Hữu ngạn sông Hồng là gì

Bài này viết về Sông Hồng tại Việt Nam. Đối với Hồng Hà, xem Hồng Hà. Đối với Sông Hồng khác, xem Sông Hồng (định hướng).Tọa độ: 20°1443B 106°3520Đ / 20,24528°B 106,58889°Đ / 20.24528; 106.58889

Sông Hồng là con sông có tổng chiều dài là 1.149 km[1] bắt nguồn từ Vân Nam, Trung Quốc chảy qua miền Bắc Việt Nam và đổ ra vịnh Bắc Bộ.  trên đất Việt Nam dài 510km.[2] Đây là dòng sông quan trọng của nền văn hóa lúa nước Việt Nam.

Sông Hồng
Sông Thao, Hồng Hà, Nhị Hà,
Nhĩ Hà, sông Cái, Nguyên Giang
Sông
Hình chụp cảnh phía Bắc của sông Hồng tại Hà Nội
Các quốc gia
Hữu ngạn sông Hồng là gì
Trung Quốc,
Hữu ngạn sông Hồng là gì
Việt Nam
Tỉnh Vân Nam, Lào Cai, Yên Bái, Phú Thọ, Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình, Nam Định
Các phụ lưu
-tả ngạn sông Lô
-hữu ngạn sông Đà
Nguồn
-Vị trí dãy núi Hoành Đoạn, Nguy Sơn, Đại Lý, Vân Nam, Trung Quốc
-Cao độ 1.776m (5.827ft)
Nguồn phụ
-Vị trí Tường Vân, Đại Lý, Vân Nam, Trung Quốc
Hợp lưu nguồn
-cao độ 1.200m (3.937ft)
-tọa độ 25°149B 100°4856Đ / 25,03028°B 100,81556°Đ / 25.03028; 100.81556
Cửa sông Cửa Ba Lạt
-vị trí biển Đông (ranh giới hai huyện Tiền Hải và Giao Thủy)
-cao độ 0m (0ft)
-tọa độ 20°1443B 106°3520Đ / 20,24528°B 106,58889°Đ / 20.24528; 106.58889
Chiều dài 1.149km (714dặm)
Lưu vực 143.700km2 (55.483dặm vuông Anh)
Lưu lượng tại cửa sông
-trung bình 2.640m3/s (93.231cuft/s)
-tối đa 30.000m3/s (1.059.440cuft/s)
-tối thiểu 700m3/s (24.720cuft/s)
Lưu lượng tại nơi khác (trung bình)
-Việt Trì 900m3/s (31.783cuft/s)
Hữu ngạn sông Hồng là gì
Lược đồ Sông Hồng và lưu vực

Mục lục

  • 1 Tên gọi
  • 2 Dòng chảy và lưu lượng
  • 2.1 Dòng chính
  • 2.2 Phụ lưu
  • 2.3 Chi lưu
  • 3 Lợi ích và nguy cơ
  • 4 Khai thác thuỷ điện
  • 5 Lưu lượng
  • 6 Các tỉnh, thành phố chảy qua
  • 7 Các cây cầu vượt sông
  • 8 Các hình ảnh về sông Hồng
  • 9 Xem thêm
  • 10 Tham khảo
  • 11 Liên kết ngoài

Tên gọiSửa đổi

Sông được gọi là Sông Hồng (chữ Nôm: 瀧紅) hay Hồng Hà (chữ Hán: 紅河) do con sông có màu đỏ nhạt. Sông cũng hay được gọi Sông Cái (người Pháp đã phiên tên gọi này thành Song-Koï, tuy nhiên họ thường dùng tên gọi Fleuve Rouge hơn) bởi sông Hồng là khởi nguyên cho nền Văn minh lúa nước của Việt Nam. Đoạn chảy trên lãnh thổ Trung Quốc được gọi là Nguyên Giang (元江, bính âm: yuan2 jiang1), đoạn đầu nguồn có tên là Lễ Xã Giang (禮社江).

Dòng chảy và lưu lượngSửa đổi

Dòng chínhSửa đổi

Dòng chính (chủ lưu) của sông Hồng bắt nguồn từ vùng núi thuộc huyện Nguy Sơn, tỉnh Vân Nam, Trung Quốc ở độ cao 1.776 m. Chi lưu phía đông bắt nguồn từ vùng núi huyện Tường Vân. Chủ yếu nó chảy theo hướng tây bắc-đông nam, qua huyện tự trị Nguyên Giang của người Thái (傣 Dăi), Di (彞), Cáp Nê (哈尼 Hani, ở Việt Nam gọi là người Hà Nhì). Đến biên giới Việt - Trung, sông Hồng chạy dọc theo biên giới khoảng 80km; bờ nam sông thuộc Việt Nam, bờ bắc vẫn là lãnh thổ Trung Quốc.

