Điều kiện để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc

a)  Đại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân

Đứng trên lập trường giai cấp công nhân và quan điểm quần chúng, Hồ Chí Minh đã đề cập vấn đề DÂN và NHÂN DÂN một cách rõ ràng, toàn diện, có sức thuyết phục, tha phục lòng người. Các khái niệm này có biên độ rất rộng lớn. Hồ Chí Minh thường dùng khái niệm này để chỉ "mọi con dân nước Việt", "mỗi một người con Rồng cháu Tiên", không phân biệt dân tộc đa số hay thiếu số, có tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, không phân biệt "già, trẻ, gái, trai, giàu nghèo, quý tiện". Như vậy dân và nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh vừa được hiểu với tư cách là mỗi con người Việt Nam cụ thể, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng nhân dân, với những mối liên hệ cả quá khứ và hiện tại, họ là chủ thể của khối đại đoàn kết dân tộc và đại đoàn kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân.

Nói đại đoàn kết dân tộc, cũng có nghĩa là phải tập hợp được tất cả mọi người dân vào một khối trong cuộc đấu tranh chung. Theo ý nghĩa đó, nội hàm khái niệm đại đoàn kết trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, nó bao gồm nhiều tầng nấc., nhiều cấp độ các quan hệ nên kết qủa lại giữa các thành viên, các bộ phận, các lực lượng xã hội của dân lộc từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới.. Hồ Chi Minh đã nhiều lần nói: " Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài... Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ. Từ "Ta" ở đây là chủ thể, vừa là Đảng Cộng sản Việt Nam nói trên, vừa là mọi người dân Việt Nam nói chung.

Người còn chỉ rõ, trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giai cấp - dân tộc để tập hợp lực lượng, không được phép bỏ sót một lực lượng nào, miễn là lực lượng đó có lòng trung thành và sẵn sàng phục vụ Tổ quốc, không là Việt gian, không phản bội lại quyền lợi của dân chúng là được. Với tinh thần đoàn kết rộng rãi như vậy. Hồ Chí Minh đã định hướng cho việc xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc trong suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc tới cách mạng dân chủ nhân dân và từ cách mạng dân chủ nhân dân tới cách mạng xã hội chủ nghĩa.

b) Điều kiện thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc.

-  Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải kế thừa truyền thống yêu nước - nhân nghĩa - đoàn kết của dân tộc. Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người Việt Nam, được lưu truyền qua các thế hệ từ thời các Vua Hùng dựng nước tới Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, QuangTrung... Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng mọi thiên tai địch họa, làm cho đất nước được trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.

-   Phải có lòng khoan dung, độ lượng với con người. Hồ Chí Minh chỉ rõ, trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu điểm, khuyết điêm, mặt tốt, mặt xấu... Cho nên, vì lợi ích của cách mạng, cần phải có lòng khoan dung, độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù nhỏ nhất ở mỗi con người mới có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng. Người viết: "Sông to, biển rộng bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái chén nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước đầy tràn, vì độ lượng nó hẹp nhỏ. Người mà tự kiêu, tự mãn, cũng như cái chén, cái đĩa cạn"[1]. Người đã lấy hình tượng năm ngón tay có ngón ngắn ngón dài, nhưng cả năm ngón cùng thuộc về một bàn tay, để nói lên sự cần thiết phải thực hiện đại đoàn kết. Người cho rằng: "Trong mấy triệu người cũng có người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên phải khoan hồng, đại độ. Ta phải nhận ra rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít hay nhiều lòng ái quốc. Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải dùng tình nhân ái để cảm hóa họ. Có như thế mới thành đoàn kết, có đại đoàn kết tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang"3.

