Chủ đề chính trong văn chương la mã là gì?

Nghệ thuật La Mã là một danh mục cực kỳ rộng, bao gồm 1000 năm lịch sử, các tôn giáo và hệ thống chính trị khác nhau, nhiều phương tiện nghệ thuật và các địa điểm thực tế được tách biệt rộng rãi. Tuy nhiên, nói chung, nghệ thuật La Mã dựa nhiều vào trên các mô hình Hy Lạp. Nó sử dụng các hình thức lý tưởng hóa và rất thường miêu tả câu chuyện thần thoại.

Kiến trúc La Mã thường được đưa vào danh mục nghệ thuật. Người La Mã là những người đầu tiên sử dụng rộng rãi vòm trong kiến ​​trúc của họ, cho phép họ xây dựng các tòa nhà bằng đá lớn hơn và ổn định hơn nhiều.

Tác phẩm điêu khắc La Mã chủ yếu dựa trên các bản gốc bằng đất nung của Hy Lạp, do chất liệu của chúng, không tồn tại cho đến ngày nay. Đây hầu như chỉ là những nhân vật thần thoại. Các bức tượng La Mã nguyên bản thường mô tả các thượng nghị sĩ hoặc hoàng đế. Tác phẩm điêu khắc được chạm khắc từ đá cẩm thạch hoặc đúc bằng đồng.

Vẽ tranh tường là một hình thức nghệ thuật La Mã được nghiên cứu nhiều, độc đáo trong khảo cổ học cổ đại vì nó vẫn tồn tại. Ngày nay, bức tranh tường La Mã sẽ bị mai một nếu Vesuvius không phun trào và chôn vùi Pompeii và Herculaneum, bảo tồn các bức tường tại chỗ. Người La Mã thường vẽ cảnh phong cảnh, một loại hình nghệ thuật hoặc không được tạo ra hoặc không được ưa thích ở Hy Lạp. Do đó, nó là một phát minh độc đáo của người La Mã, hiếm có trong nghệ thuật La Mã.

Phù điêu là một hình thức nghệ thuật chính của người La Mã. Đây là những cảnh được khắc trên một mảnh đá. Ví dụ nổi tiếng nhất là Ara Pacis, một tòa nhà với các bức phù điêu trên tất cả các mặt của các bức tường bên trong và bên ngoài của nó.

NHỮNG THÀNH TỰU VĂN MINH LA MÃ

Văn minh La Mã được hình thành trên bán đảo Ý. Đây là một dãi đất đất dài và hẹp giống hình chiếc ủng vươn dài từ lục địa ra biển địa trung hải với diện tích khaongr 300.000km2. Người La Mã không chỉ kế thừa nền văn minh của người Hy Lạp thời cổ đại mà còn có những đóng góp đáng kể, tạo thành nền văn minh đặc sắc riêng của mình. Những thành tựu chủ yếu của nền văn minh La Mã như sau

1. Chữ viết

Chữ viết của người Etrusqua (người Tiểu Á) xuất hiện khoảng  TK VIII- VII TCN, nhưng đến nay người ta vẫn chưa đọc được thứ chữ viết này. Người ta tìm được khoảng 9000 dòng chữ của họ nhưng không biết đâu là từ, đâu là câu, đâu là bài.

Theo nhiều nguồn tài liệu, người La Mã chính thức có chữ viết vào thế kỉ VI TCN có nguồn gốc từ văn tự Hi Lạp. Trên cơ sở chữ viết Hy Lạp cổ, người La Mã đã bổ sung và hoàn thiện, đặt ra một loại chữ riêng của mình mà ngày nay ta quen gọi là chữ Latinh. 

Với hệ thống chữ viết đơn giản và tiện lợi, tiếng Latinh đã ngày càng trở nên phổ biến và được sử dụng rộng rãi ở các nước thuộc đế chế La Mã. Chữ Latinh chính là nguồn gốc của nhiều ngôn ngữ châu Âu hiện đại (Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp…Người La Mã còn để lại hệ thống chữ số mà ngày nay người ta vẫn thường dùng và quen gọi là chữ số La Mã.

Có thể nói, từ bảng chữ cái Latinh, chúng ta có những ngôn ngữ mà ngày nay được sử dụng làm ngôn ngữ chung cho cả thế giới, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, khoa học, nghệ thuật…mang mọi nền văn hóa của các quốc gia dần xích lại gần nhau hơn.

2. Văn học:

Văn học La Mã chủ yếu tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Hi Lạp. Văn học La Mã bao gồm nhiều thể loại như sử thi, thơ trữ tình, thơ trào phúng, văn xuôi, kịch…

Hai tập sử thi nổi tiếng của Hi Lạp là Iliat va Ôđixe đã trở thành nguồn cảm hứng cho các nhà thơ, nhà soạn kịch La Mã tiêu biểu như nhà thơ Vieecsgilut với trường ca Eneit có chủ đề, kết cấu, tình tiết ngôn từ được phỏng theo sử thi Iliat và Ôđixe. Không những thế các vị thần của Hy Lạp đều được người La Mã tiếp thu và cải biên đi thành những vị thần của mình như: Thần Zeus – thần Jupiter, Thần Hera,  PoseidonDemeterAthenaHestiaApollo, ArtemisAresAphroditeHephaestu….và hầu như các vị thần chính là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch.

Thần thoại của La Mã hầu như là những câu chuyện rất hấp dẫn về các vị thần và các anh hùng với những tính cách, khát vọng tình cảm gần gủi với con người. Thời cộng hoà, La Mã đã có nhiều thi sĩ và nhà soạn kịch : Anđronicus đã dịch Ôđixê ra tiếng Latinh, Novius đã viết sử thi Cuộc chiến tranh Puních,

Thời cộng hòa, có một nhà thơ đặc sắc là Catullus đã sáng tác nhiều bài thơ trữ tình, nồng cháy, biểu lộ cảm xúc dằn vặt của ông khi dang díu với người vợ của một chính khách nỗi tiếng.

Thời hoàn kim của văn học La Mã kéo dài từ khoảng năm 100 tr. Cn đến năm 40 sau công nguyên. Nhà văn xuất chúng nhất thời kỳ này là Marcus Tulius Cicero (106-43 TCN). Với tác phẩm nỗi tiếng như: Bàn về người hùng biện, Nhà hùng biện…ông sáng tác khoảng 58 bài văn chính trị, 774 bức thư. Nhưng đặc biệt công lao to lớn của ông là làm cho văn học La Mã trở nên nhuần nhuyễn.

Dưới thời trị vì của Augustus, ông có xu hướng dùng thơ ca để phục vụ cho nền thống trị của mình, ông bảo trợ rộng rãi với các văn nghệ sĩ. Do vậy, đã có rất nhiều nhà thơ lớn ra đời như

Vergilius (70-19 TCN) là nhà thơ lớn nhất La Mã. Tác phẩm đầu tiên làm ông bắt đàu có tiếng tăm là “Những bài ca của người chăn nuôi”. Tiếp theo là tác phẩm “Khuyến nông” tuyên truyền cho sự phát triển nông nghiệp.  Tác phẩm ưu tú nhất làm ông trở thành ngôi sao sáng nhất trong số các nhà thơ La Mã là Aeneid – tp gồm 12 quyển.(chuyện kể vể anh chánh Aeneas một vị anh hùng thần thoại thành Trojan,vượt bao khó khăn trước khi xây dựng xong thành La Mã). Được sáng tác suốt mười năm nhưng vẫn chưa hoàn thành. Nhưng người dân La Mã coi đó là tinh hoa của văn học La Mã và tôn vinh ông là “Homer của La Mã”

Julius Caesar (102-44 tcn) là một nhà chính khách lỗi lạc, một vị tướng tài ba, với tp Bình Phẩm về cuộc chiến tranh ở xứ Gaule

Về kịch Ở La Mã các nhà thơ Anđrônicút, Nơviút, Enniút, Plantút, Têxeiút cũng là những nhà soạn bi kịch và hài kịch. Các nhà soạn kịch La Mã thường dịch bi kịch và hài kịch của Hi Lạp, đồng thời phỏng theo kịch Hi Lạp để soạn những vở kịch lịch sử của La Mã hoặc cải biến các vở kịch Hi Lạp thành các vở kịch La Mã.