Điểm tiếp xúc đầu tiên của sông Hồng với lãnh thổ Việt Nam là tại xã A Mú Sung (huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai), chính giữa sông là điểm phân chia lãnh thổ hai nước. Đến thành phố Lào Cai, sông Hồng chảy hẳn vào lãnh thổ Việt Nam. Đến phía đông thành phố Lào Cai, sông thành ranh giới giữa thành phố và huyện Bảo Thắng, đi qua Bảo Thắng và Bảo Yên, dọc theo ranh giới Bảo Yên và Văn Bàn.

Sông chảy qua Văn Yên rồi Trấn Yên (Yên Bái) và thành phố Yên Bái, sang Hạ Hòa (Phú Thọ), dọc theo ranh giới giữa Hạ Hòa, Thanh Ba, thị xã Phú Thọ, Lâm Thao, Việt Trì ở tả ngạn và Cẩm Khê, Tam Nông ở hữu ngạn.

Sông chảy dọc theo ranh giới giữa tỉnh Vĩnh Phúc (các huyện Vĩnh Tường, Yên Lạc) ở tả ngạn và Hà Nội (các huyện, thị Ba Vì, Sơn Tây, Phúc Thọ) ở hữu ngạn. Sông chảy qua Hà Nội với các quận, huyện Đan Phượng, Bắc Từ Liêm, Tây Hồ, Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trưng, Hoàng Mai, Thanh Trì ở hữu ngạn và Mê Linh, Đông Anh, Long Biên, Gia Lâm ở tả ngạn.

Sông thành ranh giới tự nhiên giữa:

  • Hà Nội (Thanh Trì, Thường Tín, Phú Xuyên) ở hữu ngạn và Hưng Yên (Văn Giang, Khoái Châu, Kim Động) ở tả ngạn;
  • Hà Nam (Duy Tiên, Lý Nhân) ở hữu ngạn và Hưng Yên (thành phố Hưng Yên) ở tả ngạn;
  • Hà Nam (Lý Nhân) ở hữu ngạn và Thái Bình (Hưng Hà, Vũ Thư) ở tả ngạn;
  • Nam Định (Mỹ Lộc, thành phố Nam Định, Nam Trực, Trực Ninh, Xuân Trường, Giao Thủy) ở hữu ngạn và Thái Bình (Vũ Thư, Kiến Xương, Tiền Hải) ở tả ngạn và đổ ra biển ở cửa Ba Lạt.
Hữu ngạn sông Hồng là gì

Hệ thống sông Hồng

Hữu ngạn sông Hồng là gì

Bản đồ địa lý Sông Hồng và khu vực Bắc Bộ

Ở Lào Cai Sông Hồng cao hơn mực nước biển 73 m. Đến Yên Bái cách Lào Cai 145km thì sông chỉ còn ở cao độ 55 m. Giữa hai tỉnh đó là 26 ghềnh thác, nước chảy xiết[3]. Đến Việt Trì thì triền dốc sông không còn mấy nên lưu tốc chậm hẳn lại. Đồng bằng sông Hồng nằm ở hạ lưu con sông này.

Sông Hồng có lưu lượng nước bình quân hàng nǎm rất lớn, tới 2.640 m³/s (tại cửa sông) với tổng lượng nước chảy qua tới 83,5 tỷ m³, tuy nhiên lưu lượng nước phân bổ không đều. Về mùa khô lưu lượng giảm chỉ còn khoảng 700 m³/s, nhưng vào cao điểm mùa mưa có thể đạt tới 30.000 m³/s.

Phụ lưuSửa đổi

Các phụ lưu của Sông Hồng bắt nguồn từ Trung Quốc là sông Đà (có tên là sông Lý Tiên), sông Nậm Na (sông Đăng), sông Lô (Bàn Long) và sông Nho Quế (Phổ Mai) cùng một số sông nhỏ khác như sông Mễ Phúc, sông Nam Khê chảy qua biên giới hai nước vào Việt Nam. Trên lãnh thổ Việt Nam thì những phụ lưu trên như sông Đà, sông Lô (với phụ lưu là sông Chảy và sông Gâm), ngòi Phát, ngòi Bo, ngòi Nhù, ngòi Hút, ngòi Thia, ngòi Lao, sông Bứa đổ dồn vào sông Hồng phía trên Ngã ba Hạc.

