Cốt lõi tư tưởng nhân nghĩa là gì

TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA CỦA NGUYỄN TRÃI - Tác giả PGS.TS Hoàng Thúc Lân


22-12-2020

TƯ TƯỞNG NHÂN NGHĨA CỦA NGUYỄN TRÃI

PGS.TS Hoàng Thúc Lân - Khoa Triết học - ĐHSP Hà Nội

1. Đặt vấn đề

Nguyễn Trãi (1380 1442), là một trong những lãnh tụ kiệt xuất của phong trào khởi nghĩa Lam Sơn. Ông có nhiều đóng góp to lớn trong việc đề ra đường lối, chiến lược, sách lược chống quân Minh xâm lược và xây dựng nhà nước Lê sơ. Ông đã tổng kết những vấn đề có tính chất quy luật của sự nghiệp đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc trong lịch sử, trong đó nêu bật tư tưởng nhân nghĩa có ý nghĩa quyết định thắng lợi. Tư tưởng nhân nghĩa của ông ra đời trong bối cảnh đất nước có nhiều biến động to lớn: Đó là sự suy vong của nhà Trần bị nhà Hồ cướp ngôi, giặc Minh lợi dụng tấn công xâm lược, đặt ách đô hộ. Bên cạnh đó, cha ông là Nguyễn Phi Khanh bị giặc Minh bắt đày sang Trung Quốc, ông muốn đi theo cha để hầu hạ, nhưng Nguyễn Phi Khanh không đồng ý và khuyên ông nên trở về lo cứu nước báo thù nhà.

Trong suốt 10 năm (1407 1417), Nguyễn Trãi suy nghĩ, trăn trở về một con đường cứu nước, cứu dân. Năm 1418, khi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo nổ ra, Nguyễn Trãi đã nhanh chóng tìm đường vào Thanh Hóa gặp Lê Lợi để trao Bình Ngô sách, trong đó ông chủ trương dùng tư tưởng nhân nghĩa làm vũ khí đấu tranh. Tư tưởng nhân nghĩa của ông được thể hiện qua nhiều tác phẩm như: Quân trung từ mệnh tập (tập sách gồm các bài văn thư do Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết gửi cho tướng tá nhà Minh, cũng như những lời văn răn dạy tướng sĩ trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn); Bình Ngô đại cáo (bản tổng kết 10 năm chống quân Minh xâm lược, có giá trị, ý nghĩa như Bản tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc); Một số bài chiếu, biểu viết thời Lê Thái Tổ và Lê Thái.

Tông (1433 - 1442); Lam Sơn thực lục (quyển lịch sử ký sự ghi chép về công cuộc 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn do vua Lê Thái Tổ sai soạn vào năm 1432); Vĩnh Lăng thần đạo bi (bài văn bia ở Vĩnh Lăng, kể về thân thế, sự nghiệp của vua Lê Thái Tổ); Ức Trai thi tập ; Quốc âm thi tập (tập thơ chữ Nôm gồm 254 bài); Chí Linh sơn phú (bài phú bằng chữ Hán về nghĩa quân Lam Sơn rút quân lên núi Chí Linh lần thứ ba vào năm 1442); Băng Hồ sự lục (bài văn chữ Hán kể về cuộc đời của Trần Nguyên Hãn); Sách Luật thư (sách viết vào thời gian 1440 1441).

2. Nội dung tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi

Nội dung tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện trên nhiều lĩnh vực như:

  • thức về chủ quyền quốc gia dân tộc, an dân, trọng dân, ơn dân, thương dân, khoan dung, độ lượng, nhân tình thế thái và cầu hiền.

Trước hết, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi thể hiện lòng yêu nước, tư tưởng độc lập dân tộc và niềm tự hào dân tộc sâu sắc. Trong bài Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã khăng định:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, lí , Trần, bao đời gây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu nhiều lúc khác nhau Song hào kiệt đời nào cũng có [3]

Đây là lời tuyên bố với toàn thế giới về một đất nước Đại Việt độc lập. Đó là một đất nước có nền văn hiến lâu đời, có lãnh thổ núi sông bờ cõi, có phong tục rõ ràng, có nhà nước bao đời kế tiếp, có truyền thống đấu tranh xây nền độc lập, có vị thế quốc gia ngang bằng với các triều đại Trung Quốc, có hào kiệt đời nào cũng có.