Lòng khoan dung độ lượng ở Hồ Chí Minh không phải là một sách lược nhất thời, một thủ đoạn chính trị mà là sự tiếp nối và phát triển truyền thống nhân ái, bao dung của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc cách mạng mà Người suốt đời theo đuổi. Đó là một tư tưởng nhất quán được thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng đối với những người làm việc dưới chế độ cũ và những người nhất thời lầm lạc biết hối cải. Người tuyên bố: "Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ"1. Người tha thiết kêu gọi tất cả những ai có lòng yêu nước, không phân biệt tầng lớp. tín ngưỡng, chính kiến và trước đây đã từng đứng về phe nào, hãy cũng nhau đoàn kết vì nước, vì dân. Để thực hiện được đoàn kết, cần xóa bỏ hết mọi thành kiến, cần phải thật thà hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Người cho rằng, trong mỗi con người Việt Nam "ai cũng có ít hay nhiều tấm lòng yêu nước" tiềm ẩn bên trong. Tấm lòng yêu nước đó có khi bị bụi bặm che mờ, chỉ cần làm thức tỉnh lương tri con người thì lòng yêu nước đó lại bộc lộ. Với niềm tin vào sự hướng thiện của con người vì lợi ích tối cao của dân tộc. Hồ Chí Minh đã chân thành lôi kéo, tập hợp được chung quanh mình nhiều người trước đây vốn là quan đại thần của Nam triều cũ, như: Thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Khâm sai đại thần Phan Kế Toại, .vào khối đại đoàn kết toàn dân, tạo điều kiện để họ có đóng góp vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.

-   Để thực hành đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Với Hồ Chí Minh, yêu dân, tin dân, dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc "nước lấy dân làm gốc", "chở thuyền và làm lật thuyền cũng là dân", đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lý mácxít "cách mạng là sự nghiệp của quần chúng". Theo Người, dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vô tận và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng, là nềngốc và chủ thể của Mặt trận. Trong bài Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu Mặt trận Liên - Việt toàn quốc, tháng 1 — 1955. Người chỉ rõ: "Đại đoàn kết tức là trước hết là phải đoàm kết đại đa số nhân dân. mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là nề, gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác".

"Ðoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết

Thành công, thành công, đại thành công".

Ðó là chân lý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết và khái quát truyền thống lịch sử  dân tộc ta. Nhờ có đoàn kết mà 54 dân tộc anh em cùng chung sống trên mảnh đất không rộng lắm, người không đông lắm, trình độ phát triển về kinh tế còn thấp kém, nhưng đã vượt qua bao gian lao, thử thách, chống chọi được với thiên tai, địch họa, bảo vệ được giang sơn, bờ cõi, giữ gìn được bản sắc văn hóa dân tộc, và đang chung sức, xây dựng đất nước.

Dân tộc nào cũng có truyền thống đoàn kết để sinh tồn và phát triển. Song, truyền thống đoàn kết của dân tộc ta là truyền thống của một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, sống xen kẽ không phân biệt cương vực lãnh thổ. Ðó là những cuộc chiến đấu liên miên không cân sức để chống chọi với thiên tai khắc nghiệt và đủ loại xâm lược hòng thôn tính lãnh thổ và nô  dịch dân tộc ta. Ðó còn là một giá trị văn hóa thuộc về bản sắc dân tộc Việt Nam, một dân tộc ngay từ khi hình thành đã mang tính cộng đồng cao. Nghiên cứu chiều sâu của đoàn kết dân tộc, mới thấy rõ ý nghĩa sâu sắc mà Cương lĩnh của Ðảng đã tổng kết thành một trong năm bài học lớn của cách mạng nước ta. Ðó là: "Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Ðảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế".

Ðể đi đến thắng lợi to lớn ngày nay, cuộc đấu tranh của nhân dân ta đã phải trải qua những khó khăn, thử thách, những khúc quanh với những ấu trĩ, sai lầm, khuyết điểm. Hơn ai hết, dân tộc ta hiểu rõ giá trị của sự đoàn kết và quyết tâm làm tất cả những gì có thể làm được để củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kiên quyết chống lại những gì phá hoại hoặc làm xói mòn, làm suy yếu khối đại đoàn kết này, vì lịch sử đã cho chúng ta bài học quý giá: "Ðoàn kết thì sống, chia rẽ thì chết!".

