Cảm nhận về một tác phẩm văn học lớp 10

Những bài văn phân tích, cảm nhận, dàn ý, bình giảng, bình luận hay nhất trong Văn mẫu lớp 10 gồm các bài văn thuộc dạng nghị luận xã hội và nghị luận văn học hay nhất trong tác phẩm văn học cùng các các vấn đề xã hội nhanh nhất, chính xác nhất


Lựa chọn câu để xem lời giải nhanh hơn

Phát biểu cảm nghĩ về một bài thơ hoặc một tác phẩm văn học mà anh (chị) yêu thích.

Dàn ý

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

- Dẫn dắt vấn đề cần nghị luận

II. Thân bài

1. Cảm xúc trước mùa xuân thiên nhiên đất nước và con người

- Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp trong tưởng tượng của tác giả (lưu ý, tác giả viết bài thơ 11/1980 - lúc này đang là mùa đông)

+ Hình ảnh vẻ đẹp của mùa xuân xứ Huế được khắc họa qua: hoa tím, sông xanh, bầu trời cao rộng

+ Âm thanh tiếng chim chiền chiện báo xuân về như kết tinh thành “từng giọt long lanh”

+ Vẻ đẹp của mùa xuân thể hiện qua góc nhìn của tác giả cũng như tấm lòng trân trọng của tác giả trước thiên nhiên, cuộc đời

+ Lời trò chuyện thân mật cùng tự nhiên và sự trân trọng sự sống được thể hiện qua hành động “đưa tay hứng” của tác giả

Từng giọt long lanh rơi

Tôi đưa tay tôi hứng

+ Giọt long lanh được hiểu theo nghĩa ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, từ chỗ âm thanh được cảm nhận bằng thính giác chuyển sang cảm nhận bằng thị giác và xúc giác “đưa tay hứng”

=> Tác giả say đắm trong mùa xuân của thiên nhiên đất trời với tâm thế đón nhận trân trọng

2. Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân của đất nước

- Sáng tạo của tác giả thể hiện qua việc dùng từ “lộc” và hình ảnh “người cầm súng”, “người ra đồng”

+ Hình ảnh lộc xuân trên “nương mạ” là hình ảnh đẹp về cuộc sống lao động kiến thiết đất nước của lực lượng sản xuất

+ Hình ảnh người cầm súng trên đường ra trận mang trên vai cành lá ngụy trang, và niềm tin vào ngày mai hòa bình

+ Tác giả sử dụng hai từ láy “hối hả” và “xôn xao” để chỉ nhịp sống lao động khẩn trương vội vã nhưng nhộn nhịp, vui vẻ kết hợp hài hòa với nhau.

- Nhà thơ tin tưởng và tự hào vào tương lai tươi sáng của đất nước cho dù trước mắt trải qua nhiều khó khăn, gian khổ

+ Đất nước được so sánh với những hình ảnh đẹp đẽ, kì vĩ khẳng định sự trường tồn bền vững của đất nước

Đất nước như vì sao

Cứ đi lên phía trước

+ Tác giả không quên nhắc nhở mọi người nhớ về những tháng ngày gian khổ trong chiến đấu, cách mạng

+ Phụ từ “cứ” kết hợp với động từ “đi lên” thể hiện quyết tâm cao độ, hiên ngang tiến lên phía trước dù khó khăn gian khổ

=> Sự lạc quan tin tưởng của nhà thơ ca ngợi sức sống, sự vươn lên mạnh mẽ của đất nước, dân tộc

3. Ước nguyện chân thành, giản dị được cống hiến của tác giả

- Tác giả thể hiện tâm nguyện tha thiết muốn cống hiến qua những hình ảnh đẹp, thuần phác:

Ta làm con chim hót

Ta làm một cành hoa

Ta nhập vào hòa ca

Một nốt trầm xao xuyến

+ Điệp từ “ta” để khẳng định đó là tâm niệm chân thành của nhà thơ, cũng là khát vọng cống hiến cho đời chung của nhiều người.

+ Các từ láy “lặng lẽ”, “nho nhỏ” là cách nói khiêm tốn, chân thành của nhân cách sống cao đẹp khi hướng tới việc góp vào lợi ích chung của dân tộc.

- Mùa xuân nho nhỏ là một ẩn dụ đầy sáng tạo của nhà thơ khi thể hiện thiết tha, cảm động khát vọng được cống hiến và sống ý nghĩa.

