợi ích gì cho bên nào, an ninh không được đảm bảo, kinh tế bị giảm sút; đồng thời, các nước trong khu vực đều nhìn nhận thấy rằng “kẻ đắc lợi tronng tình hình không ổn định ở khu vực chính là các nước lớn bên ngoài Đông Nam Á. Họ thấy rằng việc cô lập Việt Nam cũng có nghĩa là tự ràng buộc mình vào các nước lớn, trong khi mối đe dọa thực sự và lâu dài về lợi ích quốc gia không phải là từ phía Việt Nam. Và hơn thế nữa, cả hai phía còn có những lợi ích tương đồng về mặt an ninh, ổn định và phát triển kinh tế”[15].

Nắm được những điều kiện thuận lợi đó, cùng với công cuộc đổi mới toàn diện, tại đại hội VI năm 1986, với đường lối đối ngoại mở rộng, xác định nhiệm vụ hàng đầu là “tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc” xác định các phương hướng chính về đối ngoại, trong đó “Mở rộng quan hệ với tất cả các nước trên nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”[16]. Đến năm 1988, Bộ Chính trị ra nghị quyết nhấn mạnh chính sách “thêm bạn bớt thù”, đa dạng hóa quan hệ trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, cùng có lợi và chỉ ra những nhiệm vụ trước mắt cho ngoại giao, trong đó quan trọng nhất là bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và góp phần giải quyết vấn đề Campuchia. Tiếp đó, Đại hội VII và Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kì đổi mới năm 1991 đề ra chính sách “đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, không ngừng củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác truyền thống với các nước xã hội chủ nghĩa, các nước anh em trên bán đảo Đông Dương; phát triển với các nước Đông Nam Á, tích cực góp phần xây dựng khu vực này thành khu vực hòa bình và hợp tác, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, giúp đỡ lẫn nhau với các nước đang phát triển, mở rộng hợp tác, cùng có lợi với các nước phát triển”[17].

Trước tình hình đó, Bộ chính trị ra Nghị quyết 13 “về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”  ngày 20/5/1988 của Bộ Chính trị đã xác định: “vấn đề Campuchia phải đước giải quyết với trung Quốc, nhưng cho đến nay, Trung Quốc vẫn chưa muốn trực tiếp giải quyết với ta về “vấn đề Campuchia”. Vì vậy, ta cần tiếp tục kiên trì mở ra nhiều hướng khác (Hunsen –Sihanouk, Việt Nam – Indonesia, Việt Nam – Thái Lan, ASEAN – Đông Dương, Việt Nam – Mĩ),… để thúc đẩy và kéo Trung Quốc hay với các đối tác khác, thì việc giải quyết “vấn đề Campuchia” cũng phục vụ cho mục tiêu bình thường hóa với Trung Quốc, không nhằm chống lại Trung Quốc”[18]. Chủ trương nghị quyết 13 được các nước ASEAN đón nhận. Như vậy, quan hệ giữa Việt Nam với các nước ASEAN có lập trường cứng rắn nhất đã được cải thiện nhiều. Sự hợp tác giữa Việt Nam với ASEAN đã mở ra một hướng giải quyết mới cho “vấn đề Campuchia” mà không nhất thiết phải phụ thuộc vào việc Trung Quốc có chấp nhận đàm phán với Việt Nam hay không. Nhiều cuộc tiếp xúc, hội nghị bàn về “vấn đề Campuchia” liên tiếp diễn ra đến nhiều năm sau đó.

Về phần mình, Việt Nam tiếp tục rút quân còn lại ở Campuchia vào năm 1989, Mĩ không còn ủng hộ lực lượng Khmer Đỏ. Đến năm 1990, một vấn kiện khung để giải quyết “vấn đề Campuchia” và việc lập một Hội đồng tối cao bao gồm các phái Khmer và đại diện của Campuchia đã được 5 nước Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc thống nhất thông qua. Như vậy thì “vấn đề Cmpuchia” về mặt quốc tế đã “ngã ngũ”, việc giải quyết vấn đề này đến đây đã được chuyển sang cho các nước thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, vai trò của Việt Nam không còn quan trọng nữa. Đến ngày 23/10/1991, Hiệp định Paris về Campuchia được kí kết, “vấn đề Campuchia” –  vật cản lớn nhất trong quá trình bình thường hóa quan hệ Việt – Trung do Trung Quốc tạo ra – đã cđược dỡ bỏ. “Vấn đề Campuchia” đã khép lại, Trung Quốc không còn lí do nào gây khó dễ cho tiến trình bình thường hóa này.