Tư tưởng nhân nghĩa về độc lập dân tộc của Nguyễn Trãi đã tiếp thu những tư tưởng truyền thống dân tộc và phát triển tư tưởng này lên một tầm cao mới. Nếu như trong bài thơ Nam quốc sơn hà, nam đế cư ra đời ở thế kỷ thứ X, của Lý Thường Kiệt đã khẳng định vấn đề về lãnh thổ và vấn đề về chủ quyền dân tộc, nhưng tất cả là của vua, thì bước sang thế kỷ XV, tư tưởng độc lập dân tộc của Nguyễn Trãi trong bài Bình Ngô đại cáo đã phát triển lên một bước cao hơn. Ngoài các yếu tố lãnh thổ và chủ quyền dân tộc, thì giờ đây còn được bổ sung, mở rộng thêm nhiều vấn đề khác như: Đó là một dân tộc có nền văn hiến lâu đời, có phong tục tập quán riêng, có nhà nước từ Triệu, Đinh, Lý, Trần kế tiếp, có truyền thống đấu tranh xây nền dân tộc, có mối tương quan độc lập ngang hàng với các triều đại phong kiến Trung Quốc, có hào kiệt đời nào cũng có. Như vậy, tư tưởng độc lập dân tộc của Nguyễn Trãi, đã thể hiện lòng yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc sâu sắc trở thành nội dung quan trọng nhất trong bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ ba của nước Việt Nam.

Tư tưởng nhân nghĩa mặc dù đã được Nho giáo của Khổng - Mạnh nêu ra để dạy người Quân tử trong phép cai trị đất nước, song Nguyễn Trãi đã vận dụng tư tưởng này vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta và đưa ra một quan niệm khác. Rằng nhân nghĩa không chỉ là mối quan hệ giữa người với người theo quan điểm của Nho giáo, mà là yên dân. Vì vậy, ngay ở phần đầu bài Bình Ngô đại cáo Nguyễn Trãi đã khẳng định:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo [3]

Đây là tư tưởng đối nội, đối ngoại của Nguyễn Trãi, làm cơ sở cho đường lối đấu tranh trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, cũng như làm nền tảng tư tưởng cho công cuộc xây dựng nhà nước Lê sơ thịnh vượng. Đối nội là sử dụng đường lối nhân nghĩa. Nội dung cơ bản của đường lối nhân nghĩa yên dân. Về tư tưởng đối ngoại là trừ bạo.

Theo Nguyễn Trãi, để yên dân, phải chăm lo trừ bạo, chống mọi hành động xâm lược và các thế lực áp bức, bóc lột nhân dân, tạo điều kiện cho dân có cuộc sống bình yên, ấm no. Yên dân là phải hành động thuận theo ý trời, hợp với lòng dân, dám xả thân chiến đấu hy sinh lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều, lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí nhân thay cường bạo. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đã kế thừa truyền thống dân tộc thời Lý Trần. Yên dân là kế sách giữ nước và chăm lo thế nước của ông.

Tư tưởng Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi không chỉ là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, mà còn là tư tưởng trọng dân, biết ơn dân. Nho giáo Trung Quốc phân chia xã hội thành hai loại: Loại Quân tử và loại Tiểu nhân, trong đó Quân tử là loại người có học, hiểu biết, có đức, có tài, là người cai trị; còn loại Tiểu nhân là loại người bị trị, thấp hèn, không có học hành, kém hiểu biết. Thế nhưng trong suốt cuộc đời, Nguyễn Trãi không hề nói gì đến sự phân biệt của Nho giáo nói trên, mà chủ yếu ông nói về người dân với quan điểm coi trọng dânbiết ơn dân. Ông nhận thức rằng: Lực lượng làm ra thóc gạo, cơm ăn, áo mặc là dân, rằng điện ngọc cung vàng của vua chúa cũng đều do mồ hôi nước mắt của dân mà có, thường nghĩ quy mô lớn lao, lộng lẫy đều là sức lao khổ của quân dân

