Cách mạng thổ địa là gì

Đâu là điểm khác biệt của “tư sản dân quyền cách mạng” trong Cương lĩnh chính trị (2/1930) với “cách mạng tư sản dân quyền” trong Luận cương chính trị (10/1930)?


A.

Gồm nhiệm vụ dân tộc và dân chủ. 

B.

Nhiệm vụ dân chủ được đề cao.

C.

Chỉ có nhiệm vụ giải phóng dân tộc. 

D.

Chỉ có nhiệm vụ cách mạng ruộng đất.

Sự thống nhất cơ bản giữa Chánh cương và Luận cương của Đảng năm 1930 (PGS.TS Ngô Đăng Tri)

Cương lĩnh chính trị là cơ sở để vạch ra các tiềm năng, trách nhiệm, xác lập chủ trương, giải pháp tập hợp lực lượng và tổ chức triển khai đấu tranh triển khai các tiềm năng và trách nhiệm chính trị đơn cử thích ứng với điều kiện kèm theo và tình thế chính trị của mỗi tiến trình đấu tranh chính trị ( [ 1 ] ). Đảng Cộng sản Việt Nam từ ngày xây dựng đến nay đã có bốn cương lĩnh chính trị ( kể cả Cương lính bổ trợ, tăng trưởng năm 2011 ), một cương lĩnh ruộng đất và một số ít văn kiện khác có tính cương lĩnh về văn hóa truyền thống, về quân sự chiến lược

Bạn đang đọc: Thổ địa cách mạng là cách mạng gì

Các cương lĩnh chính trị của Đảng có mối liên hệ thừa kế và tăng trưởng triển theo hướng ngày càng hoàn hảo và khá đầy đủ hơn. Tuy nhiên, lâu nay có một số ít quan điểm cho rằng giữa Chánh cương vắn tắt và Luận cương chánh trị của Đảng năm 1930 có xích míc với nhau, cái sau phê phán cái trước và thụt lùi so với cái trước. Để góp thêm phần làm rõ yếu tố này, chúng tôi trình diễn mối liên hệ giữa hai văn kiện ấy qua sáu phương diện có đặc thù chung, cơ bản là : 1 ) Mục đích và đường lối kế hoạch ; 2 ) Nhiệm vụ kế hoạch ; 3 ) Lực lượng cách mạng đa phần ; 4 ) Giai cấp chỉ huy ; 5 ) Phương pháp cách mạng ; 6 ) Quan hệ liên minh quốc tế .

1.1. Về mục tiêu và đường lối kế hoạch

Hiểu theo nghĩa đơn thuần, cương lĩnh là văn bản xác lập mục tiêu kế hoạch và con đường đi tới mục tiêu ấy ( cương là dây, lĩnh là đỉnh ). Chánh cương vắn tắt và Luận cương chánh trịđều có mục tiêu như nhau, đều chủ trương đưa cách mạng tăng trưởng trải qua hai tiến trình : cách mạng tư sản kiểu mới và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng tư sản kiểu mới hay cách mạng tư sản dân quyền có mục tiêu là đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập dân tộc bản địa và dựng nên chính quyền sở tại dân chủ, đưa ruộng đất cho dân cày. Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng tiếp nối cách mạng tư sản dân quyền, có mục tiêu là kiến thiết xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản để giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người .

Chánh cương vắn tắt ghi : Đảng chủ trương làm tư sản dân quyền c. m và thổ địa c. m để đi tới xã hội cộng sản. Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến. Làm cho nước Nam được trọn vẹn độc lập. Dựng ra chính phủ nước nhà công nông binh Thâu hết sản nghiệp lớn của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho nhà nước công nông binh quản trị .

Thâu hết ruộng đất của đề quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo ( [ 2 ] ). Luận cương chánh trị ghi : Trong lúc đầu, cuộc cách mạng Đông Dương sẽ là một cuộc cách mạng tư sản dân quyền Tư sản dân quyền cách mạng là thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng. Tư sản dân quyền cách mạng được thắng lợi, chánh phủ công nông đã dựng lên rồi, thì công nghiệp được tăng trưởng, các tổ chức triển khai vô sản được thêm mạnh xứ Đông Dương sẽ nhờ vô sản giai cấp chuyên chánh các nước giúp sức cho mà tăng trưởng, bỏ lỡ thời kỳ tư bổn mà tranh đấu thẳng lên con đường xã hội chủ nghĩa ( [ 3 ] ) .

Nghĩa là tư tưởng độc lập dân tộc bản địa gắn liền với chủ nghĩa xã hội là cốt lõi của cả hai cương lĩnh chứ không chỉ ở riêng của một cương lĩnh nào .