  1. Biến cố Thiên An Môn năm 1989 và sự bao vây cấm vận của các nước đối với Trung Quốc

Sau cuộc “cách mạng văn hóa vô sản” (1966 – 1976), Trung Quốc bước vào thời kì ổn định, Đặng Tiểu Bình tiến hành cải cách (1978) với mục tiêu “bốn hiện đại hóa” về công nghiệp, quốc phòng, khoa học kĩ thuật và nông nghiệp. Những biện pháp cải cách đã tạo sự chuyển biến đáng kể trong nền kinh tế Trung Quốc. “Công cuộc cải cách kinh tế của Trung Quốc trải qua ba giai đoạn: 1978 – 1984, bước khởi đầu, lấy nông nghiệp làm khâu đột phá cho cải cách; 1984 – 1991, triển khai, trọng điểm là cải cách ở thành phố, khâu trung tâm là cải cách xí nghiệp quốc doanh; từ năm 1992 trở đi, xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Sau hơn 20 năm cải cách mở cửa (1978 – 1998) tốc độ tăng trưởng GDP đạt 9% trong khi thế giới chỉ đạt 3,7$/năm, thu nhập bình quân đầu người là 1022 USD”[19].

Do lấy kinh tế làm trọng tâm, cho nên chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong thời kì này cũng nhằm mục tiêu đó. Đồng thời, mối quan hệ giữa Trung Quốc với Mĩ và Liên Xô cũng từng bước thay đổi. Mặc dù, Mĩ và Trung Quốc đã tiến hành thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1979, nhưng vấn đề Đài Loan luôn là một một vấn đề xoay quanh giữa ngoại giao giữa hai quốc gia này. Mĩ luôn tỏ ra là “người hậu thuận” cho Đài Loan về mặt vũ khí, làm cho nơi đây vẫn giữ được sự “tự trị” đối với Trung Quốc. Điều này làm cho Trung Quốc thấy rằng không thể chỉ dựa vào đối tác chiến lược như Mĩ. Bên cạnh đó, thì từ năm 1982, Lên Xô đã tỏ ra mong muốn cải thiện mối quan hệ với Trung Quốc. Trung Quốc cũng phản ứng lại một cách lại thiện chí và tích cực chuẩn bị đối thoại. “Sự thay đổi của tình hình quốc tế cuối cùng cũng khiến Trung Quốc phải có những điều chỉnh lớn về chiến lược đối ngoại, xác lập chiến lược ngoại giao hòa bình, độc lập, tự chủ”[20].

Trong báo cáo của chính phủ tại Đại hội lần thứ XII Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1982 nên rõ “Chúng ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ. Chính sách này đồng nhất vói nghĩa vụ quốc tế cao cả là bảo vệ hòa bình thế giới thúc đẩy nhân loại tiến bộ mà chúng ta đang thưc hiện… Trung Quốc quyết không dựa dẫm vào bất kì một nước hay nhóm các quốc gia nào, quyết không khuất phục trước sức ép của bất kì nước lớn nào… xuất phát từ lợi ích căn bản của nhân dân Trung Quốc và nhân dân thế giới, vì vậy nó có căn cứ chiến lược lâu dài, toàn cục, không một sự việc nhất thời nào có thể thay đổi được, không một kẻ thủ nào có thể thao túng và kích động được”. Đây được xem nội dung cốt lỗi của chiến lược ngoại giao “hòa bình, độc lập, tự chủ của Trung Quốc.

Song, đến năm 1989, Trung Quốc xảy ra biến cố chính trị “Thiên An Môn” xảy ra từ tháng 4 đến tháng 6. “Đó là phong trào đông đảo thanh niên, sinh viên tụ tập tại quảng trường Thiên An Môn đòi quyền tự do dân chủ, cải cách giáo dục, thậm chí đòi thay đổi lãnh đạo, thay đổi chế độ. Nhiều trường đại học ở Bắc Kinh, Thượng Hải, Thiên Tân, Vũ Hán hưởng ứng mạnh mẽ bằng những cuộc mít tinh, biểu tình, lôi cuống nhiều tầng lớp nhân dân. Ngày 4 tháng 6, sự kiện Thiên An Môn xảy ra. Các nước phương tây lập tức lên tiếng phản đối, đồng loạt ban hành chính sách cấm vận đối với Trung Quốc”[21]. Chúng ta có thể thấy, ngày 5/6, chính phủ Mĩ ra lệnh dừng việc bán hàng hóa quân sự vho Trung Quốc, chấm dứt các cuộc tiếp xúc giữa các quan chức cao cấp của Mĩ với Trung Quốc, dừng các khoản cho vay, Thượng viện và Hạ viện Mĩ lần lượt thông qua dự luật trừng phạt Trung Quốc. Tình trạng bị cô lập trên thế giới trở thành một nhân tố thúc đẩy Trung Quốc tìm cách hòa dịu các nước và giải quyết các vấn đề quốc tế, trong đó có vấn đề bình thường hóa quan hệ với Việt Nam.

