Các khu bảo tồn có vai trò gì trong việc bảo vệ đa dạng sinh học
Theo dõi KTMT trên Show
Miền BắcMiền Nam Đa dạng sinh học có vai trò thiết yếu trong phát triển kinh tế - xã hội, cân bằng hệ sinh thái, thích ứng biến đổi khí hậu. Đặc biệt, bảo tồn đa dạng sinh học có ý nghĩa rất quan trọng cho mục tiêu phát triển bền vững.Đa dạng sinh học là sự phong phú về nguồn gen, về giống, loài sinh vật và hệ sinh thái trong tự nhiên. Việc bảo vệ đa dạng sinh học là việc làm cấp thiết mà mỗi vùng quốc gia lãnh thổ nên có những biện pháp để phát triển. Bên cạnh đó, việc thực hiện hiệu quả các cam kết quốc tế về bảo tồn thiên nhiên cũng là điều kiện cần và đủ để việc nâng cao quản lý nguồn tài nguyên đa dạng sinh học được phát triển tốt nhất. Mất đa dạng sinh học và các dịch vụ hệ sinh thái là một vấn đề phát triển, thường tác động nhiều nhất đến các nước nghèo nhất. Thiên nhiên không cần chúng ta, nhưng chúng ta cần thiên nhiên. Bên cạnh việc phục hồi các hệ sinh thái bị suy thoái thì việc bảo vệ rừng hiện có và bảo tồn đa dạng sinh học, đặc biệt đối với các loài thực vật, động vật, nấm vi sinh vật quý hiếm cũng là một giải pháp quan trọng. Nó giúp phục hồi nguồn gen trong tự nhiên, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội hiện tại và tương lai. Việt Nam là một trong những quốc gia có hệ sinh thái đa dạng sinh học và quan trọng nhất trên thế giới. (Ảnh minh họa)Giải pháp để phục hồi hệ sinh thái hiệu quả là “dựa vào thiên nhiên” trong phát triển kinh tế - xã hội trên nguyên tắc thuận thiên với thiên nhiên. Sống hài hòa với thiên nhiên trong quá trình xây dựng các quy hoạch cấp quốc gia, cấp vùng, cấp tỉnh. Mở rộng việc thành lập các khu bảo tồn thiên nhiên, các hành lang xanh - hành lang đa dạng sinh học. Theo đó, đa dạng sinh học được xem xét theo 3 mức độ: Đa dạng sinh học ở cấp loài bao gồm toàn bộ các sinh vật sống trên Trái Đất, từ vi khuẩn đến các loài thực, động vật và các loài nấm. Ở cấp quần thể đa dạng sinh học bao gồm sự khác biệt về gen giữa các loài, khác biệt về gen giữa các quần thể sống cách ly nhau về địa lý cũng như khác biệt giữa các cá thể cùng chung sống trong một quần thể. Đa dạng sinh học còn bao gồm cả sự khác biệt giữa các quần xã mà trong đó các loài sinh sống và các hệ sinh thái, nơi mà các loài cũng như các quần xã sinh vật tồn tại và cả sự khác biệt của các mối tương tác giữa chúng với nhau. Các nhà khoa học đã xác định và mô tả được gần 1.413.000 loài, chủ yếu là các loài côn trùng và thực vật. Phần lớn các loài côn trùng, vi khuẩn và nấm vẫn chưa được mô tả và thậm chí số lượng các loài có thể đạt tới 5 triệu loài. Những hiểu biết về loài còn rất hạn chế vì các nhà phân loại học không chú ý đến một số loài như giun, côn trùng và các loài nấm sống trong đất, những loài côn trùng sống trong tán lá rậm rạp trên tầng lá cây cao của rừng nhiệt đới, chúng thường rất nhỏ và rất khó nghiên cứu. Hàng trăm ngàn nhóm loài chỉ được biết đến một cách sơ sài. Những nhà vi sinh vật học chỉ biết được khoảng 4.000 loài vi khuẩn vì rất khó nuôi cấy và phân loại những mẫu vật này. Việc lấy mẫu khó khăn đã cản trở việc nghiên cứu, tìm hiểu về sự đa dạng sinh học trong môi trường đại dương, nơi rất giàu có về đa dạng sinh học. Hiện còn nhiều loài sinh vật vẫn chưa được loài người phát hiện. Việt Nam là một trong những quốc gia có hệ sinh thái đa dạng sinh học và quan trọng nhất trên thế giới, cả về hệ sinh thái biển và trên