3. Sử học:

Người đầu tiên dùng văn xuôi Latinh để viết sử là Cato (234-149 TCN). Là nhà sử học thực sự đầu tiên của La Mã. Từ Cato đầu tiên về sau, La Mã có nhiều nhà sử học xuất sắc: Pôlibius, Plutarch, Tacitus…

Pôlibius (201-120 TCN) là người Hi Lạp bị đưa sang La Mã. Tác phẩm nõi tiếng của ông là Thông sử (gồm 40 tập). Ông nói; “Sử học là một thứ triết học lấy sự việc thật để dạy người đời”

Titus Livius (59TCN-17CN) lầ nhà sử học xuất sắc của La Mã trong thời kì trị vì của Augustus. Tác phẩm Lịch Sử La Mã dài 142 chương, nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước qua lịch sử hào hùng của dân tộc.

Tacitus (15-120) sống vào cuối thế kỉ I đầu thế kỉ II. Nỗi tiếng với tác phẩm Xứ Giecman.

Plutarch (46-125) người Hi Lạp sống cùng thời kì với Tacitus, tác giả của 200 cuốn sách rất có giá trị, nhất là cuốn Tiểu Sử Các Doanh Nhân Hy Lạp – La Mã.

Những thành tựu nói trên của sử học La Mã đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền sử học thế giới.

4. Tôn giáo

Người La Mã nguyên thủy cũng theo đa thần giáo. Trên cơ sở lấy các vị thần của Hy Lạp tiếp thu và cải biên đi thành những vị thần của mình như: thần Jupiter, Juno, Neptune, Bacchus, Apollo, Diana, Mercury…… khi tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp, họ đã tiếp nhận toàn bộ tôn giáo của người Hy Lạp với đầy đủ các đặc điểm của nó: trần tục và thực tế, không có nội dung thần thánh và luân lý; mối quan hệ giữa con người và thần thánh thực chất là một hợp đồng có lợi cho cả hai bên; các vị thần của người Hy Lạp và người La Mã có cùng một chức năng tương ứng như nhau. Tuy nhiên tôn giáo của La Mã mang tính chính trị và ít nhân bản hơn. Nó được sử dụng không phải để vinh thăng con người hay làm cho con người hưởng cuộc sống trần thế mà là để bảo vệ nhà nước khỏi các kẻ thù.

Một đặc điểm nữa là khi nói đến tôn giáo ở đế quốc La Mã phải nói đến đạo Kitô, mặc dù đạo Kitô không phải ra đời tại La Mã. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Kitô là Jesus Crit, con của chúa Trời đầu thai vào người con gái đồng trinh Maria. Jesus Crit ra đời vào khoảng thế kỉ IV TCN tại Béthleem (Palestin ngày nay). Đến năm 30 tuổi, Jesus Crit bắt đầu đi truyền đạo.

Đạo Kitô khuyên con người nhẫn nhục chịu đựng đau khổ nơi trần gian để khi chết sẽ được hưởng hạnh phúc nơi thiên đàng. Chúa Trời sáng tạo ra thế giới này. Chúa Trời, chúa Jesus, thành thần tuy ba mà là một ( tam vị nhất thể ). Đạo Kitô cũng có quan niệm thiên đường, địa ngục, thiên thần, ma quỉ... Giáo lí của đạo Kitô gồm có Kinh cựu ước (tiếp nhận của đạo Do Thái) và Kinh tân ước (kể từ khi chúa Jesus ra đời). Luật lệ của đạo Kitô thể hiện trong 10 điều răn.

Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những công xã vừa mang tính chất tôn giáo, vừa giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Đến thế kỉ II, các công xã Kitô dần phát triển thành Giáo hội.

Khi mới ra đời, đạo Kitô bị các hoàng đế La Mã và bọn quí tộc địa phương đàn áp rất tàn bạo. Vụ đàn áp đẫm máu nhất là vụ đàn áp vào năm 64, dưới thời hoàng đế Nêrông, máu của biết bao nhiêu tín đồ đã đổ. Nhưng số người theo đạo Kitô không những không giảm mà ngày càng tăng lên. Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc “vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho Chúa trời” tức là tôn giáo không dính dáng đến chính trị. Thấy đàn áp mãi không có tác dụng, các hoàng đế La Mã nghĩ tới biện pháp chung sống. Năm 311, một hoàng đế La Mã đã ra lệnh ngưng đàn áp các tín đồ Kitô. Năm 313, đạo Kitô được hoàng đế La Mã công nhận là hợp pháp. Năm 337, một hoàng đế La Mã lúc đó là Cônxtantinut đã gia nhập đạo Kitô. Hoàng đế theo đạo Kitô thì đương nhiên các quan lại đua nhau theo Đạo. Ngân quĩ quốc gia cũng được chi ra để đóng góp cho Nhà thờ. Đạo Kitô được truyền bá rộng khắp trong vùng đất quanh Địa Trung Hải. Sau này, khi đế quốc La Mã tan vỡ thì đạo Kitô đã ăn sâu, lan rộng khắp châu Âu.

5. Triết học: trong lĩnh vực này, người La Mã không có nhiều sáng tạo mà chủ yếu kế thừa và phát triển những tư tưởng triết học Hy Lạp.

Kế thừa triết học Hi lạp, đến thế kỉ I TCN, triết học La Mã cũng tương đối phát triển. Nhà triết học duy vật xuất sắc nhất của La Mã là Lucrêtiút (98-54TCN). Ông là người chịu ảnh hưởng khá mạnh mẻ từ tư tưởng của nhà triết học Epicurus (thuyết khắc kỷ). Tác phẩm duy nhất mà ông để lại là “về bản chất của sự vật”. (Triết học duy vật)

Trong hai thế kỷ đấu SCN, thuyết khắc kỷ được cho là phù hợp với nhũng đức tính truyển thống với người dân La Mã (Triết học duy tâm). Có ba môn đồ nỗi tiếng là:

Seneca (Tk III TCN – 65 TCN) là thầy học của bạo chúa Nêrôn. Tư tưởng triết học chủ yếu của ông là vấn đề đạo đức. Ông chủ trương con người phải độc lập về nội tâm và yên tĩnh về tinh thần. Tác phẩm :Bàn về nhân tử, Bàn về phẫn nộ, Bàn về sự yên tĩnh của tinh thần, Bàn về cuộc sống hạnh phúc.

Epictetus (thế kỉ I - đầu thế kỉ II) là học trò của Xênéc. Đặc điểm triết học của ông là chủ nghĩa bi quan và luân lí cá nhân chủ nghĩa.

Marchus Orelius (121-180) là hoàng đế La Mã (161-180) được gọi là “nhà triết học trên ngôi báu”. Quan điểm triết học chủ yếu của ông là: con người là do thần xếp đặt nên con người phải làm tròn nghĩa vụ của mình dù phải chịu đựng mọi khó khăn và thử thách.

6. Luật pháp

Nếu như trong các lĩnh vực văn chương, nghệ thuật, triết lý, người La Mã được xem là học trò của người Hy Lạp thì trong lĩnh vực luật pháp, vị thế của họ cao hơn nhiều. Khoảng năm 514 TCN, nhà nước cộng hoà La Mã đã được thành lập, bộ máy nhà nước gồm có viện nguyên lão, đại hội nhân dân và quan chấp chính. Hệ thống pháp luật của họ là kết quả của một quá trình tiến triển lâu dài được coi như bắt đầu bằng bộ luật 12 bảng được công bố năm 450. Năm 454 TCN cử 3 người sang tìm hiểu luật pháp của Hi Lạp, nhất là của Xôlông. Năm 452 TCN, La Mã đã thành lập uỷ ban 10 người để soạn luật. Soạn được bộ luật, khắc trên 10 bảng đồng đặt ở quảng trường. Năm 450 TCN, cử một uỷ ban 10 người mới, soạn thêm hai bảng nữa vì vậy luật này gọi là luật 12 bảng.

Nội dung của bộ luật này đề cập đến nhiều mặt trong đời sống xã hội như thể lệ tố tụng xét xử, việc kế thừa tài sản, việc cho vay nợ, quan hệ gia đình, đại vị phụ nữ… Tinh thần chủ yếu của bộ luật là bảo vệ tính mạng, tài sản và danh dự cho mọi người. Về quan hệ gia đình, các điều luật thể hiện rõ tính chất của chế độ gia trưởng.

Về lĩnh vực chính trị : “Luật 12 bảng ra lệnh xử tử hình kẻ nào xúi giục kẻ thù của nhân dân La Mã tấn công nhà nước La Mã hay kẻ nào nộp một công dân La Mã cho kẻ thù.”

Tóm lại, nội dung của Luật 12 bảng chỉ mới đề cập đến một số mặt trong đời sống xã hội, nhiều mức hình phạt quá khắc nghiệt, nhưng nó có tác dụng hạn chế sự xét xử độc đoán của quí tộc, đồng thời đặt cơ sở cho sự phát triển của luật pháp La Mã cổ đại.