Ðiều đó cắt nghĩa vì sao mọi thế lực thù địch muốn phá hoại sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc ta, lại nhằm vào tiêu điểm là phủ  nhận, xuyên tạc, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc của nhân dân ta, vì đây chính là cội nguồn, là bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng nước ta, là một động lực chủ yếu cho sự phát triển của đất nước hôm nay và mai sau. Ðấu tranh để bảo vệ sự vững chắc của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tức là đấu tranh làm thất bại về căn bản âm mưu phá hoại công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Truyền thống đoàn kết của dân tộc ta được nâng lên tầm cao mới trong thời đại Hồ Chí Minh, kết tinh thành tư tưởng  Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc. Thực tiễn cách mạng nước ta ngót một thế kỷ qua đã chứng minh một cách hùng hồn sức sống mãnh liệt và sức mạnh vĩ đại không gì chiến thắng nổi của tư tưởng  Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc, và Ðảng ta đã quán triệt sâu sắc  tư tưởng đó thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đường lối cách mạng của Ðảng qua mọi thời kỳ.

Ðại hội lần thứ VI của Ðảng đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đó thật sự là một mốc quan trọng, tạo ra một bước chuyển biến căn bản trong công cuộc xây dựng, phát triển đất nước, trong việc xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Bốn bài học lịch sử mà Ðại hội VI của Ðảng chỉ ra đã thấm đượm sâu sắc tinh thần đại đoàn kết dân tộc, trong đó nổi bật là hai bài học lớn: lấy dân làm gốc (với nội hàm: nền tảng của xã hội, của chế độ là lực lượng đoàn kết của nhân dân; động lực phát triển của đất nước là sức mạnh đoàn kết toàn dân; mục tiêu phấn đấu của Ðảng và Nhà nước là phục vụ nhân dân, làm công bộc của dân) và kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, thực hiện đoàn kết quốc tế.

Ðường lối  đổi mới đã khởi đầu cho một thời kỳ mới xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Ðó là việc đổi mới tư duy kinh tế, đề ra chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần trong đó kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo, coi trọng lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động, nhằm liên kết và khai thác mọi tiềm năng của mọi tầng lớp nhân dân trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ðó là việc quan tâm nhiều hơn đến "chính sách giai cấp (bao gồm chính sách đối với mỗi giai cấp và chính sách xử lý mối quan hệ giữa các lợi ích của các giai cấp) và chính sách dân tộc"(1), nhấn mạnh việc đặt con người vào vị trí trung tâm của chính sách kinh tế - xã hội, "có kế hoạch chủ động xây dựng cơ cấu giai cấp của xã hội mới, cụ thể hóa và thực hiện đúng chính sách dân tộc và chính sách tự do tín ngưỡng"(2). Ðó là việc quan tâm đẩy mạnh phát huy dân chủ trong xã hội, củng cố liên minh công nông và khối đại đoàn kết dân tộc.

Tư tưởng đại đoàn kết dân tộc đã được nâng lên một tầm cao mới tại Ðại hội Ðảng lần thứ VII (6-1991). Chúng ta đã chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết, trước hết là mở rộng nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc bao gồm công nhân, nông dân, trí thức. Văn kiện Ðại hội và các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tiếp theo trong nhiệm kỳ này đã thể hiện tinh thần phát huy cao sức mạnh của dân tộc, đặt lợi ích dân tộc và lợi ích của con người lên hàng đầu, coi đó là xuất phát điểm của các chính sách, là cơ sở để xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc trong thời kỳ mới. Ðường lối đại đoàn kết dân tộc của Ðại hội VI của Ðảng đã thể hiện cụ thể trong Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa VII. Ðây là một  nghị quyết phản ánh tập trung nhất sự kế thừa và phát triển tư tưởng đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tiếp theo Nghị quyết 8B về tăng cường và đổi mới công tác vận động quần chúng của Ðảng, sự ra đời của nghị quyết này là mốc quan trọng trong đổi mới tư duy về đại đoàn kết dân tộc trong quá trình đổi mới đất nước.