cạn (đặc biệt là hệ sinh thái rừng và rừng ngập mặn). Theo Văn phòng UNESCO Việt Nam, 238 khu sinh thái ưu tiên đã được công nhận trên toàn thế giới, trong đó có 6 khu được đặt tại Việt Nam. Một số khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Nam được UNESCO công nhận về giá trị tự nhiên phổ quát duy nhất của chúng, bao gồm 3 di sản thiên nhiên, 2 công viên địa chất toàn cầu, 9 khu bảo tồn sinh quyển và 2 khu đất ngập nước nằm trong 2 khu dự trữ sinh quyển thế giới. Thùy Linh (T/h) Khu bảo tồn thiên nhiên là vùng đất hay vùng biển đặc biệt được dành để bảo vệ và duy trì tính đa dạng sinh học, các nguồn tài nguyên thiên nhiên, kết hợp với việc bảo vệ các tài nguyên văn hoá và được quản lý bằng pháp luật hoặc các phương thức hữu hiệu khác[1]. Theo nghĩa hẹp, khu bảo tồn thiên nhiên còn gọi là khu dự trữ tự nhiên và khu bảo toàn loài sinh cảnh, là vùng đất tự nhiên được thành lập nhằm mục đích đảm bảo diễn thế sinh thái tự nhiên. Mục đích của các khu bảo tồn thiên nhiênBản đồ thế giới với tổng tỷ lệ phần trăm của khu vực được bảo hộ theo mỗi quốc gia
Khu bảo tồn thiên nhiên là những khu được bảo vệ nghiêm ngặt, chỉ dành cho các hoạt động nghiên cứu khoa học, đào tạo và quan trắc môi trường. Các khu bảo tồn thiên nhiên này cho phép gìn giữ các quần thể của các loài cũng như các quá trình của hệ sinh thái không hoặc ít bị nhiễu loạn. Yêu cầu đối với khu bảo tồn thiên nhiên
Phân loạiKhu vực núi Bogd Khan Uul, cao 2261 m tại phía nam thủ đô Ulaanbaatar, Mông Cổ là khu bảo tồn đầu tiên trên thế giới Vườn quốc gia Yellowstone, Mỹ là khu bảo tồn thứ nhì trên thế giới, từ năm 1872, bao gồm các lĩnh vực được phân loại như là một công viên quốc gia (loại II) và một khu vực quản lý loài/sinh cảnh (loại IV).Theo IUCN (1994), hệ thống phân hạng khu bảo tồn thiên nhiên gồm có[2]:
Khu bảo tồn thiên nhiên nghiêm ngặt/Khu bảo vệ động vật hoang dãKhu bảo tồn thiên nhiên nghiêm ngặtĐịnh nghĩa[3]Là khu đất và/hoặc biển có hệ sinh thái nổi bật hoặc tiêu biểu, có những nét đặc trưng về sinh học hay địa chất học và/hoặc các loài chủ yếu dành cho nghiên cứu khoa học và/hoặc giám sát môi trường. Mục tiêu quản lý[3]
Khu bảo tồn thiên nhiên hoang dãĐịnh nghĩaLà một khu đất có diện tích lớn và/hoặc vùng biển chưa bị hoặc ít bị tác động, còn giữ được các đặc điểm và ảnh hưởng của tự nhiên, được bảo vệ và quản lý nhằm mục đích bảo tồn các điều kiện tự nhiên. Mục tiêu quản lý
Vườn quốc giaBài chi tiết: Vườn quốc gia Định nghĩaVùng đất liền và /hoặc biển tự nhiên được hoạch định để (a) bảo vệ tính toàn vẹn của một hay nhiều hệ sinh thái cho các thế hệ hôm nay và mai sau, (b) không được khai thác hay chiếm đoạt làm tổn hại đến mục tiêu đã hoạch định và (c) để làm cơ sở cho các hoạt động vui chơi, giải trí, khoa học, giáo dục, tinh thần của các du khách, tất cả các hoạt động này phải hài hoà giữa văn hoá và môi trường. Mục tiêu quản lý
Khu bảo tồn thắng cảnh tự nhiênĐịnh nghĩaLà nơi có một hoặc nhiều đặc điểm văn hoá và tự nhiên có giá trị nổi bật hoặc độc đáo vì chúng quý hiếm, có tính đặc trưng giá trị thẩm mỹ hay văn hoá. Mục tiêu quản lý
Khu bảo tồn Loài/Sinh cảnhVườn quốc gia Jaldapara ở chân núi Himalaya, Tây Bengal là khu vực bảo tồn loài/sinh cảnh (loại IV)Định nghĩaLà diện tích đất và/hoặc biển được khoanh vùng để tập trung quản lý nhằm duy trì các sinh cảnh và/hoặc đáp ứng các nhu cầu của các loài. Mục tiêu quản lý