Những pháp lệnh khác từ giữa thế kỉ V về sau, nhà nước La Mã phải ban hành nhiều pháp lệnh bổ sung. Năm 445 TCN, ban bố luật Canulêiut cho phép bình dân kết hôn với quí tộc. Năm 367 TCN, lại thông qua ba pháp lệnh quan trọng:

1. xóa chế độ nô lệ vì nợ đối với công dân La Mã

2. Không ai được chiếm quá 50 jujera đất công tức là bằng khoảng 125 ha.

3. Bỏ chức Tư lệnh quân đoàn, khôi phục chế độ bầu quan chấp chính hằng năm, trong 2 quan chấp chính phải có 1 người là bình dân.

Năm 287 TCN, ban hành pháp lệnh qui định quyết nghị của Đại hội bình dân, có hiệu lực như pháp luật đối với mọi công dân La Mã.

Đến cuối thế kỉ III, quyền lập pháp của Viện Nguyên lão cũng không còn nữa, nên mệnh lệnh của nguyên thủ tức là pháp luật.

Nói chung Luật của La Mã được chia thành ba ngành lớn

- Jus civile tứcDân Luật: tức là luật chủ yếu liên quan đến La Mã và các công dân của nó

- Jus gentium tức là luật của nhân dân có giá trị cho mọi người dân không phân biệt dân tộc.

- Jus Naturale tức luật tự nhiên. Họ cho rằng tự nhiên được sắp xếp theo một trình tự hợp lý, vốn được thể hiện thành công lý và quyền hạn. có nghĩa là tất cả mọi người đều tự nhiên bình đẳng như nhau, và con người được hưởng một số quyền cơ bản mà các chế độ trính trị khác không được xâm phạm.

Luật La Mã đến thời trung đại và cận đại có ảnh hưởng rất lớn ở Châu Âu.

7. Nghệ thuật:

a. Kiến trúc:

Thành tựu về kiến trúc La Mã rất rực rỡ. người La mã khi xây dựng các công trình đều tuân thủ theo một đồ án bất di bất dịch đó là: hình vuông hay hình chữ nhật với các cạnh thật vuông vức được kẻ ô như bàn cờ. nhà kiến trúc sư nỗi tiếng của La Mã là Vitrius (86-26 TCN), mơ ước làm sống lại những kiến trúc cổ điển Hy Lạp. ông đã dành cả đời để viết về các kỷ thuật kiến trúc xây dựng. và đây cũng chính là bộ sách duy nhất thời cổ đại được bảo tồn nguyên vẹn đến ngày nay. 

Các công trình kiến trúc của La Mã bao gồm tường thành, đền miếu, cung điện, rạp hát…Những công trình này từ thời cộng hoà đã có, nhưng đặc biệt phát triển từ thời Augustu. Chính Augustu đã tự hào nói rằng ông đã biến La Mã bằng gạch thành La Mã bằng đá cẩm thạch. Các công trình kiến trúc nổi tiếng nhất là đền thờ Pantheon, đấu trường Colosseum (biểu hiện sự hùng cường- đá cẩm thạch), nhà tắm Caracalla (người La mã rất phóng khoáng trong vấn đề tình dục, do vậy không chỉ là nhà tắm mà đó còn là nơi quan hệ tình dục, gặp gỡ giao lưu, đọc sách…nhà tăm giống như là một công trình văn hóa lớn.

b. Điêu khắc:

Nghề điêu khắc của của người La Mã thường chú ý đến nghệ thuật trong các tác phẩm điêu khắc, chủ yếu là tượng bán thân như vua Caesar (gương mặt đầy tham vọng); Augustus (thể hiện sự quyết tâm); Diocletian (thể hiện sự cứng rắn, môi mím chặt và là người có tuổi).

Để làm đẹp đường phố, quảng trường, đền miếu, La Mã đã tạo ra rất nhiều tượng. Tượng được dựng ở kháp nơi. Các bức phù điêu thường khắc trên các côt trụ kỉ niệm chiến thắng của các hoàng đế và trên các vòm khải hoàn môn. Nội dung các bức phù điêu thường mô tả những sự tích lịch sử.

c. Hội hoạ:

Các tác phẩm hội hoạ của La Mã cổ đại còn giữ lại chủ yếu là các bức bích hoạ, trên đó vẽ phong cảnh, các đồ trang sức, tĩnh vật…

8. Khoa học – kỷ thuật

Nhà khoa học nổi tiếng nỗi tiếng nhất và tiêu biểu nhất của La Mã là  Pliny (23-79). Ông đã hoàn thành tác phẩm đầu tiên là Lịch sử tự nhiên gồm 37 chương trong suốt 77 năm. Đó là bản tập hợp các tri thức của các ngành khoa học như: thiên văn học, địa lí học, nhân loại học, động vật học, thực vật học, nông học, y học, luyện kim học, hội hoạ, điêu khắc…dựa trên tài liệu của gần 500 tác giả khác nhau.

Claudius Ptolemy (khoảng thế kỷ thứ II) là người đầu tiên vẻ bản đồ trái đất, lấy địa trung hải làm trung tâm. Nối tiếng với tp “Hệ thống vũ trụ”, trong tp này ông cho rằng trái đất là hình tròn đã giúp không ít các nhà địa lý tìm ra nhữn miền đất mới. tuy nhiên, điểm sai lầm của ông khi cho rằng trái đát là trung tâm củ vũ trụ và quan điểm này đã chi phối châu âu hết 1400 năm.

Heron (thế kỷ I) là một kỷ sư tài ba và là nhà toán học xuất sắc. ông đưa ra các cách tính diện tích hình cầu và phép tính gần đúng với giá trị của nó.

Menelai là nhà toán học và thiên văn học. Ông đã chứng minh được tổng các góc trong một tam giác cầu lớn hơn 180 độ và cách tính dây cung mặt cầu.

Julius Caesar đã cải cách lịch một năm có 365,25 ngày cứ bốn năm thì có một năm nhuần. lịch này được dùng đến năm 44 TCN thì không còn sử dụng nữa

Đại biểu xuất sắc nhất về y học thời bấy giờ là Claudius Galen  (131-đầu thế kỉ III) với tác phẩm “Phương pháp chữa bệnh.”. ông chứng minh được rằng các mạch vận chuyển máu, nếu như cắt đứt dù chỉ là một mạch máu nhỏ cũng đủ để làm cho máu chảy hết cơ thể trong vòng nữa giờ.

Như vậy, sự thành tựu văn minh La Mã có huy hoàng và sán lạn thì cũng là nhờ vào sự vận dụng văn minh Hy Lạp. tuy La Mã đã cải biên và sáng tạo thêm nhiều để hoàn thành một nền văn minh hoàn chỉnh của dân tộc mình. Nhưng khi chúng ta nói đến văn minh La Mã thì không thể nào không đi kèm với văn minh Hy Lạp. Tóm lại, dù là nền văn minh La Mã hay Hy Lạp thì suy cho cùng đây là hai nền văn minh cổ đại vô cùng xán lạn. như  Ăngghen nói : “không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp; không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia La Mã. Mà không có cơ sở của văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì cũng không có châu âu hiện tại được”


Page 2

NHỮNG THÀNH TỰU VĂN MINH LA MÃ

Văn minh La Mã được hình thành trên bán đảo Ý. Đây là một dãi đất đất dài và hẹp giống hình chiếc ủng vươn dài từ lục địa ra biển địa trung hải với diện tích khaongr 300.000km2. Người La Mã không chỉ kế thừa nền văn minh của người Hy Lạp thời cổ đại mà còn có những đóng góp đáng kể, tạo thành nền văn minh đặc sắc riêng của mình. Những thành tựu chủ yếu của nền văn minh La Mã như sau

1. Chữ viết

Chữ viết của người Etrusqua (người Tiểu Á) xuất hiện khoảng  TK VIII- VII TCN, nhưng đến nay người ta vẫn chưa đọc được thứ chữ viết này. Người ta tìm được khoảng 9000 dòng chữ của họ nhưng không biết đâu là từ, đâu là câu, đâu là bài.

Theo nhiều nguồn tài liệu, người La Mã chính thức có chữ viết vào thế kỉ VI TCN có nguồn gốc từ văn tự Hi Lạp. Trên cơ sở chữ viết Hy Lạp cổ, người La Mã đã bổ sung và hoàn thiện, đặt ra một loại chữ riêng của mình mà ngày nay ta quen gọi là chữ Latinh. 

Với hệ thống chữ viết đơn giản và tiện lợi, tiếng Latinh đã ngày càng trở nên phổ biến và được sử dụng rộng rãi ở các nước thuộc đế chế La Mã. Chữ Latinh chính là nguồn gốc của nhiều ngôn ngữ châu Âu hiện đại (Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp…Người La Mã còn để lại hệ thống chữ số mà ngày nay người ta vẫn thường dùng và quen gọi là chữ số La Mã.