+ Điệp từ “dù là” khiến âm điệu câu thơ trở nên thiết tha, lắng đọng

+ Dù đang nằm trên giường bệnh nhưng tác giả vẫn tha thiết với cuộc đời, mong muốn sống đẹp và hữu ích, tận hiến cho cuộc đời chung.

=> Với niềm yêu đời tha thiết, tác giả vượt lên trên hoàn cảnh về bệnh tật mong muốn da diết được sống có ích bằng tất cả sức trẻ của mình.

4. Ngợi ca quê hương đất nước qua điệu hát dân ca Huế

- Cả bài thơ giống như làn điệu dân ca Huế mượt mà, trữ tình và sâu lắng

+ Bài thơ khép lại với điệu Nam ai, Nam bình của xứ Huế để ca ngợi vẻ đẹp và nỗi niềm của người con xứ Huế

+ Khúc ca còn ngân vang mãi từ tâm hồn của người lạc quan, yêu đời, khát khao sống có ích

III. Kết bài

- Khái quát lại vấn đề

Bài mẫu

    Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ trong trẻo, thiết tha. Nó là phần tinh tuý nhất của một con người luôn khát khao cống hiến, khát khao sống có ý nghĩa. Nó là tiếng lòng của nhà thơ và cũng là của tất cả những ai ham mê cái cuộc sống trần gian rất đẹp đẽ này.

   Mùa xuân nho nhỏ ra đời khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Chắc hẳn, vào những ngày cuối cùng ấy, sau những chiêm nghiệm về cuộc sống với tất cả tình yêu, Thanh Hải muốn tiếp tục cất lên tiếng hót của "con chim chiền chiện" để góp nên một "mùa xuân nho nhỏ" cho cuộc đời, cho con người và cho đất nước yêu thương.

   Với thể thơ 5 chữ, với cách ngắt nhịp nhanh, gọn mà vẫn có độ dư ba, bài thơ đã dâng lên trong lòng tôi cảm giác rộn ràng, náo nức. Những gam màu trong trẻo, những hình ảnh đẹp, tươi sáng và đầy sức sống trong mỗi câu thơ cứ thấm dần vào trái tim tuổi trẻ của tôi.

   Mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước được nhà thơ cảm nhận trong sự căng đầy của nhựa sống, trong nhịp sống đang hối hả và trong sự tươi non mơn mởn của những hi vọng vào tương lai. Giữa màu xanh yên bình của dòng sông xuân, sắc tím biếc cuả bông hoa không hề lạc lõng, chông chênh. Nó bám chắc vào lòng sông như một sợi dây vô hình làm nên sức sống. Trên cái nền màu dịu êm của "sông xanh" và "hoa tím biếc", tiếng hót trong vắt của con chim chiền chiện vút cao, ngân vang đến bất tận đến trời xanh. Từng tiếng, từng tiếng chim trong veo hay tiếng nhịp thở của khí xuân hoà vào trời đất, vang vọng vào trong lòng người như những "giọt tâm hồn" sáng long lanh. Tiếng hót ấy khiến ta không thể dửng dưng mà khiến ta phải thốt lên tiếng gọi rủ về cái khát khao muốn nắm bắt, muốn "đưa tay hứng".

   Không tách mình khỏi khí xuân của thiên nhiên, đất nước trong công cuộc chuyển mình đi lên cũng rộn ràng, hối hả. Sức sống của đất nước không chung chung, trừu tượng mà nó biểu hiện ra ở "sức xuân" của mỗi con người. Mùa xuân trên lưng lính, lộc xuân trong tay người nông dân. Mỗi bước đi của người gieo thêm một chồi biếc, một mầm non. Và cứ thế, sức xuân của đất nước lại dâng lên như những lớp sóng xôn xao. Đất nước phấn chấn, hứng khởi trong một nhịp thở mới, hối hả khẩn trương. Niềm tin mới của dân tộc được chắp cánh từ truyền thống bốn nghìn năm dựng nước. Thế nên, dẫu biết có những vất vả và gian lao nhưng cả nước "vẫn đi lên phía trước" với một quyết tâm không mệt mỏi.