Chi lưuSửa đổi

Từ Ngã ba Hạc xuống hạ lưu thì Sông Hồng không nhận thêm nước nữa mà bắt đầu rót nước sang các phân lưu. Phía tả ngạn là sông Đuống chảy từ Hà Nội (chỗ ngã ba Đông Anh, Tây Hồ, Long Biên) sang Phả Lại ở phía đông thuộc Hải Dương là sông Luộc chảy từ Hưng Yên đến Quý Cao (huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng). Hai sông này nối sông Hồng với hệ thống sông Thái Bình. Phân lưu phía hữu ngạn là sông Đáy và sông Đài (còn gọi là Lạch Giang hay Ninh Cơ), nối Sông Hồng và Sông Đáy là hai sông Phủ Lý và sông Nam Định.

Lợi ích và nguy cơSửa đổi

Nước Sông Hồng về mùa lũ có màu đỏ-hồng do phù sa mà nó mang theo, đây cũng là nguồn gốc tên gọi của nó. Lượng phù sa của Sông Hồng rất lớn, trung bình khoảng 100 triệu tấn trên nǎm tức là gần 1,5kg phù sa trên một mét khối nước.

Sông Hồng góp phần quan trọng trong sinh hoạt đời sống cũng như trong sản xuất. Phù sa giúp cho đồng ruộng thêm màu mỡ, đồng thời bồi đắp và mở rộng vùng châu thổ ở vùng duyên hải thuộc hai tỉnh Thái Bình, Nam Định. Nguồn cá bột của sông Hồng đã cung cấp giống đáng kể cho nghề nuôi cá nước ngọt ở đồng bằng Bắc Bộ.

Do lượng phù sa lớn mà lòng sông luôn bị lấp đầy khiến cho lũ lụt thường xuyên xảy ra, vì thế mà từ lâu hai bên bờ sông người ta đã đắp lên những con đê to nhỏ để tránh lũ lụt ngăn nước.

Sử sách đã ghi lại hàng trăm vụ vỡ đê lớn nhỏ ở sông Hồng. Bắt đầu từ nhà Lý trở đi (năm 1010), quốc sử mới có những ghi chép liên tục về chuyện vỡ đê, nhưng cũng chỉ ghi lại những năm lụt lớn:

  • Lý Nhân Tông năm thứ 7, Mậu Ngọ 1078, nước lụt tràn ngập trong thành. Cũng triều Lý Nhân Tông năm thứ 50, Tân Sửu 1121, mùa hạ tháng 5, nước to tràn vào đến ngoài cửa Đại Hưng, dù đê Cơ Xá được đắp để bảo vệ kinh thành từ năm 1108.
  • Năm Bính Thân 1236, triều Trần Thái Tông năm thứ 12, tháng 6 vỡ đê, nước ngập cung Lệ Thiên. Hai năm sau, năm Mậu Tuất 1238, mùa thu tháng 7, nước to, đê vỡ, ngập cung Thưởng Xuân. Đến năm Quý Mão 1243, nước lụt còn phá vỡ cả thành Đại La.
  • Năm Canh Ngọ 1270, triều Trần Thánh Tông, mùa thu tháng 7 nước lũ to. Các đường phố và kinh thành đều phải đi lại bằng thuyền.
  • Năm 1445, triều Lê Nhân Tông, nước sông lên to, ngập vào trong thành sâu đến 3 thước, lúa mạ tổn hại đến 1/3 cả nước.
  • Năm Đinh Hợi 1467, Lê Thánh Tông năm thứ 7, nước dâng cao khiến đê điều bị vỡ, thóc lúa bị ngập, nhiều người chết đói.
  • Năm Tân Hợi 1491, tháng 8 mùa thu, mưa rất to suốt ngày đêm không ngớt. Nước lũ lên dữ dội, Điện Kính Thiên nước ngập sâu 2 thước 2 tấc.
  • Năm Canh Ngọ 1630, triều Lê Thần Tông, mùa thu tháng 8, nước sông tràn vào, nước chảy trên đường phố Cửa Nam như thác, phố phường nhiều người chết đuối. Liên tiếp các năm Tân Mùi 1631, Nhâm Thân 1632, cung điện nhà vua đều bị ngập lụt.
  • Thời Gia Long năm 1802, nước lớn đê vỡ. Năm 1809, lũ lụt tràn ngập. Năm Giáp Thìn 1844, nước sông lên đến hơn 10 thước, đồng ruộng Hưng Yên, Hà Nội, Nam Định, Quảng Yên đều bị ngập.
  • Trong các triều vua Nguyễn thì triều Tự Đức có nhiều lũ lụt nhất, đồng bằng Bắc bộ vỡ đê liên miên vì đê điều ít được tu sửa. Đê Văn Giang (Hưng Yên giáp Hà Nội) vỡ 18 năm liền, từ 1863-1886, dân cư phiêu bạt, xóm làng trở thành đầm lầy.
  • Thời Pháp thuộc, cứ ba năm thì có một năm đê vỡ. Các trận lụt năm 1893, năm 1915 làm bốn tỉnh hữu ngạn sông Hồng ngập chìm trên 3 tháng. Trong vòng 100 năm (kể từ năm 1901), đồng bằng sông Hồng đã có 26 trận lũ lớn. Các trận lũ lớn này đa số xảy ra vào tháng 8, nhằm vào cao điểm của mùa mưa bão.[4] Năm 1926, ngày 29 tháng 7, lũ lớn làm vỡ đê nhiều nơi, tổng diện tích đất canh tác bị ngập lụt do vỡ đê khoảng 100.000 ha. Trận lũ lớn vào tháng 8 năm 1945 gây vỡ đê tại 79 điểm, gây ngập 11 tỉnh với tổng diện tích 312.000 ha, ảnh hưởng tới cuộc sống của 4 triệu người.
  • Trận lũ lớn gần nhất là năm 1969 và 1971, làm vỡ đê hàng loạt, hơn 500 người chết, gần 100.000 người bị ảnh hưởng nặng vì trận lũ này.

Sau năm 1971, do đê điều được củng cố và việc xây dựng các kênh đào, đập nước, đập thủy điện chia lũ nên lũ lụt không xảy ra nữa, tuy nhiên công tác canh phòng đê sông Hồng vẫn phải được duy trì liên tục, bởi nếu xảy ra sự cố thì hậu quả sẽ rất nghiêm trọng.

Khai thác thuỷ điệnSửa đổi

Hữu ngạn sông Hồng là gì

Hoàng hôn trên sông Hồng, nhìn từ cầu Long Biên.

Nguồn thuỷ năng trong lưu vực sông Hồng tương đối dồi dào, điều kiện khai thác thuận lợi nhất là công trình trên sông nhánh, cho đến nay đã xây dựng các trạm thuỷ điện sau:

Các trạm phát điện có công suất lắp máy dưới 10.000kW tổng cộng là 843 với tổng công suất lắp đặt là 99.400kW và 1 trạm thuỷ điện loại vừa ở Lục Thuỷ Hà có công suất 57.500kW, như vậy mới khai thác chưa đến 5% khả năng thuỷ điện có thể khai thác trong lưu vực. Tổng công suất các trạm thuỷ điện trong lưu vực có thể khai thác đạt 3.375 triệu kW trong đó dòng chính sông Hồng chỉ chiếm 23% còn 77% tập trung ở các sông nhánh.

Nét nổi bật về khai thác thuỷ điện lưu vực sông Hồng là:

  • Tập trung khai thác thuỷ điện trên các sông nhánh có đầu nước cao lưu lượng nhỏ, kiểu đường dẫn chuyển nước sang lưu vực địa hình thấp là kinh tế nhất.
  • Dòng chính sông Hồng chảy theo đường thẳng, ít gấp khúc và chêch lệch thuỷ đầu tập trung không nhiều vì vậy phần lớn khai thác kiểu thuỷ điện sau đập, có nhiều khó khăn vì núi cao khe sâu phải làm đập cao để tạo đầu nước sẽ không kinh tế.
  • Các thuỷ điện trên sông nhánh thường xa khu dân cư và đất canh tác rất phân tán, làm thế nào để công trình thuỷ điện đồng thời kết hợp cấp nước cho sản xuất và đời sống của nông dân là vấn đề cần nghiên cứu giải quyết đạt hiệu ích kinh tế.