  1. Vì vậy, phải luôn nhớ rằng ăn lộc đền ơn kẻ cầy cấy Không những thế, ông còn nhận thức được vai trò lo lớn nhân dân. Đó là những người Dựng gậy làm cờ, dân chúng bốn phương tụ họp. Hòa rượu cùng uống, binh sĩ một dạ cha con [3]. Nguyễn Trãi đã có cuộc sống nhiều năm gần gũi gắn bó với dân, hòa mình vào cuộc sống của nhân dân. Do vậy, ông thấu hiểu những nỗi khổ của dân và hững đức tính quý báu của dân. Ông thấy rõ nguyện vọng tha thiết của người dân và sức mạnh to lớn của dân trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.Theo ông, chính nhân dân là những người đã làm nên lịch sử vùng lên đánh đuổi quân Minh xâm lược, giải phóng đất nước, giành lại độc lập tự do. Họ là những người có khả năng đẩy thuyền và lật thuyền tạo nên một cuộc cải biến xã hội sâu sắc.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn là thương dân. Khi nước nhà bị xâm lược, ông xót xa và bất bình trước những hành động dã man của quân Minh xâm lược.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ [3]

Ông tố cáo tội ác tày trời của quân Minh:

Độc ác thay trúc Nam Sơn không ghi hết tội

Dơ bẩn thay nước Đông Hải không rửa sạch mùi [3]

Ông day dứt với nỗi thống khổ của người dân: Trước họ Hồ thất đức, giặc Ngô lăng loàn, có người thì thân bị hãm ở tạc đình, có người danh bị buộc ở ngụy chức [6]. Hoặc mới rồi họ Hồ cướp nước, lật đổ tổ tông nhà Trần, trên dối triều đình, dưới khổ dân chúng. Nguyễn Trãi còn trực tiếp khuyên can nhà vua và các quan lại phải làm cho dân giầu, phải nuôi dưỡng và thương yêu dân Nguyện xin bệ hạ yêu thương nuôi dưỡng dân để nơi làng xóm quê thôn không còn có tiếng sầu than oán giận [8]. Hoặc nay các quan trấn thủ phủ vệ vâng mệnh Triều đình, chăn nuôi dân chúng ví như cha mẹ nuôi con, ai cũng hết lòng thương yêu [7].

Nguyễn Trãi là ngưởi rất gần gũi dân, thấu hiểu nỗi gian lao, vất vả của dân, cho nên nỗi lòng của ông luôn luôn nghĩ về dân, chia sẻ với nỗi cực khổ của dân dưới chế độ đô hộ của giặc Minh và sự áp bức, bóc lột của vua quan. Ông là một vị quan lại của triều đình dưới chế độ phong kiến, nếu theo Nho giáo ông phải có tư

tưởng trung quân, sống chết trung thành với vua. Nhưng đối với ông lại khác, ông là người có tư tưởng Trung quân, ái quốc. Ông trung thành với vua bởi một tinh thần trách nhiệm rất cao với vua và với non sông đất nước. Vì trung thành với vua, cho nên ông mới khuyên can vua phải yêu dân, thương dân. Ông khơi gợi những điều sâu sa, cụ thể để vua thấu hiểu cảm thông, quan tâm đến lợi ích của dân. Theo ông, vua có quan tâm đến dân, thương dân thì mới tập hợp được dân, mới khai thác được sức mạnh của dân về vật chất lẫn tinh thần, mới xây dựng lực lượng hùng hậu của dân trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước phồn vinh. Vì vậy, tư tưởng nhân nghĩa của ông về Trung quân, ái quốc là trung thành với vua trên cơ sở yêu nước, đưa lợi ích quốc gia, dân tộc lên hàng đầu. Đó là điều khác biệt giữa tư tưởng trung quân của ông với tư tưởng trung quân của Nho giáo Trung Quốc.

Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc đầy gian khổ hy sinh, mang tính chất một mất, một còn, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn nêu cao tư tưởng Đại nghĩa.