   Những câu thơ của Thanh Hải đầy ắp hình ảnh, màu sắc và âm thanh. Nó tạo nên một không khí sôi nổi, háo hức, phơi phới vui tươi. Nó là một bức tranh tươi sáng sắc màu, là một bản nhạc rộn ràng tiết tấu trong trẻo, ngân nga và gợi cảm. Điều đặc biệt là: bức tranh thiên nhiên, bức tranh đất nước đầy sức sống ấy đã được nhà thơ cảm nhận khi ông đang ở vào cái giây khắc sắp lìa đời. Trên giường bệnh, nhà thơ vẫn mở rộng hồn mình, lắng nghe và đón nhận tất cả những thanh âm xao động của cuộc sống ngoài kia. Ông vẫn lắng nghe từng bước đi rất khẽ của đời. Bốn bức tường của phòng bệnh không thể ngăn cách cuộc đời với nhà thơ, những cơn đau của bệnh tật không làm giảm ý chí, bầu nhiệt huyết và niềm tha thiết yêu đời trong trái tim của người nghệ sĩ. Cái nghị lực phi thường ấy đáng để ta phải nâng niu và trân trọng xiết bao.

   Bài thơ khép lại trọn vẹn trong tâm hồn và sự say sưa của người đọc bằng một ước nguyện thật chân thành và mãnh liệt biết bao. Nó thực là một khát khao đang bùng cháy: muốn được làm một nhành hoa như bông hoa tím biếc kia, muốn làm con chim hót vang trời những giọt long lanh như con chim chiền chiện. Cái khát khao không hề gợi một chút gì về hình ảnh khổ đau của một con người đang chết. Nó giống cái mãnh liệt và rạo rực của một sức thanh xuân đang tràn trề nhựa sống và khát khao cống hiến cho đời.

   Nhiều người đã từng đồng ý với tôi rằng: những người trẻ tuổi đọc Mùa xuân nho nhỏ có thể tìm ra lý tưởng sống cho mình, còn với những người đã dâng cả tuổi thanh xuân cho đất nước thì vẫn thấy mình còn có thể làm được nhiều hơn. Mùa xuân nho nhỏ quả đã không chỉ là niềm say mê của riêng tôi. Nó xứng đáng là một bài thơ hay trong tủ sách quý của muôn người.

Nguồn: Sưu tầm

Loigiaihay.com

Đề bài: Cảm nghĩ về một tác phẩm nổi bật đã học

Mục Lục bài viết:
I. Dàn ý chi tiết
  1. Mở bài
  2. Thân bài
  3. Kết bài
II. Bài văn mẫu

I. Dàn ý Cảm nghĩ về một tác phẩm nổi bật đã học

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả: Nguyễn Trãi được người đời biết đến là một vị quan chính trực, một nhà thơ vừa là nhà văn kiệt xuất của dân tộc. 

- Giới thiệu đoạn trích: “Bình ngô đại cáo” là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông và bài cáo được xem như là bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc.

* Hoàn cảnh ra đời

- Thừa lệnh của chủ soái Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã viết “Bình ngô đại cáo” sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh kết thúc, nước Đại Việt hoàn toàn thắng lợi

* Phân tích

- Tư tưởng nhân nghĩa:

+ “Nhân nghĩa” – một tư tưởng quen thuộc, nhắc tới cách hành xử tốt đẹp giữa người với người trong quan niệm đạo đức Nho gia.

+ “Nhân nghĩa” trong quan điểm của Nguyễn Trãi là phải lo trừ bạo để nhân dân được sống yên bình, hạnh phúc.

→ Sự tiến bộ trong tư tưởng, suy nghĩ.

- Chỉ rõ tội ác của kẻ thù:

Ngang nhiên hành hạ, giết hại dân lành vô tội

→ Giọng văn khi uất hận, khi sôi trào, khi sôi trào thể hiện rõ sự tố cáo, vạch trần tội ác của tác giả với quân xâm lược.

- Kể lại quá trình tất thắng của cuộc khởi nghĩa để đi đến kết luận khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.

* Đánh giá: 

- Thấy được cái tài trong cách triển khai vấn đề của Nguyễn Trãi.

Khẳng định lại giá trị của tác phẩm

II. Bài văn mẫu Cảm nghĩ về một tác phẩm nổi bật đã học

Nguyễn Trãi được người đời biết đến ngoài việc là một vị quan chính trực ông còn vừa là nhà thơ vừa là nhà văn kiệt xuất của dân tộc. “Bình ngô đại cáo” là một trong những tác phẩm xuất sắc của ông, bài cáo có ý nghĩa như bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc Việt Nam.