Có thể nói, từ bảng chữ cái Latinh, chúng ta có những ngôn ngữ mà ngày nay được sử dụng làm ngôn ngữ chung cho cả thế giới, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, khoa học, nghệ thuật…mang mọi nền văn hóa của các quốc gia dần xích lại gần nhau hơn.

2. Văn học:

Văn học La Mã chủ yếu tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Hi Lạp. Văn học La Mã bao gồm nhiều thể loại như sử thi, thơ trữ tình, thơ trào phúng, văn xuôi, kịch…

Hai tập sử thi nổi tiếng của Hi Lạp là Iliat va Ôđixe đã trở thành nguồn cảm hứng cho các nhà thơ, nhà soạn kịch La Mã tiêu biểu như nhà thơ Vieecsgilut với trường ca Eneit có chủ đề, kết cấu, tình tiết ngôn từ được phỏng theo sử thi Iliat và Ôđixe. Không những thế các vị thần của Hy Lạp đều được người La Mã tiếp thu và cải biên đi thành những vị thần của mình như: Thần Zeus – thần Jupiter, Thần Hera,  PoseidonDemeterAthenaHestiaApollo, ArtemisAresAphroditeHephaestu….và hầu như các vị thần chính là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch.

Thần thoại của La Mã hầu như là những câu chuyện rất hấp dẫn về các vị thần và các anh hùng với những tính cách, khát vọng tình cảm gần gủi với con người. Thời cộng hoà, La Mã đã có nhiều thi sĩ và nhà soạn kịch : Anđronicus đã dịch Ôđixê ra tiếng Latinh, Novius đã viết sử thi Cuộc chiến tranh Puních,

Thời cộng hòa, có một nhà thơ đặc sắc là Catullus đã sáng tác nhiều bài thơ trữ tình, nồng cháy, biểu lộ cảm xúc dằn vặt của ông khi dang díu với người vợ của một chính khách nỗi tiếng.

Thời hoàn kim của văn học La Mã kéo dài từ khoảng năm 100 tr. Cn đến năm 40 sau công nguyên. Nhà văn xuất chúng nhất thời kỳ này là Marcus Tulius Cicero (106-43 TCN). Với tác phẩm nỗi tiếng như: Bàn về người hùng biện, Nhà hùng biện…ông sáng tác khoảng 58 bài văn chính trị, 774 bức thư. Nhưng đặc biệt công lao to lớn của ông là làm cho văn học La Mã trở nên nhuần nhuyễn.

Dưới thời trị vì của Augustus, ông có xu hướng dùng thơ ca để phục vụ cho nền thống trị của mình, ông bảo trợ rộng rãi với các văn nghệ sĩ. Do vậy, đã có rất nhiều nhà thơ lớn ra đời như

Vergilius (70-19 TCN) là nhà thơ lớn nhất La Mã. Tác phẩm đầu tiên làm ông bắt đàu có tiếng tăm là “Những bài ca của người chăn nuôi”. Tiếp theo là tác phẩm “Khuyến nông” tuyên truyền cho sự phát triển nông nghiệp.  Tác phẩm ưu tú nhất làm ông trở thành ngôi sao sáng nhất trong số các nhà thơ La Mã là Aeneid – tp gồm 12 quyển.(chuyện kể vể anh chánh Aeneas một vị anh hùng thần thoại thành Trojan,vượt bao khó khăn trước khi xây dựng xong thành La Mã). Được sáng tác suốt mười năm nhưng vẫn chưa hoàn thành. Nhưng người dân La Mã coi đó là tinh hoa của văn học La Mã và tôn vinh ông là “Homer của La Mã”

Julius Caesar (102-44 tcn) là một nhà chính khách lỗi lạc, một vị tướng tài ba, với tp Bình Phẩm về cuộc chiến tranh ở xứ Gaule

Về kịch Ở La Mã các nhà thơ Anđrônicút, Nơviút, Enniút, Plantút, Têxeiút cũng là những nhà soạn bi kịch và hài kịch. Các nhà soạn kịch La Mã thường dịch bi kịch và hài kịch của Hi Lạp, đồng thời phỏng theo kịch Hi Lạp để soạn những vở kịch lịch sử của La Mã hoặc cải biến các vở kịch Hi Lạp thành các vở kịch La Mã.

3. Sử học:

Người đầu tiên dùng văn xuôi Latinh để viết sử là Cato (234-149 TCN). Là nhà sử học thực sự đầu tiên của La Mã. Từ Cato đầu tiên về sau, La Mã có nhiều nhà sử học xuất sắc: Pôlibius, Plutarch, Tacitus…

Pôlibius (201-120 TCN) là người Hi Lạp bị đưa sang La Mã. Tác phẩm nõi tiếng của ông là Thông sử (gồm 40 tập). Ông nói; “Sử học là một thứ triết học lấy sự việc thật để dạy người đời”

Titus Livius (59TCN-17CN) lầ nhà sử học xuất sắc của La Mã trong thời kì trị vì của Augustus. Tác phẩm Lịch Sử La Mã dài 142 chương, nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước qua lịch sử hào hùng của dân tộc.

Tacitus (15-120) sống vào cuối thế kỉ I đầu thế kỉ II. Nỗi tiếng với tác phẩm Xứ Giecman.

Plutarch (46-125) người Hi Lạp sống cùng thời kì với Tacitus, tác giả của 200 cuốn sách rất có giá trị, nhất là cuốn Tiểu Sử Các Doanh Nhân Hy Lạp – La Mã.

Những thành tựu nói trên của sử học La Mã đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền sử học thế giới.

4. Tôn giáo

Người La Mã nguyên thủy cũng theo đa thần giáo. Trên cơ sở lấy các vị thần của Hy Lạp tiếp thu và cải biên đi thành những vị thần của mình như: thần Jupiter, Juno, Neptune, Bacchus, Apollo, Diana, Mercury…… khi tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp, họ đã tiếp nhận toàn bộ tôn giáo của người Hy Lạp với đầy đủ các đặc điểm của nó: trần tục và thực tế, không có nội dung thần thánh và luân lý; mối quan hệ giữa con người và thần thánh thực chất là một hợp đồng có lợi cho cả hai bên; các vị thần của người Hy Lạp và người La Mã có cùng một chức năng tương ứng như nhau. Tuy nhiên tôn giáo của La Mã mang tính chính trị và ít nhân bản hơn. Nó được sử dụng không phải để vinh thăng con người hay làm cho con người hưởng cuộc sống trần thế mà là để bảo vệ nhà nước khỏi các kẻ thù.

Một đặc điểm nữa là khi nói đến tôn giáo ở đế quốc La Mã phải nói đến đạo Kitô, mặc dù đạo Kitô không phải ra đời tại La Mã. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Kitô là Jesus Crit, con của chúa Trời đầu thai vào người con gái đồng trinh Maria. Jesus Crit ra đời vào khoảng thế kỉ IV TCN tại Béthleem (Palestin ngày nay). Đến năm 30 tuổi, Jesus Crit bắt đầu đi truyền đạo.

Đạo Kitô khuyên con người nhẫn nhục chịu đựng đau khổ nơi trần gian để khi chết sẽ được hưởng hạnh phúc nơi thiên đàng. Chúa Trời sáng tạo ra thế giới này. Chúa Trời, chúa Jesus, thành thần tuy ba mà là một ( tam vị nhất thể ). Đạo Kitô cũng có quan niệm thiên đường, địa ngục, thiên thần, ma quỉ... Giáo lí của đạo Kitô gồm có Kinh cựu ước (tiếp nhận của đạo Do Thái) và Kinh tân ước (kể từ khi chúa Jesus ra đời). Luật lệ của đạo Kitô thể hiện trong 10 điều răn.

Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những công xã vừa mang tính chất tôn giáo, vừa giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Đến thế kỉ II, các công xã Kitô dần phát triển thành Giáo hội.