Bên cạnh đó sau sự biến Thiên An Môn, “Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng cải thiện và thắt chặt quan hệ với các nước láng giềng, đặc biệt là các nước Đông Nam Á, để tạo môi trường hòa bình, ổn định, tìm cơ hội thu hút đầu tư, thường mại, từng bước đưa đất nước thoát khỏi thế bị cô lập, tiến tới giải tỏa sự bế tắc trong quan hệ với Mĩ và phương Tây”[22]. Với “vấn đề Campuchia” đã được giải quyết, Việt Nam trở thành một nhân tố tích cực trong việc xây dựng một Đông Nam Á hòa bình và ổn định, còn Trung Quốc lại tăng cường, xung đột, gây căng thẳng ở biển Đông, trì hoãn bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Trước tình hình như vậy, quan hệ Trung Quốc với các nước Đông Nam Á đang đứng trước “một vực thẳm lớn”. Việc Trung Quốc từng bước cải thiện với các nước Đông Nam Á sau năm 1989 là điều cần thiết, vì từ năm 1987 quan hệ giữa Việt Nam với các nước ASEAN đã từng bước cải thiện. Trong chuyến thăm đến các nước khối ASEAN tháng 8/1990, thủ tướng Lý Bằng đã tuyên bố Trung Quốc sẽ sẵn sàng thương lượng và hợp tác về vấn đề Hoàng Sa và Trường Sa và sẽ bình thường háo quan hệ với Việt Nam để tạo ra môi trường hòa bình, ổn định cho khu vực.

  1. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước Đông Âu. Một trật tự thế giới mới đang hình thành

Tại các nước Đông Âu, cuộc khủng hoảng năng lượng năm 1973 đã tác động mạnh đến nền kinh tế. Bước sang những năm 80, các nước Đông Âu đề ra các chiến lược phát triển kinh tế – xã hội nhưng đều không thành công. Trong cuối những năm 1989 – 1990, chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở hầu hết các nước Đông Âu. Vào lúc này, ở Liên Xô cũng diễn ra một cuộc khủng hoảng trầm trọng về mọi mặt chính trị, kinh tế, xã hội. Nhà nước liên bang ngày càng bộc lộ những sai lầm, yếu kém của cơ chế quản lý, điều hành đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Liên bang Xô viết đứng trên bờ vực của sự tan rã. Đến năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ, dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế.

Sự tan rã của Liên Xô và sự sụp đổ các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu cũng đã kết thúc trật tự thế giới hai cực Yalta trong điều kiện hòa bình. Thế giới đang từng bước quá độ từ trật tự thế giới cũ sang trật tự thế giới mới theo chiều hướng đa cực, nhưng Mỹ cũng không còn giữ địa vị độc tôn như khi vừa kết thúc Thế chiến thứ hai. Những năm 1990 là giai đoạn mà các nước đi tìm định hướng chiếc lược mới của mình cho thời kỳ sau Chiến tranh Lạnh. Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hòa bình và hợp tác phát triển.

Các quốc gia, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của thế giới. Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh thủ vốn, kỹ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh.

Cách mạng Công nghiệp lần thứ ba bắt đầu khoảng 1969, khi có các tiến bộ về hạ tầng điện tử, máy tính và công nghệ kĩ thuật số trên nền tảng là sự phát triển của chất bán dẫn, siêu máy tính (thập niên 1960), máy tính cá nhân (thập niên 1970 và 1980) và Internet (thập niên 1990). Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông tin) tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc.

Sự phát triển của khoa học kĩ thuật đã tạo động lực cho kinh tế thế giới phát triển nhanh chưa từng có. Những thành tựu phát triển công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu,… là tiền đề cho các nước công nghiệp chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức, nền kinh tế mà giá trị được tạo ra với sự đón góp chủ yếu của chất xám tri thức mà Hoa Kỳ là nước được nhắc đầu tiên trong việc phát triển nền kinh tế tri thức này từ nửa sau thập niên 1990. Sự phát triển của nền kinh tế tri thức này là xu thế tất yếu của nền kinh tế hậu công nghiệp, góp phần tăng trưởng kinh tế chung của toàn thế giới và là đích nhắm của nền kinh tế thế giới. Sự phát triển của công nghệ thông tin còn góp phần tạo lập những mạng lưới gắn kết các mô hình kinh tế, các tổ chức xí nghiệp để tạo nên một không gian thông tin kết nối với nhau trong các hoạt động kinh tế và hợp tác quốc tế.