Khu bảo tồn cảnh quan đất liền/cảnh quan biểnĐịnh nghĩaLà diện tích đất có biển và bờ biển, nơi qua bao năm tháng sự tương tác giữa con người và tự nhiên đã tạo nên một vùng đất có tính đặc thù riêng cùng với nó là những giá trị văn hoá, sinh thái và/hoặc thẩm mỹ và thông thường có tính đa dạng sinh học cao. Bảo vệ sự toàn vẹn của mối tương tác lâu đời này là điều sống còn để bảo vệ, duy trì và phát triển khu bảo tồn này. Mục tiêu quản lý
Khu bảo tồn kết hợp sử dụng bền vững tài nguyên thiên nhiênĐịnh nghĩaLà khu có các hệ sinh thái tự nhiên hầu như chưa bị tác động, được quản lý để bảo đảm bảo vệ được lâu dài và duy trì tính đa dạng sinh học, đồng thời bảo đảm cung cấp một cách bền vững các sản phẩm tự nhiên và dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của cộng đồng. Mục tiêu quản lý
Khu bảo tồn thiên nhiên trên thế giớiNăm 1997, trên toàn thế giới có khoảng 30.000 khu bảo tồn thiên nhiên, chiếm hơn 132 triệu ha, 8,84% diện tích đất liền. Đến năm 2004, trên thế giới có hơn 100.000 khu bảo tồn thiên nhiên, chiếm 11,7% diện tích đất liền toàn thế giới. Vườn quốc gia chiếm số lượng và diện tích lớn nhất, tiếp đến là các khu bảo tồn loài và sinh cảnh[2]. Khu bảo tồn thiên nhiên ở Việt Namxem thêm Khu bảo tồn tại Việt Nam và Danh sách khu bảo tồn Việt Nam Khu dự trữ sinh quyển rừng ngập mặn Cần GiờỞ Việt Nam, vườn quốc gia Cúc Phương là khu bảo tồn thiên nhiên đầu tiên được thành lập vào năm 1962. Đến năm 1998, đã có danh mục 105 khu bảo tồn thiên nhiên, chiếm diện tích 2.092.466 ha, trong đó có 10 vườn quốc gia, 61 khu dự trữ thiên nhiên, bảo vệ các hệ sinh thái và các loài và 34 khu di tích văn hoá và lịch sử.[4] Đến năm 2008, hệ thống khu bảo tồn thiên nhiên của Việt Nam gồm 164 khu rừng đặc dụng (bao gồm 30 Vườn quốc gia, 69 khu dự trữ thiên nhiên, 45 khu bảo vệ cảnh quan, 20 khu nghiên cứu thực nghiệm khoa học) và 03 khu bảo tồn biển chứa đựng các hệ sinh thái, cảnh quan đặc trưng với giá trị đa dạng sinh học tiêu biểu cho hệ sinh thái trên cạn, đất ngập nước và trên biển[2]. Các loại hình khu bảo tồn thiên nhiên khácMột số loại hình khu bảo tồn thiên nhiên khác được ghi nhận trong danh sách của Liên hợp quốc mà thực chất là những danh hiệu khu vực và quốc tế. Khu Dự trữ sinh quyển thế giớiBài chi tiết: Khu dự trữ sinh quyển thế giới Khái niệm khu dự trữ sinh quyển đã được UNESCO phê chuẩn năm 1995. Đây là nơi tạo điều kiện cho sự gặp gỡ giữa con người và thiên nhiên, hài hoà giữa nhu cầu phát triển và mục tiêu bảo tồn. Các khu dự trữ sinh quyển được xem là nơi lý tưởng để thử nghiệm và áp dụng các cách tiếp cận phát triển bền vững, tiếp cận hệ sinh thái, trong đó có sự hài hoà giữa con người và thiên nhiên, giữa các mục tiêu kinh tế, xã hội và môi trường, qua đó đảm bảo các yếu tố cho sự phát triển bền vững[2]. Hiện tại Việt Nam, đến năm 2009 đã có 8 khu dự trữ sinh quyển thế giới được UNESCO (xem thêm: Khu dự trữ sinh quyển tại Việt Nam). Di sản thiên nhiên thế giớiBài chi tiết: Di sản thế giới § Di sản thiên nhiên thế giới Các khu Di sản thiên nhiên thế giới thường trùng với các khu bảo tồn thiên nhiên. Hiện tại Việt Nam có 2 khu Di sản thiên nhiên thế giới là Vịnh Hạ Long và Khu Phong Nha – Kẻ Bàng (trùng với Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng). Khu RAMSARCác nước tham gia Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế (viết tắt là RAMSAR) thành lập các khu bảo tồn thiên nhiên và sử dụng bền vững các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế được Công ước công nhận và đưa vào Danh sách các khu RAMSAR của thế giới. Hiện tại Việt Nam có 5 khu RAMSAR, đó là khu Xuân Thủy (tỉnh Nam Định) và khu Bầu Sấu thuộc Vườn quốc gia Cát Tiên, khu Ba Bể (tỉnh Bắc Kạn), vườn quốc gia Tràm Chim (tỉnh Đồng Tháp)và vườn quốc gia Mũi Cà Mau.Và Sắp tới sẽ là khu Côn Đảo Khu bảo tồn biển (MPA)Trên thế giới, các khu bảo tồn biển đã xuất hiện từ lâu. Năm 1913, Khu bảo tồn biển đầu tiên được thành lập tại Công viên quốc gia Cabrillo, California và đến cuối năm 2013, Hoa Kỳ đã có hơn 1.700 khu bảo tồn biển. Theo WWF, tính đến 2015 đã có 4% diện tích biển được bảo tồn. Tại Việt Nam, khu bảo tồn biển được định nghĩa là loại hình khu bảo tồn thiên nhiên, được xác lập ranh giới trên biển, đảo, quần đảo, ven biển để bảo vệ đa dạng sinh học biển. Chức năng bảo vệ đa dạng sinh học biển luôn được nhấn mạnh như một chức năng quan trọng nhất của các khu bảo tồn biển bởi chúng tạo môi trường, sinh cảnh thuận lợi để các loài cá, sinh vật sinh trưởng và phát triển. Bên cạnh đó, việc hình thành và phát triển các khu bảo tồn biển còn giúp tăng lượng cá đánh bắt được cả về số lượng và chất lượng ở các ngư trường xung quanh, tạo sinh kế ổn định cho người dân địa phương, đồng thời góp phần chống lại các tác động tiêu cực của biến đổi khí hậu và các thảm họa thiên nhiên trên biển. Định hướng mở rộng khu bảo tồn biển: Năm 2010, Thủ tướng Chính phủ đã việc phê duyệt Quy hoạch hệ thống khu bảo tồn biển Việt Nam đến năm 2020. Nghị quyết TW 36 với mục tiêu đến hết giai đoạn 2020-2025 thiết lập và đưa vào hoạt động 16 khu bảo tồn biển và đến năm 2030, có ít nhất 4% diện tích vùng biển Việt Nam nằm trong các khu bảo tồn biển và khoảng 30% diện tích của từng khu bảo tồn biển được bảo vệ nghiêm ngặt. Hiện nay đến hết 2019 Việt Nam mới có 11/16 khu bảo tồn biển được thành lập, gồm: Cát Bà, Bạch Long Vỹ, Cồn Cỏ, Cù Lao Chàm, Vịnh Nha Trang, Núi Chúa, Hòn Cau, Côn Đảo, Phú Quốc. Các khu bảo tồn này đã phát huy vai trò quan trọng trong việc bảo vệ sinh thái – môi trường biển, thúc đẩy phát triển kinh tế biển, cải thiện sinh kế của cộng đồng ngư dân các địa phương ven biển và cung cấp cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh bảo vệ an ninh chủ quyền quốc gia trong phạm vi vùng đặc quyền kinh tế của nước ta, đồng thời giải quyết các vấn đề môi trường xuyên biên giới trong vùng Biển Đông mà các nước trong khu vực đang rất quan tâm. Danh sách các khu bảo tồn biển (đã được duyệt)
Xem thêm
Chú thích
5. Dư Văn Toán (2013), Hiện trạng mô hình hợp tác quốc tế về bảo tồn thiên nhiên tại các vùng biển cận biên và một số gợi ý ban đầu cho Việt Nam; Tạp chí MT, số 9/2013. http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-vietnam/2102-hin-trng-mo-hinh-hp-tac-quc-t-v-bo-tn-thien-nhien-ti-cac-vung-bin-cn-bien-va-mt-s-gi-y-ban-u-cho-vit-nam 6. Emily (2014), Marine Protected Areas: A Timeline of MPAs in the U.S (http://marinesciencetoday.com/2014/01/14/marine-protected-areas-a-timeline-of-mpas-in-the-u-s/). 7.http://wwf.panda.org/what_we_do/how_we_work/our_global_goals/oceans/solutions/protection/protected_areas/ Liên kết ngoài
Các khu bảo tồn trên biển Việt Nam
http://nghiencuubiendong.vn/nghien-cuu-vietnam/2102-hin-trng-mo-hinh-hp-tac-quc-t-v-bo-tn-thien-nhien-ti-cac-vung-bin-cn-bien-va-mt-s-gi-y-ban-u-cho-vit-nam
Lấy từ “https://vi.wikipedia.org/w/index.php?title=Khu_bảo_tồn_thiên_nhiên&oldid=69362451” |