Trên cơ sở khẳng định quan điểm đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của dân tộc ta trong lịch sử dựng nước và giữ nước, nghị quyết đã phân tích quá trình lịch sử và bối cảnh tình hình đất nước hiện nay, đề ra chủ trương phải tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, củng cố và mở rộng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, đưa khối đại đoàn kết toàn dân lên tầm cao mới và chiều sâu mới.

Theo mục tiêu ấy, chúng ta chủ trương đoàn kết mọi người trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, bao gồm các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo, người trong nước và người định cư ở nước ngoài, vì mục tiêu chung giữ vững độc lập, thống nhất, chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ, phấn đấu sớm thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, tiến lên dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Ðó chính là điểm tương đồng để đoàn kết mọi người trong khối đại đoàn kết, đồng thời chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung, cùng nhau xóa bỏ định kiến, mặc cảm, hận thù, xây dựng tinh thần tin cậy, cởi mở, cùng hướng về tương lai của dân tộc. Chương trình Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đại đoàn kết dân tộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc còn nhấn mạnh thêm tinh thần đoàn kết không phân biệt quá khứ và ý thức hệ, chân thành đoàn kết, hòa hợp thành một khối thống nhất. Chủ trương đoàn kết đó phù hợp đặc điểm tình hình đất nước, thể hiện truyền thống bao dung, nhân ái của dân tộc và đường lối chính nghĩa của Ðảng, Nhà nước ta. Ðường lối đó đã đi vào lòng người, được các tầng lớp nhân dân cả nước đồng tình ủng hộ.

Chúng ta đã coi đại đoàn kết dân tộc là đường lối cơ bản của Ðảng và Nhà nước ta, là xuất phát điểm của mọi chủ trương, chính sách pháp luật trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại, nhằm đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các giai tầng trong xã hội, gắn bó quyền lợi với trách nhiệm, lợi ích riêng của mỗi người với nghĩa vụ công nhân, lấy lợi ích dân tộc làm trọng, tạo mọi điều kiện và môi trường thuận lợi nhằm triệt để giải phóng sức sản xuất xã hội, khuyến khích mọi người, mọi thành phần kinh tế, phát huy cao độ nguồn lực và tài năng sáng tạo, ra sức phát triển sản xuất, kinh doanh, làm giàu hợp pháp, cần kiệm xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân. Ðể tăng cường đoàn kết, chúng ta chủ trương thực hiện tốt các chính sách xã hội trong điều kiện đất nước vừa trải qua chiến tranh, như các chính sách: đền ơn đáp nghĩa đối với những người có công với nước, tham gia vào các việc công ích, các hoạt động nhân đạo từ thiện, giúp nhau xóa đói, giảm nghèo phát huy truyền thống nhân nghĩa của cha ông.

Trong điều kiện đã có chính quyền, để thực hiện đại đoàn kết dân tộc, chúng ta đã chủ trương phải xây dựng chính quyền nhân dân trong sạch vững mạnh, có hiệu lực cao, thật sự là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Chính quyền nhân dân phải làm mọi việc để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của dân, giữ vững trật tự, kỷ cương phép nước, xây dựng và thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội bảo vệ và chấn hưng nền văn hóa dân tộc đi đôi với tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại, giữ vững an ninh quốc phòng, mở rộng đoàn kết quốc tế.

Không chỉ dừng ở việc đề ra những quan điểm, chủ trương về đại đoàn kết, chúng ta còn chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết bằng các hình thức tập hợp đa dạng. Tổ chức và phát triển các phong trào quần chúng từ thấp đến cao, sáng tạo thêm nhiều hình thức hoạt động phù hợp từng tầng lớp dân cư trong xã hội. Phát huy vai trò tích cực của những người tiêu biểu trong các giai tầng, các dân tộc, các tôn giáo, tổ chức vận động nhân dân tại các địa bàn dân cư xã, phường và hộ gia đình. Quan tâm củng cố nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân bao gồm công nhân, nông dân, trí thức.