Cũng từ thập niên 80 của thế kỉ XX, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tạo ra những cơ hội và xung lực cho quá trình phát triển, đồng thời cũng đặt ra những thách thức gay gắt đối với tất cả các nước trước hết là các nước đang phát triển và chậm phát triển: có thể xói mòn chủ quyền quốc gia, đe dọa ổn định kinh tế – xã hội, làm sâu sắc sự chênh lệch giàu nghèo,… Xuất phát điểm có thể được cho là sự hình thành và phát triển không ngừng của xu hướng hợp tác phát triển. Cùng với nó là hinh thành nên các liên kết, cộng đồng, cũng như sự mở rộng và phát triển của tổ chức quốc tế, các mối quan hệ song phương,… đã tạo cơ sở pháp lý cho sự thúc đẩy quan hệ hợp tác cung có lợi phát triển. Ở Châu Âu, EU cũng đang cũng cố và mở rộng theo hướng hình thành “siêu quốc gia”, các kế hoạch cũng cố SNG của Nga và các nước thành viên là nước Cộng Hòa của Liên Xô trước đây, sự lớn mạnh của khu mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA),…

Nhìn chung, những tác động từ bên ngoài trong thời kì này tác động mạnh mẽ đến mối quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc với Liên Xô, Mĩ và các quốc gia Đông Nam Á mà chủ yếu là ASEAN điều bị tác động qua lại giữa quan hệ Liên Xô – Mĩ, ASEAN – Đông Dương,… Vấn đề Campuuchia nổi lên một cách mạnh mẽ từ cuối thập niên 70 đã làm tình hình đối ngoại giữa Việt Nam với các nước, trong đó có Trung Quốc trở nên xấu đi. Trung Quốc luôn lấy yêu cầu đòi Việt Nam rời khỏi Campuchia để “nối lại đàm phán”. Quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc trong thời kì cũng nổi lên nhiều vấn đề, làm cho mâu thuẫn giữa hai bên trở nên sâu sắc hơn.

Chú thích:

[1] GS. Vũ Dương Ninh. (2014). Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam 1940 – 2010. Hà Nội: NXB. Chính trị quốc gia, tr.262-263.

[2] Nguyễn Thị Mai Hoa. (2013, 08 11). Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Được truy lục từ amgiautrithuc.blogspot.com: http://lamgiautrithuc.blogspot.com/2013/08/quan-he-viet-nam-trung-quoc-trong-khang.html

[3] Sở Thụ Long, Kim Uy (chủ biên). (2013). Chiến lược và chính sách ngoại giao của Trung Quốc (sách tham khảo nội bộ). Hà Nội: NXB. Chính trị quốc gia sự thật, tr.56.

[4] Sở Thụ Long, Kim Uy (chủ biên). (2013). Sđd, tr.159.

[5] Sở Thụ Long, Kim Uy (chủ biên). (2013). Sđd, tr.91.

[6] GS. Vũ Dương Ninh. (2014). Sđd, tr.272.

[7] Sở Thụ Long, Kim Uy (chủ biên). (2013). Sđd, tr.159.

[8] Sở Thụ Long, Kim Uy (chủ biên). (2013). Sđd, tr.92.

[9] Sở Thụ Long, Kim Uy (chủ biên). (2013). Sđd, tr.162.

[10] Sở Thụ Long, Kim Uy (chủ biên). (2013). Sđd, tr.309.

[11] Sở Thụ Long, Kim Uy (chủ biên). (2013). Sđd, tr.308.

[12] Nguyễn Đình Bin (chủ biên). (2015). Ngoại giao Việt Nam 1945 – 2000. Hà Nội: NXB. Chính trị quốc gia, tr.300.

[13] GS. Vũ Dương Ninh. (2017). Cách mạng Việt Nam trên bàn cờ quốc tế: lịch sử và vấn đề (sách tham khảo). Hà Nội: NXB. Chính trị quốc gia sự thật, tr.209.

[14] Nguyễn Đình Bin (chủ biên). (2015). Sđd, tr.329.

[15] GS. Vũ Dương Ninh. (2014). Sđd, tr.282.

[16] Nguyễn Đình Bin (chủ biên). (2015). Sđd, tr.324.

[17] Nguyễn Đình Bin (chủ biên). (2015). Sđd, tr.326.

[18] TS.Phạm Phúc Vĩnh. (2016). Quan hệ Việt Nam – Trung Quốc (1986 – 2006). NXB. Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr.7.

[19] GS. Vũ Dương Ninh. (2014). Sđd, tr.268.

[20] Sở Thụ Long, Kim Uy (chủ biên). (2013). Sđd, tr.162.

[21] GS. Vũ Dương Ninh. (2017). Sđd, tr.202.

[22] TS.Phạm Phúc Vĩnh. (2016). Sdd, tr.15.