Khi mới ra đời, đạo Kitô bị các hoàng đế La Mã và bọn quí tộc địa phương đàn áp rất tàn bạo. Vụ đàn áp đẫm máu nhất là vụ đàn áp vào năm 64, dưới thời hoàng đế Nêrông, máu của biết bao nhiêu tín đồ đã đổ. Nhưng số người theo đạo Kitô không những không giảm mà ngày càng tăng lên. Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc “vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho Chúa trời” tức là tôn giáo không dính dáng đến chính trị. Thấy đàn áp mãi không có tác dụng, các hoàng đế La Mã nghĩ tới biện pháp chung sống. Năm 311, một hoàng đế La Mã đã ra lệnh ngưng đàn áp các tín đồ Kitô. Năm 313, đạo Kitô được hoàng đế La Mã công nhận là hợp pháp. Năm 337, một hoàng đế La Mã lúc đó là Cônxtantinut đã gia nhập đạo Kitô. Hoàng đế theo đạo Kitô thì đương nhiên các quan lại đua nhau theo Đạo. Ngân quĩ quốc gia cũng được chi ra để đóng góp cho Nhà thờ. Đạo Kitô được truyền bá rộng khắp trong vùng đất quanh Địa Trung Hải. Sau này, khi đế quốc La Mã tan vỡ thì đạo Kitô đã ăn sâu, lan rộng khắp châu Âu.

5. Triết học: trong lĩnh vực này, người La Mã không có nhiều sáng tạo mà chủ yếu kế thừa và phát triển những tư tưởng triết học Hy Lạp.

Kế thừa triết học Hi lạp, đến thế kỉ I TCN, triết học La Mã cũng tương đối phát triển. Nhà triết học duy vật xuất sắc nhất của La Mã là Lucrêtiút (98-54TCN). Ông là người chịu ảnh hưởng khá mạnh mẻ từ tư tưởng của nhà triết học Epicurus (thuyết khắc kỷ). Tác phẩm duy nhất mà ông để lại là “về bản chất của sự vật”. (Triết học duy vật)

Trong hai thế kỷ đấu SCN, thuyết khắc kỷ được cho là phù hợp với nhũng đức tính truyển thống với người dân La Mã (Triết học duy tâm). Có ba môn đồ nỗi tiếng là:

Seneca (Tk III TCN – 65 TCN) là thầy học của bạo chúa Nêrôn. Tư tưởng triết học chủ yếu của ông là vấn đề đạo đức. Ông chủ trương con người phải độc lập về nội tâm và yên tĩnh về tinh thần. Tác phẩm :Bàn về nhân tử, Bàn về phẫn nộ, Bàn về sự yên tĩnh của tinh thần, Bàn về cuộc sống hạnh phúc.

Epictetus (thế kỉ I - đầu thế kỉ II) là học trò của Xênéc. Đặc điểm triết học của ông là chủ nghĩa bi quan và luân lí cá nhân chủ nghĩa.

Marchus Orelius (121-180) là hoàng đế La Mã (161-180) được gọi là “nhà triết học trên ngôi báu”. Quan điểm triết học chủ yếu của ông là: con người là do thần xếp đặt nên con người phải làm tròn nghĩa vụ của mình dù phải chịu đựng mọi khó khăn và thử thách.

6. Luật pháp

Nếu như trong các lĩnh vực văn chương, nghệ thuật, triết lý, người La Mã được xem là học trò của người Hy Lạp thì trong lĩnh vực luật pháp, vị thế của họ cao hơn nhiều. Khoảng năm 514 TCN, nhà nước cộng hoà La Mã đã được thành lập, bộ máy nhà nước gồm có viện nguyên lão, đại hội nhân dân và quan chấp chính. Hệ thống pháp luật của họ là kết quả của một quá trình tiến triển lâu dài được coi như bắt đầu bằng bộ luật 12 bảng được công bố năm 450. Năm 454 TCN cử 3 người sang tìm hiểu luật pháp của Hi Lạp, nhất là của Xôlông. Năm 452 TCN, La Mã đã thành lập uỷ ban 10 người để soạn luật. Soạn được bộ luật, khắc trên 10 bảng đồng đặt ở quảng trường. Năm 450 TCN, cử một uỷ ban 10 người mới, soạn thêm hai bảng nữa vì vậy luật này gọi là luật 12 bảng.

Nội dung của bộ luật này đề cập đến nhiều mặt trong đời sống xã hội như thể lệ tố tụng xét xử, việc kế thừa tài sản, việc cho vay nợ, quan hệ gia đình, đại vị phụ nữ… Tinh thần chủ yếu của bộ luật là bảo vệ tính mạng, tài sản và danh dự cho mọi người. Về quan hệ gia đình, các điều luật thể hiện rõ tính chất của chế độ gia trưởng.

Về lĩnh vực chính trị : “Luật 12 bảng ra lệnh xử tử hình kẻ nào xúi giục kẻ thù của nhân dân La Mã tấn công nhà nước La Mã hay kẻ nào nộp một công dân La Mã cho kẻ thù.”

Tóm lại, nội dung của Luật 12 bảng chỉ mới đề cập đến một số mặt trong đời sống xã hội, nhiều mức hình phạt quá khắc nghiệt, nhưng nó có tác dụng hạn chế sự xét xử độc đoán của quí tộc, đồng thời đặt cơ sở cho sự phát triển của luật pháp La Mã cổ đại.

Những pháp lệnh khác từ giữa thế kỉ V về sau, nhà nước La Mã phải ban hành nhiều pháp lệnh bổ sung. Năm 445 TCN, ban bố luật Canulêiut cho phép bình dân kết hôn với quí tộc. Năm 367 TCN, lại thông qua ba pháp lệnh quan trọng:

1. xóa chế độ nô lệ vì nợ đối với công dân La Mã

2. Không ai được chiếm quá 50 jujera đất công tức là bằng khoảng 125 ha.

3. Bỏ chức Tư lệnh quân đoàn, khôi phục chế độ bầu quan chấp chính hằng năm, trong 2 quan chấp chính phải có 1 người là bình dân.

Năm 287 TCN, ban hành pháp lệnh qui định quyết nghị của Đại hội bình dân, có hiệu lực như pháp luật đối với mọi công dân La Mã.

Đến cuối thế kỉ III, quyền lập pháp của Viện Nguyên lão cũng không còn nữa, nên mệnh lệnh của nguyên thủ tức là pháp luật.

Nói chung Luật của La Mã được chia thành ba ngành lớn

- Jus civile tứcDân Luật: tức là luật chủ yếu liên quan đến La Mã và các công dân của nó

- Jus gentium tức là luật của nhân dân có giá trị cho mọi người dân không phân biệt dân tộc.

- Jus Naturale tức luật tự nhiên. Họ cho rằng tự nhiên được sắp xếp theo một trình tự hợp lý, vốn được thể hiện thành công lý và quyền hạn. có nghĩa là tất cả mọi người đều tự nhiên bình đẳng như nhau, và con người được hưởng một số quyền cơ bản mà các chế độ trính trị khác không được xâm phạm.

Luật La Mã đến thời trung đại và cận đại có ảnh hưởng rất lớn ở Châu Âu.

7. Nghệ thuật:

a. Kiến trúc:

Thành tựu về kiến trúc La Mã rất rực rỡ. người La mã khi xây dựng các công trình đều tuân thủ theo một đồ án bất di bất dịch đó là: hình vuông hay hình chữ nhật với các cạnh thật vuông vức được kẻ ô như bàn cờ. nhà kiến trúc sư nỗi tiếng của La Mã là Vitrius (86-26 TCN), mơ ước làm sống lại những kiến trúc cổ điển Hy Lạp. ông đã dành cả đời để viết về các kỷ thuật kiến trúc xây dựng. và đây cũng chính là bộ sách duy nhất thời cổ đại được bảo tồn nguyên vẹn đến ngày nay. 

Các công trình kiến trúc của La Mã bao gồm tường thành, đền miếu, cung điện, rạp hát…Những công trình này từ thời cộng hoà đã có, nhưng đặc biệt phát triển từ thời Augustu. Chính Augustu đã tự hào nói rằng ông đã biến La Mã bằng gạch thành La Mã bằng đá cẩm thạch. Các công trình kiến trúc nổi tiếng nhất là đền thờ Pantheon, đấu trường Colosseum (biểu hiện sự hùng cường- đá cẩm thạch), nhà tắm Caracalla (người La mã rất phóng khoáng trong vấn đề tình dục, do vậy không chỉ là nhà tắm mà đó còn là nơi quan hệ tình dục, gặp gỡ giao lưu, đọc sách…nhà tăm giống như là một công trình văn hóa lớn.

b. Điêu khắc:

Nghề điêu khắc của của người La Mã thường chú ý đến nghệ thuật trong các tác phẩm điêu khắc, chủ yếu là tượng bán thân như vua Caesar (gương mặt đầy tham vọng); Augustus (thể hiện sự quyết tâm); Diocletian (thể hiện sự cứng rắn, môi mím chặt và là người có tuổi).