Tuy nhiên, cả hai cương lĩnh và cả trong Lời lôi kéo nhân ngày xây dựng Đảng của Nguyễn Ai Quốc đều cho rằng chính thể cách mạng của tiến trình đầu là nhà nước công nông binh. Đó là chủ trương không tương thích với thực tiễn Nước Ta. Có quan điểm cho rằng quy mô nhà nước công nông binh, chính quyền sở tại Xô viết ở Nghệ Tĩnh, các hội đồng đỏ, nông hội đỏ, tự vệ đỏ và khẩu hiệu trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rễlà mẫu sản phẩm của Luận cương chánh trị. Y kiến ấy là không đúng, không khách quan. Vì Luận cương chánh trị đến tháng cuối tháng 10-1930 mới được trải qua, trong khi đó, cao trào cách mạng 1930 – 1931 và Xô viết Nghệ Tĩnh đến tháng 10-1930 đã tới đỉnh điểm và chuyển sang sang thoái trào. Chủ trương xây dựng chính phủ nước nhà công nông binh nếu là giáo điều, tả khuynh thì đó điều đã ghi ở Chánh cương vắn tắt và trong Lời lôi kéo nhân ngày xây dựng Đảng của Nguyễn Ái Quốc .

1.2. Về nhiệm vụ chiến lược

Cả hai cương lĩnh đều xác lập trách nhiệm kế hoạch của cách mạng Nước Ta trong quy trình tiến độ đầu, quá trình cách mạng tư sản dân quyền là đánh đổ đế quốc và phong kiến, làm cho nước Nước Ta được độc lập, nhân dân được tự do, đưa ruộng đất cho dân cày nghèo

Chánh cương vắn tắt ghi : A. Về phương diện xã hội : a ) Dân chúng được tự do tổ chức triển khai ; b ) Nam nữ bình quyền ; c ) Phổ thông giáo dục theo công nông hóa. B. Về phương diện chính trị : a ) Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến ; b ) Làm cho nước Nam trọn vẹn độc lập ; c ) Dựng ra nhà nước công nông binh ; d ) Tổ chức ra quân đội công nông. C Về phương diện kinh tế tài chính : a ) thủ tiêu hết các thứ quốc trái ; b ) Thâu hết sản nghiệp lớn ( như công nghiệp, vận tải đường bộ, ngân hàng nhà nước, v. n ) của tư bản đế quốc chủ nghĩa Pháp để giao cho nhà nước công nông binh quản trị ; c ) Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo ( [ 4 ] ). Luận cương chánh trị ghi : Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là : a ) Đánh đổ đề quốc chủ nghĩa Pháp, phong kiến và địa chủ ; b ) Lập chánh phủ công nông ; g ) Xứ Đông Dương trọn vẹn độc lập ; h ) Lập quân đội công nông ( [ 5 ] ) .

Nghĩa là cả hai cương lĩnh đều xác lập cách mạng Nước Ta trong tiến trình đầu là tư sản dân quyền và thổ địa cách mạng. Tư sản dân quyền cách mạng là cách mạng về phương diện chính trị, thổ địa cách mạng là cách mạng về phương diện kinh tế tài chính. Hai trách nhiệm kế hoạch ấy quan hệ mật thiết với nhau hợp thành cách mạng tư sản kiểu mới. Không có cương lĩnh nào nói chống đế quốc là số 1 hay chống phong kiến là số 1 như một số ít khu công trình chứng minh và khẳng định. Cũng không có cương lĩnh nào nói yếu tố ruộng đất là là thứ hai, là để Giao hàng trách nhiệm dân tộc bản địa. Tuy nhiên, theo cách nói đánh đổ Đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn vua quan, phong kiến địa chủ thì cần hiểu là cả hai cương lĩnh đều coi tiềm năng, trách nhiệm chống đế quốc là số 1 .

Luận cương chánh trị ghi : Sự cốt yếu của tư sản dân quyền cách mạngthì một mặt là phải tranh đấu để đánh đổ các di tích lịch sử phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tiền tư bổn và để thực hành thực tế thổ địa cách mạngcho triệt để, một mặt nữa là tranh đấu để đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp, làm cho Đông Dương trọn vẹn độc lập. Hai mặt tranh đấu có liên lạc mật thiết với nhau, vì có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi ; mà có phá vỡ chính sách phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa ( [ 6 ] ). Có quan điểm cho rằng ý niệm này là sai vì đặt hai trách nhiệm ngang nhau, thậm chí còn còn cho đó là đưa trách nhiệm chống phong kiến lên trên trách nhiệm giải phóng dân tộc bản địa. Thức chất, đây là nói về mối quan hệ biện chứng giữa hai trách nhiệm kế hoạch của một cuộc cách mạng có tiềm năng kép chứ không hẵn là nguyên tắc coi hai trách nhiệm phải thực thi song song trong mọi tiến trình cách mạng dân tộc bản địa dân chủ hay đưa trách nhiệm dân chủ lên số 1 .

