Môi trường quản trị là gì Vì sao doanh nghiệp cần phải nghiên cứu môi trường

Đề tài thuyết trình môn Quản trị học " Môi trường quản trị "

Tại sao cần nghiên cứu môi trường quản trị?Biết được môi trường quản trị và phân biệt được môi trường vĩ mô và vi mô ảnh hưởng đến tổ chức. Hiểu được những yếu tố môi trường vĩ mô và vi mô ảnh hưởng như thế nào đến các tổ chức. » Xem thêm

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. MÔI TRƯỜNG QUẢN TRỊ Trình bày : Nhóm 8
  2. TẠI SAO CẦN NGHIÊN CỨU MÔI TRƯỜNG QUẢN TRỊ 1. Biết được môi trường quản trị và phân biệt được môi trường vĩ mô và vi mô ảnh hưởng đến tổ chức. 2. Hiểu được những yếu tố môi trường vĩ mô và vi mô ảnh hưởng như thế nào đến các tổ chức. 3. Nắm bắt được các giải pháp quản trị nhằm hạn chế những bất trắc của các yếu tố môi trường.
  3. NỘI DUNG TRÌNH BÀY • Khái niệm về Môi trường Quản trị • Phân loại Môi trường Quản trị • Ảnh hưởng của môi trường đối với tổ chức • Các giải pháp Quản trị bất trắc của yếu tố môi trường • Bài tập tình huống
  4. KHÁI NIỆM VỀ MÔI TRƯỜNG QUẢN TRỊ Danh từ Môi trường (environment) là tập hợp của các lực lượng và yếu tố nằm bên ngoài hệ thống quản trị nhưng lại có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến các hoạt động về quản trị trong mỗi tổ chức.
  5. KHÁI NIỆM VỀ MÔI TRƯỜNG QUẢN TRỊ Theo quan điểm vạn năng (Omnipotent view – Nhà quản trị là tất cả) thì các nhà quản trị chịu trách nhiệm trực tiếp về sự thành công hay thất bại của tổ chức. Đó là quan niệm “Nhà quản trị giỏi có thể biến rơm thành vàng. Nhà quản trị tồi thì làm ngược lại”.
  6. KHÁI NIỆM VỀ MÔI TRƯỜNG QUẢN TRỊ Theo Robbins, quan điểm biểu tượng (Symbolic view – Nhà quản trị chỉ là biểu tượng) thì nhà quản trị có một ảnh hưởng giới hạn đến kết quả hoạt động của tổ chức vì ở đó có nhiều yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến tổ chức, của cấp quản trị.
  7. PHÂN LOẠI Tùy theo các góc độ tiếp cận khác nhau, người ta có thể phân môi trường quản trị ra thành nhiều loại, Môi trường quản trị là sự tương tác lẫn nhau giữa các yếu tố và lực lượng bên ngoài hệ thống quản trị nhưng lại có ảnh hưởng trực tiếp, hoặc gián tiếp đến hoạt động quản trị cuả một tổ chức. Các yếu tố đó được hình thành theo ba nhóm :
  8. PHÂN LOẠI 2.1 NHÓM YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ • Các yếu tố kinh tế vĩ mô. • Các yếu tố xã hội • Các yếu tố văn hóa • Các yếu tố về nhân khẩu, dân số • Các yếu tố thuộc về hệ thống chính trị, sự lãnh đạo và quản lý nhà nước • Các yếu tố công nghệ và tiến bộ khoa học kỹ thuật • Các yếu tố quốc tế • Các yếu tố thiên nhiên
  9. PHÂN LOẠI 2.2 NHÓM YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VI MÔ • Nhóm các nhà cung ứng. • Nhóm khách hàng. • Nhóm đối thủ cạnh tranh. • Nhóm những người môi giới trung gian • Nhóm các giới chức có quan hệ trực tiếp. • Các yếu tố môi trường nội bộ.
  10. PHÂN LOẠI 2.3 NHÓM YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG NỘI BỘ • Các yếu tố thuộc về tài sản • Các yếu tố thuộc về nhân sự • Các yếu tố thuộc về cơ sở vẫt chất • Các yếu tố thuộc về văn hoá tổ chức
  11. ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG ĐỐI VỚI TỔ CHỨC Các nhóm nói trên luôn tác động qua lại lẫn nhau tạo ra mội trường quản trị của một tổ chức. Quản trị gia phải nhận thức đầy đủ, chính xác các yếu tố môi trường để sọan thảo chiến lược và sách lược cho đúng giúp tổ chức tồn tại và phát triển. Phân tích ảnh hưởng cuả môi trường quản trị là một vấn đề hết sức rộng lớn và phức tạp, ở đây chỉ đề cập và phân tích ảnh hưởng chủ yếu caủ một số yếu tố đến các hoạt động quản trị
  12. NHỮNG NHÓM YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ 1.Cácyếutốmôitrườngkinhtếvĩmô - Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) - Yếu tố lạm phát - Tỉ giá hối đóai và lãi suất - Tiền lương và thu nhập Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) + GDP tác động đến nhu cầu của gia đình, doanh nghiệp, nhà nước. + GDP tác động đến tất cả các mặt hoạt động quản trị như: hoạch định, lãnh đạo, tổ chức, kiểm soát và ra quyết định
  13. NHỮNG NHÓM YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ 1.Cácyếutốmôitrườngkinhtếvĩmô - Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) - Yếu tố lạm phát - Tỉ giá hối đóai và lãi suất - Tiền lương và thu nhập Yếu tố lạm phát + Ảnh hưởng tới việc họach định chiến lược và sách lược kinh doanh. + Việc dự đoán chính xác yếu tố là rất quan trọng trong chiến lược sản xuất kinh doanh
  14. NHỮNG NHÓM YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ 1.Cácyếutốmôitrườngkinhtếvĩmô - Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) - Yếu tố lạm phát - Tỉ giá hối đóai và lãi suất - Tiền lương và thu nhập Tiền lương và thu nhập + Tác động tới giá thành và nguồn nhân lực của doanh nghiệp
  15. NHỮNG NHÓM YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ 2.Yếutốmôitrườngvănhoá­xãhội  Dân số  Lối sống Dân số  Văn hóa Ảnh hưởng lên nguồn nhân lực, ảnh hưởng tới đầu ra của doanh nghiệp  Gia đình trong việc xác định thị trường mục  Nghề nghiệp tiêu và phân khúc thị trường.  Tôn giáo  Tâm lý dân tộc
  16. NHỮNG NHÓM YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ 2.Yếutốmôitrườngvănhoá­xãhội  Dân số  Lối sống Văn hóa  Văn hóa Tác động và chi phối hành vi ứng xử của người tiêu dùng và người quản trị doanh  Gia đình nghiệp.  Nghề nghiệp  Tôn giáo  Tâm lý dân tộc
  17. NHỮNG NHÓM YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ 2.Yếutốmôitrườngvănhoá­xãhội  Dân số  Lối sống Nghề nghiệp  Văn hóa Nghề nghiệp khác nhau sẽ dẫn đến những đòi hỏi về phương tiện và công cụ  Gia đình lao động khác nhau, nhu cầu tiêu dùng vui  Nghề nghiệp chơi giả trí cũng khác nhau.  Tôn giáo  Tâm lý dân tộc
  18. NHỮNG NHÓM YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ 2.Yếutốmôitrườngvănhoá­xãhội  Dân số  Lối sống Tâm lý dân tộc  Văn hóa Ảnh hưởng tới phong cách của nhà quản trị và phong cách tiêu dùng.  Gia đình  Nghề nghiệp  Tôn giáo  Tâm lý dân tộc
  19. NHỮNG NHÓM YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ 2.Yếutốmôitrườngvănhoá­xãhội  Dân số  Lối sống Lối sống  Văn hóa Chúng chi phối đến việc hình thành những nhu cầu về chủng loại chất lượng  Gia đình và kiểu dáng hàng hóa.  Nghề nghiệp  Tôn giáo  Tâm lý dân tộc
  20. NHỮNG NHÓM YẾU TỐ MÔI TRƯỜNG VĨ MÔ 2.Yếutốmôitrườngvănhoá­xãhội  Dân số  Lối sống Gia đình  Văn hóa Ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất chất  Gia đình lượng hiệu quả làm việc của mọi người.  Nghề nghiệp  Tôn giáo  Tâm lý dân tộc