Những phát triển mới trong quan điểm, chủ trương về đại đoàn kết dân tộc đã tạo cơ sở để tăng cường đoàn kết quốc tế, đề ra những định hướng đúng đắn để phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, thúc đẩy công cuộc đổi mới.

Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, những quan điểm, chủ trương về đại đoàn kết dân tộc càng được phát triển. Ðại hội lần thứ VIII của Ðảng đã tiếp tục khẳng định những quan điểm trên, đồng thời đề ra các chính sách cụ thể đối với các giai tầng, các dân tộc trong nước, nhằm tạo ra những động lực mới thúc đẩy phong trào cách mạng của nhân dân, trong đó lần đầu tiên đề ra chủ trương bảo hộ sở hữu tài sản và vốn của các nhà doanh nghiệp tư nhân, khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh, thực hiện tốt các nghĩa vụ mà luật pháp đã quy định. Trong tình hình mới, chúng ta cũng khẳng định chủ trương coi kiều bào ta ở nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của cộng đồng dân tộc, bảo  hộ quyền lợi chính đáng của kiều bào, giúp đỡ kiều bào trong cuộc sống và tạo điều kiện cho kiều bào gắn bó, đóng góp xây dựng quê hương.

Những chủ trương về đại đoàn kết dân tộc đã thúc đẩy công cuộc đổi mới, trở thành động lực chủ yếu để phát triển đất nước. Ðây là một bước phát triển mới quan trọng trong tư duy lý luận về động lực cách mạng của Ðảng ta trong thời kỳ mới. Ðiều đó đã được khẳng định tại Ðại hội lần thứ IX của Ðảng và trở thành chủ đề của đại hội này. Tiếp tục cụ thể hóa và nâng cao hơn tầm vóc của chủ trương đại đoàn kết, Ðại hội IX của Ðảng đã khẳng định chủ trương và mở rộng biên độ của đại đoàn kết toàn dân thành đại đoàn kết toàn dân tộc, bao gồm các dân tộc, tôn giáo, giai cấp, tầng lớp, thành phần kinh tế, mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Ðảng và người ngoài Ðảng, người đang công tác và người về hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống trong nước hay ở nước ngoài. Sự đoàn kết sau nhiều năm đổi mới đã được nâng lên, gắn với việc phát huy dân chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, chẳng những chấp nhận, mà còn tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa IX về công tác dân tộc và công tác tôn giáo đã cụ thể hóa tư tưởng của Ðại hội. Việc đoàn kết với các dân tộc thiểu số được xác định trên nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển. Việc đoàn kết đồng bào theo đạo được khẳng định trên nguyên tắc coi tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, nghiêm cấm sự phân biệt với công dân vì lý do tín ngưỡng tôn giáo, đồng thời cũng nghiêm cấm lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại khối đoàn kết dân tộc.

Quá trình đổi mới đất nước 20 năm qua đã đem lại cho đất nước ta, nhân dân ta những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Trong những thành tựu đó, phải kể đến sự đổi mới quan trọng trong tư duy và kết quả của việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Chủ trương đại đoàn kết toàn dân tiếp tục đi vào cuộc sống, được nhân dân đồng tình, hưởng ứng và đạt nhiều kết quả. Khối đại đoàn kết toàn dân và Mặt trận Dân tộc Thống nhất không ngừng được mở rộng, đã quy tụ ngày càng đông đảo các tầng lớp nhân dân trong nước và kiều bào ta ở nước ngoài; sự liên minh liên kết giữa công nhân, nông dân, trí thức, giữa công nghiệp với nông nghiệp và khoa học công nghệ, giữa lao động trí óc và lao động chân tay có những bước tiến và nội dung mới. Nhiều nhân tố mới tích cực trong sản xuất kinh doanh đã xuất hiện, tỏ rõ sự năng động, sáng tạo, thích nghi với cơ chế thị trường, làm giàu hợp pháp, cải thiện đời sống và đóng góp cho xã hội.