Để làm đẹp đường phố, quảng trường, đền miếu, La Mã đã tạo ra rất nhiều tượng. Tượng được dựng ở kháp nơi. Các bức phù điêu thường khắc trên các côt trụ kỉ niệm chiến thắng của các hoàng đế và trên các vòm khải hoàn môn. Nội dung các bức phù điêu thường mô tả những sự tích lịch sử.

c. Hội hoạ:

Các tác phẩm hội hoạ của La Mã cổ đại còn giữ lại chủ yếu là các bức bích hoạ, trên đó vẽ phong cảnh, các đồ trang sức, tĩnh vật…

8. Khoa học – kỷ thuật

Nhà khoa học nổi tiếng nỗi tiếng nhất và tiêu biểu nhất của La Mã là  Pliny (23-79). Ông đã hoàn thành tác phẩm đầu tiên là Lịch sử tự nhiên gồm 37 chương trong suốt 77 năm. Đó là bản tập hợp các tri thức của các ngành khoa học như: thiên văn học, địa lí học, nhân loại học, động vật học, thực vật học, nông học, y học, luyện kim học, hội hoạ, điêu khắc…dựa trên tài liệu của gần 500 tác giả khác nhau.

Claudius Ptolemy (khoảng thế kỷ thứ II) là người đầu tiên vẻ bản đồ trái đất, lấy địa trung hải làm trung tâm. Nối tiếng với tp “Hệ thống vũ trụ”, trong tp này ông cho rằng trái đất là hình tròn đã giúp không ít các nhà địa lý tìm ra nhữn miền đất mới. tuy nhiên, điểm sai lầm của ông khi cho rằng trái đát là trung tâm củ vũ trụ và quan điểm này đã chi phối châu âu hết 1400 năm.

Heron (thế kỷ I) là một kỷ sư tài ba và là nhà toán học xuất sắc. ông đưa ra các cách tính diện tích hình cầu và phép tính gần đúng với giá trị của nó.

Menelai là nhà toán học và thiên văn học. Ông đã chứng minh được tổng các góc trong một tam giác cầu lớn hơn 180 độ và cách tính dây cung mặt cầu.

Julius Caesar đã cải cách lịch một năm có 365,25 ngày cứ bốn năm thì có một năm nhuần. lịch này được dùng đến năm 44 TCN thì không còn sử dụng nữa

Đại biểu xuất sắc nhất về y học thời bấy giờ là Claudius Galen  (131-đầu thế kỉ III) với tác phẩm “Phương pháp chữa bệnh.”. ông chứng minh được rằng các mạch vận chuyển máu, nếu như cắt đứt dù chỉ là một mạch máu nhỏ cũng đủ để làm cho máu chảy hết cơ thể trong vòng nữa giờ.

Như vậy, sự thành tựu văn minh La Mã có huy hoàng và sán lạn thì cũng là nhờ vào sự vận dụng văn minh Hy Lạp. tuy La Mã đã cải biên và sáng tạo thêm nhiều để hoàn thành một nền văn minh hoàn chỉnh của dân tộc mình. Nhưng khi chúng ta nói đến văn minh La Mã thì không thể nào không đi kèm với văn minh Hy Lạp. Tóm lại, dù là nền văn minh La Mã hay Hy Lạp thì suy cho cùng đây là hai nền văn minh cổ đại vô cùng xán lạn. như  Ăngghen nói : “không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp; không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia La Mã. Mà không có cơ sở của văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì cũng không có châu âu hiện tại được”


Page 3

NHỮNG THÀNH TỰU VĂN MINH LA MÃ

Văn minh La Mã được hình thành trên bán đảo Ý. Đây là một dãi đất đất dài và hẹp giống hình chiếc ủng vươn dài từ lục địa ra biển địa trung hải với diện tích khaongr 300.000km2. Người La Mã không chỉ kế thừa nền văn minh của người Hy Lạp thời cổ đại mà còn có những đóng góp đáng kể, tạo thành nền văn minh đặc sắc riêng của mình. Những thành tựu chủ yếu của nền văn minh La Mã như sau

1. Chữ viết

Chữ viết của người Etrusqua (người Tiểu Á) xuất hiện khoảng  TK VIII- VII TCN, nhưng đến nay người ta vẫn chưa đọc được thứ chữ viết này. Người ta tìm được khoảng 9000 dòng chữ của họ nhưng không biết đâu là từ, đâu là câu, đâu là bài.

Theo nhiều nguồn tài liệu, người La Mã chính thức có chữ viết vào thế kỉ VI TCN có nguồn gốc từ văn tự Hi Lạp. Trên cơ sở chữ viết Hy Lạp cổ, người La Mã đã bổ sung và hoàn thiện, đặt ra một loại chữ riêng của mình mà ngày nay ta quen gọi là chữ Latinh. 

Với hệ thống chữ viết đơn giản và tiện lợi, tiếng Latinh đã ngày càng trở nên phổ biến và được sử dụng rộng rãi ở các nước thuộc đế chế La Mã. Chữ Latinh chính là nguồn gốc của nhiều ngôn ngữ châu Âu hiện đại (Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp…Người La Mã còn để lại hệ thống chữ số mà ngày nay người ta vẫn thường dùng và quen gọi là chữ số La Mã.

Có thể nói, từ bảng chữ cái Latinh, chúng ta có những ngôn ngữ mà ngày nay được sử dụng làm ngôn ngữ chung cho cả thế giới, trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, khoa học, nghệ thuật…mang mọi nền văn hóa của các quốc gia dần xích lại gần nhau hơn.

2. Văn học:

Văn học La Mã chủ yếu tiếp thu và chịu ảnh hưởng sâu sắc của văn học Hi Lạp. Văn học La Mã bao gồm nhiều thể loại như sử thi, thơ trữ tình, thơ trào phúng, văn xuôi, kịch…

Hai tập sử thi nổi tiếng của Hi Lạp là Iliat va Ôđixe đã trở thành nguồn cảm hứng cho các nhà thơ, nhà soạn kịch La Mã tiêu biểu như nhà thơ Vieecsgilut với trường ca Eneit có chủ đề, kết cấu, tình tiết ngôn từ được phỏng theo sử thi Iliat và Ôđixe. Không những thế các vị thần của Hy Lạp đều được người La Mã tiếp thu và cải biên đi thành những vị thần của mình như: Thần Zeus – thần Jupiter, Thần Hera,  PoseidonDemeterAthenaHestiaApollo, ArtemisAresAphroditeHephaestu….và hầu như các vị thần chính là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà văn, nhà thơ, nhà soạn kịch.

Thần thoại của La Mã hầu như là những câu chuyện rất hấp dẫn về các vị thần và các anh hùng với những tính cách, khát vọng tình cảm gần gủi với con người. Thời cộng hoà, La Mã đã có nhiều thi sĩ và nhà soạn kịch : Anđronicus đã dịch Ôđixê ra tiếng Latinh, Novius đã viết sử thi Cuộc chiến tranh Puních,

Thời cộng hòa, có một nhà thơ đặc sắc là Catullus đã sáng tác nhiều bài thơ trữ tình, nồng cháy, biểu lộ cảm xúc dằn vặt của ông khi dang díu với người vợ của một chính khách nỗi tiếng.

Thời hoàn kim của văn học La Mã kéo dài từ khoảng năm 100 tr. Cn đến năm 40 sau công nguyên. Nhà văn xuất chúng nhất thời kỳ này là Marcus Tulius Cicero (106-43 TCN). Với tác phẩm nỗi tiếng như: Bàn về người hùng biện, Nhà hùng biện…ông sáng tác khoảng 58 bài văn chính trị, 774 bức thư. Nhưng đặc biệt công lao to lớn của ông là làm cho văn học La Mã trở nên nhuần nhuyễn.

Dưới thời trị vì của Augustus, ông có xu hướng dùng thơ ca để phục vụ cho nền thống trị của mình, ông bảo trợ rộng rãi với các văn nghệ sĩ. Do vậy, đã có rất nhiều nhà thơ lớn ra đời như

Vergilius (70-19 TCN) là nhà thơ lớn nhất La Mã. Tác phẩm đầu tiên làm ông bắt đàu có tiếng tăm là “Những bài ca của người chăn nuôi”. Tiếp theo là tác phẩm “Khuyến nông” tuyên truyền cho sự phát triển nông nghiệp.  Tác phẩm ưu tú nhất làm ông trở thành ngôi sao sáng nhất trong số các nhà thơ La Mã là Aeneid – tp gồm 12 quyển.(chuyện kể vể anh chánh Aeneas một vị anh hùng thần thoại thành Trojan,vượt bao khó khăn trước khi xây dựng xong thành La Mã). Được sáng tác suốt mười năm nhưng vẫn chưa hoàn thành. Nhưng người dân La Mã coi đó là tinh hoa của văn học La Mã và tôn vinh ông là “Homer của La Mã”

Julius Caesar (102-44 tcn) là một nhà chính khách lỗi lạc, một vị tướng tài ba, với tp Bình Phẩm về cuộc chiến tranh ở xứ Gaule

Về kịch Ở La Mã các nhà thơ Anđrônicút, Nơviút, Enniút, Plantút, Têxeiút cũng là những nhà soạn bi kịch và hài kịch. Các nhà soạn kịch La Mã thường dịch bi kịch và hài kịch của Hi Lạp, đồng thời phỏng theo kịch Hi Lạp để soạn những vở kịch lịch sử của La Mã hoặc cải biến các vở kịch Hi Lạp thành các vở kịch La Mã.