Nói cách khác, Vấn đề thổ địa là cái cốt của cách mạng tư sản dân quyền là nói về phương diện kinh tế tài chính của cách mạng tư sản dân quyền, do đó không phải là đưa trách nhiệm phản đế lên số 1. Luận cương chánh trị coi yếu tố ruộng đất là cái cốt chứ không coi là trách nhiệm số 1 của cách mạng tư sản dân quyền nên về điểm này không hề phê phán là sai về chỉ huy kế hoạch hay đường lối kế hoạch .

Ngay sau Hội nghị Trung ương tháng 10-1930, trong Thư gửi Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày 13-11-1930, Ban Phương Đông thuộc Bộ Viễn Đông của Quốc tế Cộng sản, có ghi : Cách mạng Đông Dương trong quy trình tiến độ lúc bấy giờ là một cuộc cách mạng dân chủ tư sản, chống đế quốc. Những trách nhiệm trước mắt là : giải phóng khỏi ách thống trị và áp bức của đế quốc và giành độc lập trọn vẹn. Đồng thời triển khai cuộc cách mạng điền địa triệt để, không thỏa hiệp và xóa bỏ mọi quan hệ và di tích lịch sử phong kiến và nửa phong kiến. Đông lực của cách mạng Đông Dương là : giai cấp vô sản và giai cấp nông dân Đồng minh trực tiếp của bọn đế quốc là : địa chủ, phong kiến, kỳ hào và giai cấp tư sản dân tộc bản địa ( [ 7 ] ). Nếu nói Luận cương chánh trị là tả trong yếu tố xác lập lực lượng cách mạng và quân địch cách mạng thì Thư này của Ban Phương Đông sinh ra muộn hơn cũng mắc hạn chế tựa như .

Điều đáng quan tâm là trong tiến trình này có một văn kiện đề cập đến cả hai cương lĩnh. Đó là Chỉ thị của Trung ương Thường vụ về yếu tố thành lập Hội Phản đế liên minh ngày 18-11-1930. Chỉ thị có đoạn : Chánh cương sách lược của cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương đã nghiên cứu và phân tích : Giai cấp công nhân không liên minh được với giai cấp nông dân là lực lượng tất yếu của cách mạng thì không đánh đổ được đế quốc Pháp và tụi phong kiến phản cách mạng trong nước ; trái lại đông minh với nông dân mà không có khẩu hiệu chia đất cho dân cày, thì dân cày sẽ không hưởng ứng. Như vậy cũng không làm được cuộc cách mạng tư sản dân quyền thành công xuất sắc .

Trên đó là hai động lực chính cơ bản cho sự sắp xếp hàng ngũ cách mạng ; còn mặt khác nữa là giai cấp vô sản chỉ huy cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức triển khai được toàn dân lại thành một lực lượng thật đông, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công xuất sắc ( rộng là toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến làm tay sai phản động hèn kém ; kín là đặt để công nông trong bức tường thành dân tộc bản địa phản đế bát ngát ) .

Từ trước các chiến sỹ chưa rõ yếu tố ấy, mà nay cũng vẫn mập mờ, nên dù tổ chức triển khai cách mạng vẫn đơn thuần công nông và là một sắc tố nhất định – như : Công hội đỏ, Nông hội đỏ, Thanh niên đỏ, Sinh hội đỏ, và Cứu tế đỏ ; do đó thiếu mặt tổ chức triển khai thật quảng đại quần chúng, hấp thụ các những tầng lớp tri thức dân tộc bản địa, tư sản dân tộc bản địa

Đó chính là hiểu lờ đờ và chưa thật triệt để Luận cương cách mạng tư sản dân quyền Do đó tất cả chúng ta đã tách rời dân tộc bản địa cách mạng với giai cấp cách mạng làm hai đường mà chưa nhận định và đánh giá đúng là dân tộc bản địa cách mạng vẫn là một trách nhiệm trong giai cấp cách mạng. Sự chuyển biến lối này hay lối khác đó là thực trạng từng nơi từng lúc, chứ không phải hai đường sai lầm nhau .

Hơn nữa trong Chính cương sách lược đã đề ra phản đế và điền địa là song song, thì tổ chức triển khai Phản đế liên minh là đúng và cần, nên nhắc lại để các cấp đảng ủy và các chiến sỹ nhận thức rõ ràng trên hai mặt triết lý và thực hành thực tế ( [ 8 ] ) .