Nhưng do lượng phù sa lớn, làm nông dòng sông và lưu lượng chảy sẽ kém nên sẽ làm giảm hiệu quả hay phá hủy các công trình thủy điện trong tương lai gần đây.

Lưu lượngSửa đổi

Bản thống kê lưu lượng nước qua từng tháng được thống kê trong bảng sau:

Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Lưu lượng (m3/s) 1318 1100 914 1071 1893 4692 7986 9246 6690 4122 2813 1746

Các tỉnh, thành phố chảy quaSửa đổi

Hữu ngạn sông Hồng là gì

Trung Quốc

  • Vân Nam
Hữu ngạn sông Hồng là gì

Việt Nam

  • Lào Cai
  • Yên Bái
  • Vĩnh Phúc
  • Phú Thọ
  • Hà Nội
  • Hưng Yên
  • Hà Nam
  • Nam Định
  • Thái Bình

Các cây cầu vượt sôngSửa đổi

Trên lãnh thổ Việt Nam (theo thứ tự từ bắc đến nam)

  • Cầu Kim Thành, Lào Cai
  • Cầu Cốc Lếu, Lào Cai
  • Cầu Phố Mới, Lào Cai
  • Cầu Giang Đông, Lào Cai
  • Cầu Phố Lu, Lào Cai
  • Cầu Phố Lu mới, Lào Cai
  • Cầu Bảo Hà, Lào Cai
  • Cầu Trái Hút, Yên Bái
  • Cầu Mậu A, Yên Bái
  • Cầu Cổ Phúc, Yên Bái
  • Cầu Yên Bái, Yên Bái
  • Cầu Bách Lẫm, Yên Bái
  • Cầu Tuần Quán, Yên Bái
  • Cầu Văn Phú, Yên Bái
  • Cầu Hạ Hòa, Phú Thọ
  • Cầu Sông Hồng, Phú Thọ
  • Cầu Ngọc Tháp, Phú Thọ
  • Cầu Phong Châu, Phú Thọ
  • Cầu Văn Lang, Phú Thọ
  • Cầu Vĩnh Thịnh, Vĩnh Phúc
  • Cầu Thăng Long, Bắc Từ Liêm - Đông Anh (Hà Nội)
  • Cầu Nhật Tân, Đông Anh - Tây Hồ (Hà Nội)
  • Cầu Long Biên, Long Biên - Hoàn Kiếm (Hà Nội)
  • Cầu Chương Dương, Long Biên - Hoàn Kiếm (Hà Nội)
  • Cầu Vĩnh Tuy, Long Biên - Hai Bà Trưng (Hà Nội)
  • Cầu Thanh Trì, Thanh Trì - Gia Lâm (Hà Nội)
  • Cầu Yên Lệnh, Hưng Yên - Hà Nam
  • Cầu Hưng Hà, Hưng Yên - Hà Nam
  • Cầu Thái Hà, Thái Bình - Hà Nam
  • Cầu Tân Đệ, Nam Định - Thái Bình

Các hình ảnh về sông HồngSửa đổi

Hữu ngạn sông Hồng là gì

Sông Hồng, đoạn chảy qua Nguyên Dương, Vân Nam, Trung Quốc.

Sông Hồng đoạn chảy qua Lào Cai, Việt Nam

Sông Hồng mùa cạn (đoạn qua cầu Vĩnh Tuy), chụp ngày 31.10.2009

Đê sông Hồng

Hữu ngạn sông Hồng là gì

Cầu Long Biên bắc qua sông Hồng

Cầu Chương Dương bắc qua sông Hồng

Xem thêmSửa đổi

  • Đê sông Hồng
  • Khu dự trữ sinh quyển châu thổ sông Hồng
  • Dự án thành phố sông Hồng

Tham khảoSửa đổi

  1. ^ Bách khoa Toàn thư Việt Nam ghi là 1.126 km.
  2. ^ Bách khoa Toàn thư Việt Nam ghi là 556 km
  3. ^ Phan Xuân Hòa. Việt Nam gấm vóc. Sài Gòn: Institut de l'Asie du Sud-est, trang 36.
  4. ^ Nguyên Nhân Lũ Lụt Lớn ở Đồng Bằng Sông Hồng. Bản gốc lưu trữ ngày 2 tháng 10 năm 2008. Truy cập ngày 21 tháng 9 năm 2020.

Liên kết ngoàiSửa đổi

  • Sông Hồng, những đổi thay qua thời gian