3. Sử học:

Người đầu tiên dùng văn xuôi Latinh để viết sử là Cato (234-149 TCN). Là nhà sử học thực sự đầu tiên của La Mã. Từ Cato đầu tiên về sau, La Mã có nhiều nhà sử học xuất sắc: Pôlibius, Plutarch, Tacitus…

Pôlibius (201-120 TCN) là người Hi Lạp bị đưa sang La Mã. Tác phẩm nõi tiếng của ông là Thông sử (gồm 40 tập). Ông nói; “Sử học là một thứ triết học lấy sự việc thật để dạy người đời”

Titus Livius (59TCN-17CN) lầ nhà sử học xuất sắc của La Mã trong thời kì trị vì của Augustus. Tác phẩm Lịch Sử La Mã dài 142 chương, nhằm khơi dậy tinh thần yêu nước qua lịch sử hào hùng của dân tộc.

Tacitus (15-120) sống vào cuối thế kỉ I đầu thế kỉ II. Nỗi tiếng với tác phẩm Xứ Giecman.

Plutarch (46-125) người Hi Lạp sống cùng thời kì với Tacitus, tác giả của 200 cuốn sách rất có giá trị, nhất là cuốn Tiểu Sử Các Doanh Nhân Hy Lạp – La Mã.

Những thành tựu nói trên của sử học La Mã đã góp phần quan trọng vào sự phát triển của nền sử học thế giới.

4. Tôn giáo

Người La Mã nguyên thủy cũng theo đa thần giáo. Trên cơ sở lấy các vị thần của Hy Lạp tiếp thu và cải biên đi thành những vị thần của mình như: thần Jupiter, Juno, Neptune, Bacchus, Apollo, Diana, Mercury…… khi tiếp xúc với văn hóa Hy Lạp, họ đã tiếp nhận toàn bộ tôn giáo của người Hy Lạp với đầy đủ các đặc điểm của nó: trần tục và thực tế, không có nội dung thần thánh và luân lý; mối quan hệ giữa con người và thần thánh thực chất là một hợp đồng có lợi cho cả hai bên; các vị thần của người Hy Lạp và người La Mã có cùng một chức năng tương ứng như nhau. Tuy nhiên tôn giáo của La Mã mang tính chính trị và ít nhân bản hơn. Nó được sử dụng không phải để vinh thăng con người hay làm cho con người hưởng cuộc sống trần thế mà là để bảo vệ nhà nước khỏi các kẻ thù.

Một đặc điểm nữa là khi nói đến tôn giáo ở đế quốc La Mã phải nói đến đạo Kitô, mặc dù đạo Kitô không phải ra đời tại La Mã. Theo truyền thuyết, người sáng lập ra đạo Kitô là Jesus Crit, con của chúa Trời đầu thai vào người con gái đồng trinh Maria. Jesus Crit ra đời vào khoảng thế kỉ IV TCN tại Béthleem (Palestin ngày nay). Đến năm 30 tuổi, Jesus Crit bắt đầu đi truyền đạo.

Đạo Kitô khuyên con người nhẫn nhục chịu đựng đau khổ nơi trần gian để khi chết sẽ được hưởng hạnh phúc nơi thiên đàng. Chúa Trời sáng tạo ra thế giới này. Chúa Trời, chúa Jesus, thành thần tuy ba mà là một ( tam vị nhất thể ). Đạo Kitô cũng có quan niệm thiên đường, địa ngục, thiên thần, ma quỉ... Giáo lí của đạo Kitô gồm có Kinh cựu ước (tiếp nhận của đạo Do Thái) và Kinh tân ước (kể từ khi chúa Jesus ra đời). Luật lệ của đạo Kitô thể hiện trong 10 điều răn.

Về tổ chức, lúc đầu các tín đồ đạo Kitô tổ chức thành những công xã vừa mang tính chất tôn giáo, vừa giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Đến thế kỉ II, các công xã Kitô dần phát triển thành Giáo hội.

Khi mới ra đời, đạo Kitô bị các hoàng đế La Mã và bọn quí tộc địa phương đàn áp rất tàn bạo. Vụ đàn áp đẫm máu nhất là vụ đàn áp vào năm 64, dưới thời hoàng đế Nêrông, máu của biết bao nhiêu tín đồ đã đổ. Nhưng số người theo đạo Kitô không những không giảm mà ngày càng tăng lên. Về sau, Giáo hội đề ra nguyên tắc “vương quốc thì trả cho vua, thiên quốc thì trả cho Chúa trời” tức là tôn giáo không dính dáng đến chính trị. Thấy đàn áp mãi không có tác dụng, các hoàng đế La Mã nghĩ tới biện pháp chung sống. Năm 311, một hoàng đế La Mã đã ra lệnh ngưng đàn áp các tín đồ Kitô. Năm 313, đạo Kitô được hoàng đế La Mã công nhận là hợp pháp. Năm 337, một hoàng đế La Mã lúc đó là Cônxtantinut đã gia nhập đạo Kitô. Hoàng đế theo đạo Kitô thì đương nhiên các quan lại đua nhau theo Đạo. Ngân quĩ quốc gia cũng được chi ra để đóng góp cho Nhà thờ. Đạo Kitô được truyền bá rộng khắp trong vùng đất quanh Địa Trung Hải. Sau này, khi đế quốc La Mã tan vỡ thì đạo Kitô đã ăn sâu, lan rộng khắp châu Âu.

5. Triết học: trong lĩnh vực này, người La Mã không có nhiều sáng tạo mà chủ yếu kế thừa và phát triển những tư tưởng triết học Hy Lạp.

Kế thừa triết học Hi lạp, đến thế kỉ I TCN, triết học La Mã cũng tương đối phát triển. Nhà triết học duy vật xuất sắc nhất của La Mã là Lucrêtiút (98-54TCN). Ông là người chịu ảnh hưởng khá mạnh mẻ từ tư tưởng của nhà triết học Epicurus (thuyết khắc kỷ). Tác phẩm duy nhất mà ông để lại là “về bản chất của sự vật”. (Triết học duy vật)

Trong hai thế kỷ đấu SCN, thuyết khắc kỷ được cho là phù hợp với nhũng đức tính truyển thống với người dân La Mã (Triết học duy tâm). Có ba môn đồ nỗi tiếng là:

Seneca (Tk III TCN – 65 TCN) là thầy học của bạo chúa Nêrôn. Tư tưởng triết học chủ yếu của ông là vấn đề đạo đức. Ông chủ trương con người phải độc lập về nội tâm và yên tĩnh về tinh thần. Tác phẩm :Bàn về nhân tử, Bàn về phẫn nộ, Bàn về sự yên tĩnh của tinh thần, Bàn về cuộc sống hạnh phúc.

Epictetus (thế kỉ I - đầu thế kỉ II) là học trò của Xênéc. Đặc điểm triết học của ông là chủ nghĩa bi quan và luân lí cá nhân chủ nghĩa.

Marchus Orelius (121-180) là hoàng đế La Mã (161-180) được gọi là “nhà triết học trên ngôi báu”. Quan điểm triết học chủ yếu của ông là: con người là do thần xếp đặt nên con người phải làm tròn nghĩa vụ của mình dù phải chịu đựng mọi khó khăn và thử thách.

6. Luật pháp

Nếu như trong các lĩnh vực văn chương, nghệ thuật, triết lý, người La Mã được xem là học trò của người Hy Lạp thì trong lĩnh vực luật pháp, vị thế của họ cao hơn nhiều. Khoảng năm 514 TCN, nhà nước cộng hoà La Mã đã được thành lập, bộ máy nhà nước gồm có viện nguyên lão, đại hội nhân dân và quan chấp chính. Hệ thống pháp luật của họ là kết quả của một quá trình tiến triển lâu dài được coi như bắt đầu bằng bộ luật 12 bảng được công bố năm 450. Năm 454 TCN cử 3 người sang tìm hiểu luật pháp của Hi Lạp, nhất là của Xôlông. Năm 452 TCN, La Mã đã thành lập uỷ ban 10 người để soạn luật. Soạn được bộ luật, khắc trên 10 bảng đồng đặt ở quảng trường. Năm 450 TCN, cử một uỷ ban 10 người mới, soạn thêm hai bảng nữa vì vậy luật này gọi là luật 12 bảng.