Đem đại nghĩa thắng hung tàn

Lấy chí nhân thay cường bạo [3]

Đại nghĩa ở đây là Chính nghĩa cao cả, nói cách khác là sự hy sinh vì đai nghĩa. Nguyễn Trãi khẳng định trong cuộc đấu tranh chống quân Minh xâm lược chúng ta là chính nghĩa. Chúng ta đem Chính nghĩa cao cả để chiến đấu, chiến thắng quân thù hung tàn, đồng thời chúng ta lấy sự hiểu biết của con người để thay cường bạo. Đó là sức mạnh của lập trường chính nghĩa và trí tuệ con người Việt Nam.

Đối với kẻ thù, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn là khoan dung độ lượng, nhân tình thế thái. Đó là chiến lược Tâm công- đánh vào lòng người. Nguyễn Trãi đã nghiên cứu, chắt lọc các tinh hoa về binh pháp xưa để vận dụng vào cụ thể cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Tâm công là dùng lý lẽ tác động vào tinh thần và ý thức của kẻ thù, nói rõ điều hơn, lẽ thiệt, thuyết phục, cảm hóa chúng, từ đó làm lung lay ý chí xâm lược, hàng ngũ của chúng rã rời, chấp nhận con đường hòa giải, rút quân về nước. Tuy nhiên, chiến lược Tâm công được nghĩa quân Lam Sơn kết hợp với cuộc chiến đấu trên mặt trận quân sự có ý nghĩa quyết định để đảm bảo thắng lợi.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi đối với kẻ thù khi chúng đã thất bại, đầu hàng là khoan dung. Với tư tưởng Đem đại nghĩa thắng hung tàn, Nguyễn Trãi chủ trương không giết kẻ thù để hả giận, mà còn tạo điều kiện cho chúng rút quân về nước một cách an toàn và không mất thể diện. Ông viết thư cho Vương Thông rằng: Cầu đường sửa xong, thuyền xe sắm đủ, hai đường thủy lục, tùy theo ý muốn, đưa quân ra cõi, yên ổn muôn phần [8]. Quan điểm của ông là thắng không kiêu, bại không nản. Điều quan trọng là làm cho kẻ thù bại trận phải tâm phục, khẩu phục bởi tư tưởng nhân đạo cao cả của Đại Việt. Với ông, trả thù báo oán là thường tình của mọi người; mà không thích giết người là bản tâm của người nhân [8]. Lòng khoan dung và đức hiếu sinh đối với cả kẻ thù trog tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là sự hội tụ trong ông truyền thống và tính cách của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng khoan dung đối với kẻ thù là thể hiện một tầm nhìn xa, trông rộng có ý nghĩa chiến lược, sách lược sâu sắc để thực hiện mục tiêu cuối cùng là chấm dứt chiến tranh, khôi phục nền độc lập, lập lại hòa bình, thực hiện yên dân nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hùng binh. Gây lại hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời [9]. Theo Nguyễn Trãi, chúng ta thực hiện khoan dung kẻ thù cũng vì quốc gia dân tộc, đem lại lợi ích cho dân, cho nước.

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới [3].