Chúng tôi cho rằng nhận xét của thông tư này là khách quan, rất đáng chú ý quan tâm khi nghiên cứu và điều tra về quan hệ giữa trách nhiệm dân tộc bản địa và dân chủ trong hai cương lĩnh năm 1930 của Đảng .

1.3. Về lực lượng cách mạng

Cả hai cương lĩnh đều coi liên minh công nông là lực lượng chính và rất là chăm sóc đến quyền lợi của công nông, đều có chỗ nhận thức chưa không thiếu về vai trò và tính tích cực cách mạng của các giai cấp địa chủ, tư sản, tiểu tư sản ở một nước thuộc địa .

Chánh cương vắn tắt ghi : Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa c. m đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến Đảng phải rất là liên lạc với tiểu tư sản, tri thức, trung nông, Thanh Niên, Tân Việt, v.v. để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp ( [ 9 ] ). Đảng tập hợp hầu hết quần chúng nông dân, sẵn sàng chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến Đảng giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản ( [ 10 ] ). Luậncương chánh trị ghi : Vô sản giai cấp là một động lực chánh và rất mạnh của cách mạng ở Đông Dương, dân cày là một động lực mạnh cho cách mạng tư sản dân quyền. Đồng minh của giai cấp vô sản là bọn trung và bần nông ( [ 11 ] ) .

Những quan điểm đó cơ bản là đúng đắn, vì cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân mà công nông là lực lượng phần đông nhất, cách mạng nhất, không có liên minh công nông sẽ không có cách mạng Nước Ta. Mặt khác, đã là Đảng Cộng sản thì đương nhiên phải chăm sóc đến quyền lợi của quần chúng lao động, phần đông nhất, cơ bản nhất là công nông. Không chăm sóc đến quyền lợi của nhân dân, trong đó cơ bản, phần đông nhất là công nông thì đó không phải là Đảng Cộng sản. Điều này thuộc về nguyên tắc thực chất giai cấp của Đảng Cộng sản và ý niệm đó không trái với quan điểm coi trọng lợiích toàn dân tộc bản địa. Đây là điểm riêng có của Đảng Cộng sản, một đảng chính trị, có tính giai cấp rõ ràng mà càng chăm sóc đến quyền lợi giai cấp mình thì càng chăm sóc đến quyền lợi của mọi giai tầng xã hội khác, muốn giải phóng giai cấp mình thì phải ra sức giải phóng tổng thể các giai tầng xã hội, phải giải phóng dân tộc bản địa. Hiện nay, Đảng ta vẫn kiên trì quan điểm này nên luôn chủ trương độc lập dân tộc bản địa gắn liền với chủ nghĩa xã hội .

Tuy nhiên, việc tập hợp lực lượng cách mạng quá coi trọng liên minh côngnông, nhấn mạnh vấn đề vai trò và quyền hạn của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân vào thời gian quốc gia còn bị đế quốc đô hộ là chưa tương thích, biểu lộ tư tưởng giáo điều, tả khuynh, nóng vội. Cả hai cương lĩnh đều mắc hạn chế này .

Chánh cương vắn tắt cho rằng Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa c. m đánh trúc bọn bọn đại địa chủ và phong kiến. Còn so với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản c. m thỉ phải tận dụng, ít lâu mới làm cho họ trung lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản c. m ( Đảng Lập hiến, v.v ) thì phải đánh đổ. Trong khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn trọng, không khi nào nhượng một chút ít quyền lợi gì của công nông mà đi vào đường thỏa hiệp ( [ 12 ] ). Không khi nào Đảng lại quyết tử quyền hạn của giai cấp công nhân và nông dân cho một giai cấp nào khác ( [ 13 ] ). Đoạn trích đó bộc lộ Chánh cương vắn tắt có quan điểm giai cấp rấtrạch ròi, có sự phân biệt và dè dặt trong tập hợp lực lượng cách mạng .

Luận cương chánh trị ghi : bọn tư bổn thương mại đứng về một phe với đế quốc chủ nghĩa và địa chủ mà chống cách mạng. Bọn tư bổn công nghệvì công sức của con người yếu kém, có dính dáng với địa chủ, sợ trào lưu vô sản vì vậy chúng nó không hề đứng về vương quốc cách mạng mà chỉ đứng về mặt vương quốc cải lương. Bọn thủ công nghiệp thì thái độ của chúng nó so với cách mạng rất chần chừ. Bọn kinh doanh nhỏ lẻ thì không đống ý cách mạng, bọn tri thức, tiểu tư sản, học sanh, v.v nhiệt huyết cách mạng nhưng chỉ lúc đầu ( [ 14 ] ) .