Nội dung của bộ luật này đề cập đến nhiều mặt trong đời sống xã hội như thể lệ tố tụng xét xử, việc kế thừa tài sản, việc cho vay nợ, quan hệ gia đình, đại vị phụ nữ… Tinh thần chủ yếu của bộ luật là bảo vệ tính mạng, tài sản và danh dự cho mọi người. Về quan hệ gia đình, các điều luật thể hiện rõ tính chất của chế độ gia trưởng.

Về lĩnh vực chính trị : “Luật 12 bảng ra lệnh xử tử hình kẻ nào xúi giục kẻ thù của nhân dân La Mã tấn công nhà nước La Mã hay kẻ nào nộp một công dân La Mã cho kẻ thù.”

Tóm lại, nội dung của Luật 12 bảng chỉ mới đề cập đến một số mặt trong đời sống xã hội, nhiều mức hình phạt quá khắc nghiệt, nhưng nó có tác dụng hạn chế sự xét xử độc đoán của quí tộc, đồng thời đặt cơ sở cho sự phát triển của luật pháp La Mã cổ đại.

Những pháp lệnh khác từ giữa thế kỉ V về sau, nhà nước La Mã phải ban hành nhiều pháp lệnh bổ sung. Năm 445 TCN, ban bố luật Canulêiut cho phép bình dân kết hôn với quí tộc. Năm 367 TCN, lại thông qua ba pháp lệnh quan trọng:

1. xóa chế độ nô lệ vì nợ đối với công dân La Mã

2. Không ai được chiếm quá 50 jujera đất công tức là bằng khoảng 125 ha.

3. Bỏ chức Tư lệnh quân đoàn, khôi phục chế độ bầu quan chấp chính hằng năm, trong 2 quan chấp chính phải có 1 người là bình dân.

Năm 287 TCN, ban hành pháp lệnh qui định quyết nghị của Đại hội bình dân, có hiệu lực như pháp luật đối với mọi công dân La Mã.

Đến cuối thế kỉ III, quyền lập pháp của Viện Nguyên lão cũng không còn nữa, nên mệnh lệnh của nguyên thủ tức là pháp luật.

Nói chung Luật của La Mã được chia thành ba ngành lớn

- Jus civile tứcDân Luật: tức là luật chủ yếu liên quan đến La Mã và các công dân của nó

- Jus gentium tức là luật của nhân dân có giá trị cho mọi người dân không phân biệt dân tộc.

- Jus Naturale tức luật tự nhiên. Họ cho rằng tự nhiên được sắp xếp theo một trình tự hợp lý, vốn được thể hiện thành công lý và quyền hạn. có nghĩa là tất cả mọi người đều tự nhiên bình đẳng như nhau, và con người được hưởng một số quyền cơ bản mà các chế độ trính trị khác không được xâm phạm.

Luật La Mã đến thời trung đại và cận đại có ảnh hưởng rất lớn ở Châu Âu.

7. Nghệ thuật:

a. Kiến trúc:

Thành tựu về kiến trúc La Mã rất rực rỡ. người La mã khi xây dựng các công trình đều tuân thủ theo một đồ án bất di bất dịch đó là: hình vuông hay hình chữ nhật với các cạnh thật vuông vức được kẻ ô như bàn cờ. nhà kiến trúc sư nỗi tiếng của La Mã là Vitrius (86-26 TCN), mơ ước làm sống lại những kiến trúc cổ điển Hy Lạp. ông đã dành cả đời để viết về các kỷ thuật kiến trúc xây dựng. và đây cũng chính là bộ sách duy nhất thời cổ đại được bảo tồn nguyên vẹn đến ngày nay. 

Các công trình kiến trúc của La Mã bao gồm tường thành, đền miếu, cung điện, rạp hát…Những công trình này từ thời cộng hoà đã có, nhưng đặc biệt phát triển từ thời Augustu. Chính Augustu đã tự hào nói rằng ông đã biến La Mã bằng gạch thành La Mã bằng đá cẩm thạch. Các công trình kiến trúc nổi tiếng nhất là đền thờ Pantheon, đấu trường Colosseum (biểu hiện sự hùng cường- đá cẩm thạch), nhà tắm Caracalla (người La mã rất phóng khoáng trong vấn đề tình dục, do vậy không chỉ là nhà tắm mà đó còn là nơi quan hệ tình dục, gặp gỡ giao lưu, đọc sách…nhà tăm giống như là một công trình văn hóa lớn.

b. Điêu khắc:

Nghề điêu khắc của của người La Mã thường chú ý đến nghệ thuật trong các tác phẩm điêu khắc, chủ yếu là tượng bán thân như vua Caesar (gương mặt đầy tham vọng); Augustus (thể hiện sự quyết tâm); Diocletian (thể hiện sự cứng rắn, môi mím chặt và là người có tuổi).

Để làm đẹp đường phố, quảng trường, đền miếu, La Mã đã tạo ra rất nhiều tượng. Tượng được dựng ở kháp nơi. Các bức phù điêu thường khắc trên các côt trụ kỉ niệm chiến thắng của các hoàng đế và trên các vòm khải hoàn môn. Nội dung các bức phù điêu thường mô tả những sự tích lịch sử.

c. Hội hoạ:

Các tác phẩm hội hoạ của La Mã cổ đại còn giữ lại chủ yếu là các bức bích hoạ, trên đó vẽ phong cảnh, các đồ trang sức, tĩnh vật…

8. Khoa học – kỷ thuật

Nhà khoa học nổi tiếng nỗi tiếng nhất và tiêu biểu nhất của La Mã là  Pliny (23-79). Ông đã hoàn thành tác phẩm đầu tiên là Lịch sử tự nhiên gồm 37 chương trong suốt 77 năm. Đó là bản tập hợp các tri thức của các ngành khoa học như: thiên văn học, địa lí học, nhân loại học, động vật học, thực vật học, nông học, y học, luyện kim học, hội hoạ, điêu khắc…dựa trên tài liệu của gần 500 tác giả khác nhau.

Claudius Ptolemy (khoảng thế kỷ thứ II) là người đầu tiên vẻ bản đồ trái đất, lấy địa trung hải làm trung tâm. Nối tiếng với tp “Hệ thống vũ trụ”, trong tp này ông cho rằng trái đất là hình tròn đã giúp không ít các nhà địa lý tìm ra nhữn miền đất mới. tuy nhiên, điểm sai lầm của ông khi cho rằng trái đát là trung tâm củ vũ trụ và quan điểm này đã chi phối châu âu hết 1400 năm.

Heron (thế kỷ I) là một kỷ sư tài ba và là nhà toán học xuất sắc. ông đưa ra các cách tính diện tích hình cầu và phép tính gần đúng với giá trị của nó.

Menelai là nhà toán học và thiên văn học. Ông đã chứng minh được tổng các góc trong một tam giác cầu lớn hơn 180 độ và cách tính dây cung mặt cầu.

Julius Caesar đã cải cách lịch một năm có 365,25 ngày cứ bốn năm thì có một năm nhuần. lịch này được dùng đến năm 44 TCN thì không còn sử dụng nữa

Đại biểu xuất sắc nhất về y học thời bấy giờ là Claudius Galen  (131-đầu thế kỉ III) với tác phẩm “Phương pháp chữa bệnh.”. ông chứng minh được rằng các mạch vận chuyển máu, nếu như cắt đứt dù chỉ là một mạch máu nhỏ cũng đủ để làm cho máu chảy hết cơ thể trong vòng nữa giờ.

Như vậy, sự thành tựu văn minh La Mã có huy hoàng và sán lạn thì cũng là nhờ vào sự vận dụng văn minh Hy Lạp. tuy La Mã đã cải biên và sáng tạo thêm nhiều để hoàn thành một nền văn minh hoàn chỉnh của dân tộc mình. Nhưng khi chúng ta nói đến văn minh La Mã thì không thể nào không đi kèm với văn minh Hy Lạp. Tóm lại, dù là nền văn minh La Mã hay Hy Lạp thì suy cho cùng đây là hai nền văn minh cổ đại vô cùng xán lạn. như  Ăngghen nói : “không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia Hy Lạp, không có nghệ thuật và khoa học Hy Lạp; không có chế độ nô lệ thì không có quốc gia La Mã. Mà không có cơ sở của văn minh Hy Lạp và đế quốc La Mã thì cũng không có châu âu hiện tại được”