Những năm đổi mới, lợi ích của mỗi thành viên và cộng đồng xã hội - động lực của việc xây dựng khối đoàn kết toàn dân - được quan tâm đáp ứng  một bước. Nhiều chủ trương, chính sách, cơ chế quản lý mới thông thoáng hơn đã được ban hành và đang không ngừng hoàn thiện, có tác dụng giải phóng lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất mới tương ứng. Chủ trương đa dạng hóa các thành phần kinh tế và các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã khuyến khích và tạo điều kiện phát triển sản xuất, kinh doanh. Các chính sách xã hội mới đã góp phần khắc phục những hậu quả chiến tranh. Những sự ngăn cách do chiến tranh để lại đã được dần dần khắc phục, làm cho các tầng lớp trong xã hội xích lại gần nhau hơn, nhất là đối với những người trước đây đã sống và làm việc trong chế độ Sài Gòn từ trước ngày 30-4-1975, những nhân sĩ, trí thức, các nhà doanh nghiệp tư nhân, đồng bào có đạo, kiều bào ở ngoài nước...

Những tiến bộ trong sinh hoạt dân chủ trong xã hội, nhất là những kết quả bước đầu của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, cải tiến sinh hoạt dân chủ của hội đồng nhân dân các cấp và Quốc hội... là những tiến bộ cần được ghi nhận, đã có tác dụng tích cực nhất định đối với tăng cường khối đoàn kết toàn dân. Trong thực tế cuộc sống ngày nay, chúng ta trân trọng những bước tiến dù còn khiêm tốn, nhưng rất cố gắng trong đời sống dân chủ ở nước ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa IX đã đề ra quan điểm mới: kết hợp việc thực hiện chế độ tập trung dân chủ trong Ðảng với chế độ hiệp thương dân chủ trong hệ thống Mặt trận Tổ quốc sẽ làm phong phú thêm sinh hoạt dân chủ của xã hội ta. Ðây là một bước phát triển trong việc tăng cường dân chủ để củng cố khối đoàn kết dân tộc ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Cần nghiên cứu một cơ chế cụ thể để thực hiện sự kết hợp giữa tập trung dân chủ trong Ðảng với hiệp thương dân chủ trong hệ thống Mặt trận để làm cho đời sống dân chủ của xã hội ta được tăng cường, qua đó mà củng cố đoàn kết dân tộc. Thực tiễn 20 năm đổi mới  cho thấy: tăng cường được đoàn kết và phát huy được vai trò của Mặt trận Dân tộc Thống nhất thì trong xã hội phải có dân chủ và kỷ cương. Có kỷ cương mới bảo đảm được dân chủ. Có dân chủ mới bảo đảm được đoàn kết. Nhân dân ta có nhu cầu đời sống vật chất và đời sống tinh thần, trong đời sống tinh thần thì nổi lên là nhu cầu về dân chủ và tiến bộ, công bằng xã hội. Ðáp ứng được hai yêu cầu ấy, sẽ tập hợp đoàn kết được toàn dân, không coi nhẹ mặt nào. Vì vậy quan tâm đời sống tinh thần là một cố gắng cần thiết.

 Những đổi mới từng bước  trong chính sách đối với công nhân, nông dân, trí thức, giới chủ doanh nghiệp, với các dân tộc thiểu số, với các tôn giáo, với kiều bào, những người  từng làm việc trong chế độ cũ hoặc từng lầm đường lạc lối nhưng đã trở về với nhân dân... là những bước tiến so với trước đây. Việc đổi mới hoạt động của ủy ban các cấp của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên theo hướng đi vào các hoạt động thiết thực, các cuộc vận động, các phong trào đến tận cơ sở... đã có tác dụng tích cực tập hợp ngày càng đông đảo mọi tầng lớp nhân dân ở trong nước và ngoài nước, góp phần tích cực củng cố khối đoàn kết dân tộc.