Những điều đó chứng tỏ Luận cương chánh trị chưa thực sự coi trọng vai trò và năng lực cách mạng của những tầng lớp tri thức, tiểu tư sản và tư sản dân tộc bản địa, trung và tiểu địa chủ ở một nước thuộc địa. Chưa thực sự coi trong, tuy nhiên không hẳn là tả khuynh. Vì nếu tả khuynh như 1 số ít người hiểu thì làm thế nào Trung ương Đảng lại có sự phê phán Xứ ủy Trung kỳ là : Xứ ủy Trung Kỳ, nhất là chiến sỹ Bí thư, ra thông tư thanh Đảng viết rõ từng chữ : thanh trừ trí phú địa hào, đào tận gốc trốc tận rẽ, như vậy thì gốc đâu mà đào, xem rễ ở đâu mà trốc, quả là một ý nghĩ mơ hồ, một thông tư võ đoán và là một lối hành vi quàng xiên chi tướng ( [ 15 ] ) .

1.4. Về giai cấp lãnh đạo cách mạng

Hai cương lĩnh đều chứng minh và khẳng định chỉ huy cách mạng Nước Ta là giai cấp vô sản, trải qua chính đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam ( Chánh cương vắn tắt ), hoặc Đảng Cộng sản Đông Dương ( Luận cương chánh trị ) .

Chánh cương vắn tắt ghi : Đảng là đội tiên phong của vô sản giai cấp phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho giai cấp mình chỉ huy được dân chúng ( trong Sách lược văn tắt ) ( [ 16 ] ). Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản gồm 1 số ít lớn của giai cấp công nhân và làm cho họ đủ năng lượng chỉ huy quần chúng. Đảng tập hợp đa phần quần chúng nông dân, sẵn sàng chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến. Đảng giải phóng công nhân và nông dân thoát khỏi ách tư bản ( [ 17 ] ). Hoặc Tôn chỉ : Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức triển khai ra để chỉ huy quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực thi xã hội cộng sản ( trong Điều lệ vắn tắt ) ( [ 18 ] ) .

Luận cương chánh trị ghi : Trong cuộc cách mạng tư sản dân quyền, vô sản giai cấp và nông dân là hai động lực chánh, nhưng vô sản có cầm quyền chỉ huy thì cách mạng mới thắng lợi được ( [ 19 ] ). Điều kiện cốt yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một Đảng Cộng sản có một đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung chuyên sâu, mật thiết liên lạc với quần chúng, và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc mà đại biểu quyền hạn chánh và vĩnh viễn, chung cho cả giai cấp vô sản ở Đông Dương và chỉ huy vô sản giai cấp Đông Dương ra tranh đấu để đạt được mục tiêu sau cuối của vô sản là chủ nghĩa cộng sản ( [ 20 ] ). Trong công tác làm việc, Đảng phải liên lạc mật thiết với Đảng Cộng sản Pháp, Tàu và Ấn Độ ( [ 21 ] ). Chúng tôi cho rằng ở yếu tố này – yếu tố Đảng và kiến thiết xây dựng Đảng, Luận cương chánh trị rõ ràng và khá đầy đủ hơn so với Chánh cương vắn tắt .

1.5. Về phương pháp cách mạng

Cả hai cương lĩnh đều nói là phải sử dụng đấm đá bạo lực cách mạng, tức là phải sử dụng sức mạnh của nhân dân. Chánh cương vắn tắt có sử dụng từ đánh đổ chính quyền sở tại đế quốc, phong kiến và dựng ra cơ quan chính phủ công nông binh. Nghĩa là theo quan điểm cách mạng đấm đá bạo lực, không phải bằng giải pháp cải lương, tuy nhiên không rõ là đánh đổ như thế nào. Luận cương chánh trị ghi rõ là phải có cách tranh đấu từ thấp đến cao, từ phần ít đến khi có thời cơ thì thực thi khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền sở tại. Lúc đó Đảng phảilập tức chỉ huy quần chúng để đánh đổ chánh quyền của địch nhân và giành lấy chánh quyền cho công nông. Võ trang bạo động không phải là một việc thường, chẳng những là theo hình thế trực tiếp cách mạng, và lại phải theo khuôn phép nhà binh ( [ 22 ] ) .