Thừa lệnh của chủ soái Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã viết “Bình ngô đại cáo” sau khi cuộc kháng chiến chống quân Minh kết thúc, nước Đại Việt hoàn toàn thắng lợi nhằm tổng kết cuộc kháng chiến vĩ đại, báo cáo rộng rãi cho toàn thể nhân dân được biết. Với nghệ thuật chính luận hùng hồn và cảm hứng trữ tình sâu sắc, tác giả đã tố cáo tội ác tày trời của giặc Minh, đồng thời ca ngợi sức mạnh thần kì của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

Mở đầu tác phẩm “Bình Ngô đại cáo” khẳng định lí tưởng của cuộc kháng chiến việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Đánh giặc chính là nhân nghĩa. Tiếp theo, Nguyễn Trãi khẳng định Việt Nam là một quốc gia văn hiến từ bao đời đã sánh vai với cường quốc Trung Hoa về nhiều phương diện. Nội dung nói trên được tác giả biểu đạt bằng những câu văn sang trọng, đĩnh đạc gợi không khí trang nghiêm lịch sử. 

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương"

"Nhân nghĩa" - một tư tưởng quen thuộc, nhắc tới cách hành xử tốt đẹp giữa người với người trong quan niệm đạo đức Nho gia. Đó là mối quan hệ giữa con người với con người được xây dựng trên nền tảng tình thương và đạo lí. Theo Nguyễn Trãi, trước hết muốn yên dân thì phải lo trừ bạo để cho dân được sống thanh bình, hạnh phúc. Cứu nước tức cứu dân bởi nước với dân là một. Đây chính là cái cốt lõi của nhân nghĩa. Vì vậy, nhân dân ta chiến đấu chống ngoại xâm là nhân nghĩa, là phù hợp với tư tưởng nhân nghĩa. Những yếu tố được Nguyễn Trãi đưa ra để xác định độc lập chủ quyền của dân tộc bao gồm: tên nước, nền văn hiến lâu đời, lãnh thổ, ranh giới, phong tục tập quán, lịch sử các triều đại Triệu, Đinh, Lý, Trần. Tất cả đều là những căn cứ lịch sử không thể chối cãi.

Tiếp theo đó tác giả đã đưa ra các dẫn chứng về thực tế lịch sử:

"Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất bạiTriệu Tiết thích lớn phải tiêu vongCửa Hàm Tử bắt sống Toa ĐôSông Bằng Đằng giết tươi Ô MãViệc xưa xem xét

Chứng cớ còn ghi"

Ở đoạn này, Nguyễn Trãi đã cho người đọc thấy những chiến công oanh liệt của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống xâm lăng. Cái hay mà Nguyễn Trãi đem lại không những khẳng định được nền độc lập dân tộc mà còn cho thấy cả quá trình để sức sống độc lập ấy tồn tại đầy mãnh liệt. Chỉ một đoạn văn nhỏ mà thấy cả dòng chảy lịch sử suốt năm trăm năm, với sáu lần đánh bại quân thù. Không còn điều gì có thể tự hào hơn, không còn điều gì có thể thay đổi chân lý đó. Những chứng cứ lịch sử năm xưa lại càng "khóa chặt" cho cơ sở lý luận về nền độc lập dân tộc, về sự chính nghĩa trong công cuộc trường chinh bảo vệ đất nước của vua tôi nhà hậu Lê.

Sau đó tác giả đã tố cáo những âm mưu, tội ác của giặc Minh:

"Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn....

Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?"

Những hành động thật sự tàn bạo. Giặc ngoại xâm chúng ngang nhiên hành hạ, giết hại dân lành vô tội. Giọng văn khi uất hận, khi sôi trào, khi sôi trào thể hiện rõ sự tố cáo, vạch trần tội ác của tác giả với quân xâm lược. Điều đáng chú ý ở đây là khi vạch rõ âm mưu xâm lược của giặc Minh, Nguyễn Trãi đứng trên lập trường dân tộc. Khi tố cáo tội ác của giặc tác giả lại đứng trên lập trường nhân bản, nghĩa là đứng về quyền sống của người dân để tố cáo. Bởi thế, đoạn văn có thể coi là một bản cáo trạng tội ác của giặc Minh đã chứa các yếu tố của bản tuyên ngôn nhân quyền.

Đất nước ngập bóng quân thù, dân chúng sống trong cảnh lầm than, oán hận, anh hùng đã đứng lên khởi nghĩa:

"Núi Lam Sơn dấy nghĩa,....