Chính nhờ có đường lối đổi mới đúng đắn, phù hợp với lòng dân, đã tạo ra những chuyển động lớn lao trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, mà khối đại đoàn kết toàn dân đã ngày càng được củng cố, nhờ vậy mà tạo nên môi trường ổn định cho sự phát triển đất nước. Mối quan hệ biện chứng ấy là kết quả của sự tổng kết kinh nghiệm từ trong quá khứ, đi đến sự đổi mới tư duy, kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc, khẳng định đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của Ðảng, chứ không phải là vấn đề sách lược.

Những thành tựu của 20 năm đổi mới là to lớn mang ý nghĩa lịch sử, là niềm tự hào chính đáng của nhân dân ta. Nó vừa là tiền đề, điều kiện, vừa là kết quả của việc tăng cường mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề làm cho các tầng lớp nhân dân băn khoăn, lo lắng. Ðó là sự tăng trưởng kinh tế chưa vững chắc và chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp do chưa có kế sách lâu dài để phát huy nội lực; hiệu lực quản lý của Nhà nước còn hạn chế; nhiều vấn đề xã hội bức xúc chưa được giải quyết tốt; tình trạng phân hóa giàu nghèo ngày càng gay gắt; Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, cuộc cải cách hành chính chưa đem lại kết quả như mong muốn; cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng kém kết quả... một số hạn chế trong việc thực hiện chính sách đối với các thành phần kinh tế, với một số vấn đề xã hội... đều là những yếu tố tác động nhất định đến việc xây dựng và củng cố khối đoàn kết toàn dân.

Các tầng lớp nhân dân ta mong muốn Ðảng, Nhà nước tiếp tục quán triệt và thực hiện có hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện tốt hơn những quan điểm đổi mới về đại đoàn kết dân tộc, đồng thời có những giải pháp mạnh mẽ và đồng bộ khắc phục những hạn chế, yếu kém mà nhân dân ta đang băn khoăn, lo lắng. Chỉ có như vậy mới thực hiện được một cách nhất quán chủ trương, chính sách đại đoàn kết của Ðảng và Nhà nước; nhất quán giữa các nghị quyết của Ðảng với luật pháp, chính sách và cơ chế quản lý, điều hành của các ngành các cấp; nhất quán giữa lời nói và việc làm, giữa trung ương và địa phương.

Củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ thật sự có kết quả khi nó trở thành trách nhiệm trong toàn bộ hệ thống chính trị và của chính mỗi người dân, trong đó vai trò nòng cốt và hạt nhân lãnh đạo là tổ chức Ðảng. Sự đoàn kết thống nhất trong Ðảng sẽ là một nhân tố bảo đảm cho xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Do đó, đẩy mạnh hơn nữa Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, làm cho Ðảng trong sạch vững mạnh, đoàn kết nhất trí là vấn đề hết sức quan  trọng để xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc hiện nay. Tấm gương đoàn kết của từng đảng viên sẽ lan tỏa và thu hút toàn dân trong sự nghiệp đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trong thời kỳ mới, đổi mới và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một giải pháp quan trọng đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và củng cố khối đại  đoàn kết toàn dân tộc. Muốn củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, không thể không tăng cường hoạt động của Mặt trận. Ðể làm tròn sứ mệnh lịch sử cao cả là tập hợp khối đại  đoàn kết toàn dân tộc, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần đổi mới mạnh mẽ hơn nữa trên nhiều phương diện, cả về lý luận và thực tiễn, đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Công tác Mặt trận giữ vai trò rất quan trọng, chẳng những trong cách mạng dân tộc dân chủ, mà cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa nữa. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận Dân tộc Thống nhất là những chỉ dẫn quan trọng cần được kế thừa và vận dụng trong hoàn cảnh hiện nay, làm cho Mặt trận thực sự trở thành một tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức và các cá nhân tiêu biểu của các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam ở nước ngoài, là cầu nối giữa Ðảng, Nhà nước và các tầng lớp nhân dân, thực hiện tốt chức năng đoàn kết, tập hợp toàn dân, xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong thời kỳ mới.

PGS, TS TRẦN HẬU

----------

1. Ðảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Ðại hội Ðại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb ST, HN 1987. Tr 96.

2. Sđd: tr 86.