Rõ ràng Luận cương chánh trị đã nhận thức được đấm đá bạo lực cách mạng là sức mạnh nhân dân. Xác định sử dụng đấm đá bạo lực cách mạng là sử dụng sức mạnh của toàn dân, nhất là công nông, là chiêu thức cách mạng đúng đắn. Việc phải cẩn trọng khi liên lạc với các giai tầng khác ngoài công nông, trong khi liên lạc với các giai tầng khác không được đi vào con đường thỏa hiện mà quyết tử quyền lợi và nghĩa vụ của công nông, hay coi tư bản và địa chủ nói chung đều là đứng về phe đế quốc, không hề hợp tác được là rơi lệch của cả hai cương lĩnh. Vì Chánh cương vắn tắt chỉ có một cụm từ diễn đạt là đánh đổ, còn ở Luận cương chánh trị thì khá đầy đủ hơn, khẳng định chắc chắn phải sử dụng đấm đá bạo lực cách mạng, phải tiến tới khởi nghĩa vũ trang, nêu lên cả yếu tố tập dượt quần chúng, yếu tố chớp lấy thời cơ khỏi nghĩa, tuân thủ các nguyên tắc nhà binh khi khởi nghĩa, nên trong yếu tố giải pháp cách mạng, Luận cương chánh trị rõ ràng, đơn cử hơn Chánh cương vắn tắt .

1.6. Về quan hệ quốc tế

Cả hai cương lĩnh đều nói cách mạng Nước Ta, cách mạng Đông Dương là một bộ phận của cách mạng quốc tế ( cách mạng vô sản ), nên phải liên lạc với trào lưu vô sản và giải phóng dân tộc bản địa các nước .

Chánh cương vắn tắt ghi : trong khi tuyên truyền cái khảu hiệu nước An Nam độc lập, phải đồng tuyên truyền và thực hành thực tế liên lạc với bị áp bức dân tộc bản địa và vô sản giai cấp quốc tế, nhất là vô sản Pháp ( trong Sách lược vắn tắt ). Đảng thông dụng khẩu hiệu Nước Ta tự do và đồng thời Đảng link với những dân tộc bản địa bị áp bức và quần chúng vô sản trên quốc tế nhất là với quần chúng vô sản Pháp ( trong Chương trình tóm tắt ). Luận cương chánh trị ghi : Vô sản Đông Dương phải liên lạc mật thiết với vô sản quốc tế, nhứt là vô sản Pháp để làm cho mặt trận vô sản mẫu quốc và thuộc địa cho sức đấu tranh cách mạng được mạnh lên Trong công tác làm việc, Đảng phải liên lạc mật thiết với Đảng Cộng sản Pháp, Tàu và Ấn Độ ( [ 23 ] ) .

Quan điểm quốc tế coi cách mạng Nước Ta là một bộ phận của cách mạng quốc tế là mởi mẻ, đúng đắn. Với quan điểm, chủ trương đó, cách mạng Nước Ta khởi đầu hội nhập với cách mạng quốc tế, nên vừa có điều kiện kèm theo tranh thủ sự giúp sức của cách mạng quốc tế vừa hoàn toàn có thể góp phần vào sự nghiệp chung của nhân dân quốc tế. Luận cương chánh trị đã vừa đủ, thoáng rộng hơn Chánh cương vắn tắt về mặt đoàn kết quốc tế và bạn liên minh khi nhấn mạnh vấn đề tới quan hệ không chỉ với vô sản Pháp mà còn cả với quần chúng cách mạng ở các thuộc địa và bán thuộc địa, nhất là Tàu và Ấn Độ .

Ở đây cần quan tâm là khi coi cách mạng Nước Ta là một bộ phận của cách mạng quốc tế ( cách mạng vô sản ) thì tính dân tộc bản địa của cách mạng Nước Ta, tư tưởng dân tộc bản địa / yêu nước của Hồ Chí Minh và các chiến sỹ của Người không phải là dân tộc bản địa / yêu nước hiểu theo phạm trù cũ mà là dân tộc bản địa / yêu nước theo lập trường vô sản, là giải phóng dân tộc bản địa trong khuôn khổ cách mạng vô sản, một bộ phận của cách mạng vô sản, thuộc cách mạng vô sản. Đã là cách mạng vô sản thì đánh đổ đế quốc, phong kiến, thực thi độc lập dân tộc bản địa và người cày có ruộng không phải là mục tiêu sau cuối, mà chỉ là một bước đi thiết yếu trên lộ trình phải trải qua để đi tới chủ nghĩa xã hội, chủ nghiã cộng sản. Vì cách mạng vô sản có mục tiêu ở đầu cuối là giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người nên tính dân tộc bản địa / yêu nước của Hồ Chí Minh và những người cộng sản là khác về chất so với tính dân tộc bản địa / yêu nước của các bậc tiền bối theo lập trường phong kiến hay tư sản Trong Di chúc, Hồ Chí Minh vẫn khẳng định chắc chắn Người đi theo Cụ Các Mác, Cụ Lênin .