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn là ý tưởng xây dựng một đất nước thái bình, thịnh trị, trên thì vua sáng, tôi hiền, dưới thì muôn dân an vui, lạc nghiệp. Đó là ước mơ của nhân dân sau bao nhiêu năm chiến tranh giặc giã về một đất nước quốc thái dân an, đồng thời cũng là yêu cầu lịch sử xây dựng và phát triển đất nước ở thời Lê sơ thế kỷ XV.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn là tư tưởng Cầu tài. Đây là điều thể hiện vai trò trách nhiệm của Nguyễn Trãi với dân, với nước trước yêu cầu của lịch sử đặt ra. Lịch sử các triều đại trước đó xây dựng bộ máy quan lại thường tiến hành bằng cách tiến cử con cháu, họ hàng thân thích của vua chúa, quan lại. Điều đó dẫn tới chế độ thế tập kéo dài. Chất lượng đội ngũ quan lại yếu kém, quen sống trong nhung lụa, xa dân, không thấy được cuộc sống thực tế của dân, cũng như yêu cầu của đất nước. Theo Nguyễn Trãi, nhà nước nên trọng dụng nhân tài. Nhân tài là từ nhân dân mà ra. Dân mới là yếu tố làm nên nền thái bình thịnh trị của đất nước. Một chế độ chỉ thực sự thịnh trị khi mà người dân đem hết tài năng ra giúp sức. Chính vì vậy, trong Chiếu cầu hiền tài Nguyễn Trãi nêu rõ: Triều đình phải có chính sách cầu hiền bằng nhiều cách như thông qua thi cử, hoặc tiến cử văn võ đại thần, công hầu, đại phu từ tam phẩm trở lên, mỗi người đều cử một người, hoặc ở triều đình, hoặc ở thôn dã, bất cứ là đã xuất sĩ hay chưa, nếu có tài văn võ, có thể trị dân, coi quân, thì tùy tài trao chức, hoặc ứng cử người có tài ở hàng kinh luân bị khuất ở hàng quân nhỏ, người hào kiệt náu ở nơi đồng nội, lẫn ở hàng binh lính, phải tự mình đề đạt để gánh vác việc dân, việc nước [11].

3. Kết luận

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi rất rộng lớn và sâu sắc, nó bao trùm cả cuộc đời hoạt động của ông. Nó có giá trị to lớn không những trong thời đại của ông, mà còn có giá tri đối với các thời về sau. Nguyễn Trãi đã cống hiến cả cuộc đời vì dân, vì nước, đem lại niềm tự hào cho dân tộc. Thế nhưng, cũng chính vì do đức cao, tâm sáng, luôn đưa lợi ích dân tộc lên hàng đầu của ông, đã bị một số quan lại nhà

Lê sơ chống đối. Ông có đủ tài năng, trí tuệ để vượt lên trên mọi khó khăn, thách thức của thời đại, nhưng ông lại thất bại bởi những tư tưởng nhỏ nhen, hèn kém, đố kỵ, tranh công. Sự vĩ đại của ông đã đẩy ông vào vụ án Lệ chi viên đầy máu và nước mắt. Sau 22 năm kể từ ngày Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc, vua Lê Thánh Tông, anh minh, sáng suốt, đã xuống chiếu giải oan cho ông. Cuối cùng công lý đã được làm sáng tỏ Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo. Ông mãi mãi là một vị anh hùng dân tộc và tư tưởng của ông có ảnh hưởng sâu sắc đối với toàn bộ tiến trình lịch sử của đất nước về sau.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Nguyễn Quang Ngọc (2008), Tiến trình lịch sử Việt Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
  2. Nguyễn Trãi (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Viện Sử học sưu tầm và in, NXBKHXH, Hà nội.
  3. Nguyễn Trãi (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, (Bình Ngô đại cáo), Viện Sử học sưu tầm và in, NXBKHXH, Hà Nội.
  4. Nguyễn Trãi (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, (Thư dụ Thổ quan thành Điêu Điêu), Viện Sử học sưu tầm và in, NXB KHXH, Hà Nội.
  5. Nguyễn Trãi, (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, (Thư cho Vương Thông), Viện Sử học sưu tầm và in, NXB KHXH, Hà Nội.
  6. Nguyễn Trãi (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, (Tờ tấu cầu phong), Viện Sử học sưu tầm và in, NXB KHXH, Hà Nội.
  7. Nguyễn Trãi (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, (Thư cho Tổng binh cùng quan phủ vệ Thanh Hóa), Viện Sử học sưu tầm và in, NXB KHXH, Hà Nội.
  8. Nguyễn Trãi (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, (Quân trung từ mệnh tập), Viện Sử học sưu tầm và in, NXB KHXH, Hà Nội.
  9. Nguyễn Trãi (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, (Phú núi Chí Linh), Viện Sử học

sưu tầm và in, NXBKHXH. Hà Nội.

10. Nguyễn Trãi (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, (Chiếu cầu hiền tài), Viện Sử học sưu tầm và in, NXBKHXH, Hà Nội.


Post by: admin admin
22-12-2020