Chính lúc quân thù đương mạnh"

Đoạn thơ đã làm nổi bật được hình ảnh chủ tướng Lê Lợi với những phẩm chất tiêu biểu nhất của người yêu nước thế kỉ XV. Tuy nhiên ta có thể thấy ở buổi đầu khởi nghĩa ta đã gặp muôn vàn khó khăn. Địa bàn dấy lên cuộc nghĩa là ở nơi Lam Sơn hẻo lánh, thế ta và thế địch lại không cân sức "Vừa khi cờ nghĩa dấy lên/ Chính lúc quân thù đương mạnh". Không chỉ khó khăn về điều kiện chiến đấu mà ta còn thiếu nhân tài, đã vật có lúc còn bị vây, có lúc bị thương gần hết, quân lính chỉ còn lại mấy người. Nhưng không vì thế mà anh hùng bỏ cuộc, gắng sức vượt qua gian nan. Nhân dân bốn cõi một nhà, cùng nhau đoàn kết chống giặc xâm lăng. Giơ trúc làm cờ, tướng sĩ một lòng đánh giặc, thế trận xuất kỳ, sử dụng chiến thuật lấy yếu chống mạnh, đánh bất ngờ, nhanh gọn tiêu diệt địch. Qua hình tượng Lê Lợi tác giả đã khắc họa ý chí quyết tâm đánh đuổi giặc của nhân dân ta. Ta dùng nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy ý chí để thắng cường bạo khiếp quân thù "nghe hơi mà mất vía", "nín thở cầu thoát thân". Quân ta lần lượt tiến quan, trải qua các trận đánh: Tây Kinh, Đông Đô, Ninh Kiều, Tốt Động...

Đoạn cuối giọng văn đã chuyển sang trầm lắng, tự hào bởi đó là lời tổng kết những trang sử oai hùng của dân tộc, tuyên bố chấm dứt chiến tranh, khẳng định nền độc lập của một dân tộc thái bình. Trong lời tuyên bố tác giả đồng thời rút ra hai bài học lịch sử, đó là quy luật trời đất, quy luật suy vong hưng thịnh của mỗi quốc gia.

Có thể thấy lối văn mạch lạc, cách triển khai vấn đề rõ ràng của Nguyễn Trãi thông qua bài cáo. Qua đây Nguyễn Trãi vừa khẳng định chủ quyền của dân tộc, vừa tố cáo tội ác của giặc vừa thể hiện được niềm tự hào dân tộc trước những chiến thắng oai hùng của lịch sử.

Chiến tranh đã lùi xa nhưng cho đến nay bài cáo vẫn còn nguyên vẹn những giá trị của nó. Bài cáo không chỉ là một trong ba bản tuyên ngôn độc lập của đất nước mà qua đây người đọc còn thấy được những trang sử hào hùng dân tộc và những câu chuyện xoay quanh nó.

Đề bài Cảm nghĩ về một tác phẩm nổi bật đã học được xây dựng nhằm giúp các em củng cố kiến thức về văn bản/ thơ đã học. Bên cạnh đó, để học tốt môn Ngữ văn 10, các em có thể tham khảo thêm một số bài văn hay lớp 10 như: Cảm nghĩ của em sau khi học xong truyện cười Lợn cưới áo mới, Cảm nghĩ của em sau khi học bài thơ Đoàn thuyền đánh cá của Huy Cận, Cảm nghĩ về một bài thơ hoặc tác phẩm văn học mà anh (chị) yêu thích, Cảm nghĩ nổi bật nhất về một câu chuyện đã học mà anh (chị) không thể nào quên.

Dựa vào những kiến thức đã học về văn biểu cảm và các tác phẩm văn học, em hãy nêu cảm nghĩ về một tác phẩm nổi bật đã học, qua đó bày tỏ những suy nghĩ, cảm xúc, những đánh giá của bản thân về cái hay, cái đẹp trong nội dung và nghệ thuật của tác phẩm đó.

Cảm nghĩ nổi bật nhất về một câu chuyện đã học mà anh (chị) không thể nào quên Nêu cảm nghĩ nổi bật nhất về truyện ngắn Lão Hạc Những đặc điểm nghệ thuật nổi bật của ca dao Phát biểu cảm nghĩ về đoạn trích Bài học đường đời đầu tiên Cảm nghĩ về tác phẩm Một người Hà Nội Cảm nhận về bài Tự thuật trong Vũ trung tuỳ bút