* * * * *

Như vậy, Chánh cương vắn tắt và Luận cương chánh trị của Đảng năm 1930 là thống nhất với nhau về tất cả các nội dung cơ bản; sự sai khác nhau chỉ ở đôi chỗ thuộc về diễn đạt và chủ yếu trong vấn đề sắp xếp lực lượng cách mạng. Lâu nay, có nhiều người đã cho rằng Luận cương chánh trị (tháng 10-1930) đã phê phán Chánh cương văn tắt (tháng 2-1930), có nhiều điểm sai khác, mâu thuẫn và thụt lùi so với Chánh cương là không xác đáng. Họ đã nhầm lẫn sự khác nhau giữa Chánh cương văn tắt với Án Nghị quyết của Trung ương đại hội toàn thế tháng 10 năm 1930 (Án Nghị quyết), Thư của Trung ương gửi các cấp Đảng bộ ngày 9-12-1930 vàThư của Ban Phương Đông gửi Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày 13-11-1930. Thực ra trong các văn kiện đó chỉ có Án Nghị quyết và Thư của Trung ương là có sự phê phán và khác nhau với Chánh cương và Thư của Ban Phương Đông là phê phán Luận cương mà thôi.

Án nghị quyết có đoạn phê phán Hội nghị hợp nhất là : Sai lầm về việc tổ chức triển khai đảng. Lúc đầu tổ chức triển khai đảng, kế hoạch không xác đáng H.N.H.N ( hội nghị hợp nhất ) lại không lấy một nền chánh trị C.S, và những kế hoạch thao tác C.S làm căn bổn mà chọn lấy những thành phần chơn chánh C.S của các đoàn thể tự xưng là C.S ( Thanh Niên, Đ.D.C.S, C.S Liên đoàn, An Nam C.S Đảng, v.v H.N.H.N chỉ lo việc hiệp các đoàn thể ấy lại làm một mà ít quan tâm đến việc tiêu diệt những tư tưởng và hành vi biệt phái của các đảng phái trước kia. Bởi vậy vì vậy đảng tuy đã hiệp nhứt, nhưng tư tưởng, hành vi của đảng phái nào cứ giữ như cũ ( [ 24 ] ). Hoặc Sai lầm về Điều lệ và tên Đảng. Trong mạng lưới hệ thống tổ chức triển khai của Đảng thì bỏ mất xứ bộ. Sai là vì bắt T.Ư ( bảy người ) trực tiếp chỉ huy các tỉnh bộ, làm cho T.Ư đã không châu đáo được đến mỗi việc ở các tỉnh ; mà lại không còn thì giờ mà lo đến việc quan trọng chung cho toàn thể Đảng nữa ( [ 25 ] ) .

Xem thêm: 12+ cách giải phóng dung lượng iPhone đơn giản nhanh nhất

Thư của Trung ương gửi cho các cấp Đảng bộ ngày 9-12-1930 có đoạn : Đảng hiệp nhất kể đã có sanh hoạt gần một năm rồi nhưng vẫn chưa hoàn toàn có thể thống gì, đó là vì : 1 ) Hội nghị hiệp nhất ( H.n.h.n ) chủ trương việc làm rất sơ sài, mà có nhiều điều không đúng với chủ trương của quốc tế. 2 ) Lâm thời Trung ương cử ra sau lúc H.n.h.n đã không nhóm một lần hội nào mà bàn định kế hoạch thao tác trong toàn thể Đảng ( [ 26 ] ). Tại sao chủ trương của H.n.h.n lại có nhiều chỗ không đúng với chủ trương của Q.t ? Đồng chí đứng ra chiêu tập H.n.h.n năm trước kia thì được Q.t cho về tùy thực trạng mà thao tác chứ chưa có được kế hoạch rõ ràng gì. Khi chiến sỹ ấy về đến nơi thì thấy trào lưu c. s tuy mới nổi nhưng đã chia rẽ rồi nên tự ý hành vi có nhiều việc sai lầm đáng tiếc không đúng với kế hoạch của Q.t. Vì đó mà có Hội nghị hiệp nhất. Đồng chí ấy nay đã nhận rõ những điều sai lầm đáng tiếc và cũng đã chấp thuận đồng ý với T.ư mà sửa đổi những chỗ sai lầm đáng tiếc lúc trước ( [ 27 ] ). Trung ương chủ trương : Trong nội bộ : a ) Thủ tiêu chánh cương sách lược và Điều lệ cũ của Đảng, lấy kinh nghiệm tay nghề trong thời kỳ vừa mới qua mà thực hành thực tế việc làm cho đúng như Án nghị quyết và Thơ thông tư của Q.T.C.S ( [ 28 ] ) ,

Thư của Ban Phương Đông gửi Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày 13-11-1930 có đoạn : Trước hết, chúng tôi gợi ý rằng văn kiện dự thảo của hội nghị gần đây của Ban Chấp hành Trung ương không nên gọi là Cương lĩnh của Đảng mà lúc này sẽ chỉ đơn thuần được công bố là dự thảo nghị quyết của hội nghị này cho các đảng viên luận bàn nhằm mục đích chuẩn bị sẵn sàng cho hội nghị Đảng sắp tới. Chúng tôi cho rằng thời hạn còn chưa chín muồi để Đảng Đông Dương trải qua một cương lĩnh toàn nước của Đảng. Một cương lĩnh như vậy là một yếu tố rất tráng lệ và chỉ hoàn toàn có thể được kiến thiết xây dựng sau khi điều tra và nghiên cứu kỹ lưỡng tình hình Đông Dương và nhiều yếu tố nghiêm trọng của trào lưu cách mạng ở xứ này. Văn kiện dự thảo của các chiến sỹ mà các chiến sỹ gọi là Cương lĩnh của Đảng còn rất sơ sài và phải được viết lại rất cẩn trọng ( [ 29 ] )

Những đoạn phê phán đó không hề có trong Luận cương tháng 10-1930 .

Vả lại sự phê phán của các văn kiện trên là xuất phát từ ý thức, nghĩa vụ và trách nhiệm chung, theo nhận thức của Trung ương và Ban Phương Đông lúc bấy giờ, là sự phê phán Bônsêvíc chứ không phải là xích míc, trái chiều về tư tưởng. Bản thân Nguyễn Ái Quốc là người tham gia, cùng chủ trì hội nghị Trung ương tháng 10-1930 và cũng đã đống ý với sự phê phán đó ( [ 30 ] ) .

Sự thật lịch sử dân tộc là như vậy. Bản lĩnh, trí tuệ và niềm tin cách mạng của Lãnh tụ Hồ Chí Minh, của Tổng Bí thư Trần Phú, của các bậc tiền bối thời dựng Đảng là như vậy. Đảng ta, nhân dân ta, dân tộc bản địa ta mãi mãi tự hào về Chánh cương vắn tắt và Luận cương chánh trị, về Chủ tich Hồ Chí Minh người sáng lập Đảng và về chiến sỹ Trần Phú, Tổng Bí thư tiên phong của Đảng. Với cốt lõi đồng nhất là tư tưởng độc lập dân tộc bản địa gắn liền với chủ nghĩa xã hội, Chánh cương vắn tắt và Luận cương chánh trị của Đảng năm 1930 có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất là to lớn .

Hồ Chí Minh khẳng định: Trong bản Cương lĩnh cách mạng tư sản dân quyền năm 1930, Đảng đã nêu rõ nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến, thực hiện dân tộc độc lập, người cày có ruộng. Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại đa số nhân dân ta là nông dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách mạng to lớnchung quanh giai cấp mình. Còn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc bị phá sản hoặc bị cô lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta- đảng của giai cấp công nhân- không ngừng củng cố và tăng cường([31])

N Đ T

Ghi chú : Địa chi của Ngô Đăng Tri : Khoa Lịch sử, Trường ĐHKHXHNV, ĐHQG Thành Phố Hà Nội. ĐT : 0913593354 ; 0438586385

[ 1 ] Từ điển bách khoa, T1, Nxb Từ điển bách khoa, TP.HN, 1995, tr 637

[ 2 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, toàn tập, T2, Nxb CTQG, Hà Nộị, 1998, tr 2-3

[ 3 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, toàn tập, T2, Sđd, tr 93-94

[ 4 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 2-3

[ 5 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 95

[ 6 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 94

[ 7 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 274 – 275

[ 8 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 227 – 228

[ 9 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 4

[ 10 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 6

[ 11 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 97-98

[ 12 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 4

[ 13 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 6

[ 14 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 96-97

[ 15 ] – Văn kiện Đảng, toàn tập, Tập 3, 1931, Nxb CTQGHN, 1999, trang 157

[ 16 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 4

[ 17 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 5

[ 18 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 7

[ 19 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 94

[ 20 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 100

[ 21 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 103

[ 22 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 101 – 102

[ 23 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 103

[ 24 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 108

[ 25 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 111

[ 26 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 233

[ 27 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 238

[ 28 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 112 – 113

[ 29 ] Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng, T2, Sđd, tr 274 – 275

[ 30 ] – tiến sỹ Chu Đức Tính ( Giám đốc kho lưu trữ bảo tàng Hồ Chí Minh ). Đồng chí Nguyễn Ái Quốc có dự Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 không ?. Báo cáo tại Hội thảo khoa học Hồ Chí Minh với con đường giải phóng dân tộc bản địa, tại Bảo tàng Hồ Chí Minh, Thành Phố Hà Nội, 10-5-2011 .

[ 31 ] Hồ Chí Minh : Toàn tập, Nxb CTQG, TP.HN, 2000, t. 10, tr. 9

Xem thêm: 4 cách kiểm tra dung lượng 3G 4G MobiFone còn lại mới nhất

Video liên quan