Sự cần thiết phải nghiên cứu môi trường kinh doanh

Bất cứ một doanh nghiệp nào đều tham gia trong một môi trường và đều phụ thộc vào nó. Trong môi trường ấy có những điều kiện thuận lợi đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và cũng không hiếm những nguy cơ, thách thức. » Xem thêm

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Bài kiểm tra môn Marketing Đề bài: Vì sao trong hoạt động kinh doanh cần thiết phải nghiên cứu môi trường marketing? Lấy ví dụ cụ thể của sự ảnh hưởng tới mỗi môi trường Marketing vĩ mô khi Việt Nam gia nhập WTO. Bài làm Ι. Sự cần thiết phải nghiên cứu môi trường marketing trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bất cứ một doanh nghiệp nào đều tham gia trong một môi trường và đều phụ thộc vào nó. Trong môi trường ấy có những điều kiện thuận lợi đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp và cũng không hiếm những nguy cơ, thách thức. Vì vậy nghiên cứu môi trường kinh doanh nghiệp nhận thức được đâu là cơ hội, là điều kiện thuận lợi, đâu là thách đố, là nguy cơ, thuận lợi là chủ yếu hay nguy cơ là chủ yếu… Từ đó quyết định các vấn đề có liên quan đến hoạt động kinh doanh của mình. Môi trường marketing bao gồm môi trường Marketing vĩ mô và môi trường Marketing vi mô. -Môi trường marketing vĩ mô bao gồm các yếu tố, các lực lượng mang tinh chất xã hội rộng lớn, chúng có ảnh hưởng đến toàn bộ môi trường marketing vi mô, tất cả các yếu tố của môi trường này người làm marketing không thể kiểm soát được. Vì vậy, họ phải nghiên cứu thật kĩ để tìm cách thích nghi. Trong đó: + Nghiên cứu về dân số giúp doanh nghiệp nắm bắt được thị trường của mình, cung ứng những sản phẩm, dịch vụ phù hợp với từng đối tượng khách hàng và biết được sức cầu của công chúng nhằm cung ứng một lượng hàng nhất định. + Nghiên cứu môi trường kinh tế giúp doanh nghiệp nắm được sức mua và cơ cấu chi tiêu
  2. của dân cư, từ đó đưa ra kế hoạch sản xuất phù hợp. +Nghiên cứu môi trường văn hóa-xã hội giúp doanh nghiệp hiểu được những phong tục tập quán thói quen, tiêu dùng của từng nhóm dân cư ở các vùng và từ đó cung ứng những sản phẩm và dịch vụ hợp với nền văn hóa của nơi đó. + Nghiên cứu môi trường chính trị và pháp luật: hiểu được những qui định, pháp lý, những quyền lợi và nghĩa vụ của doanh nghiệp sẽ có kế hoạch để tận dụng tối đa những quyền lợi mà pháp luật đem lại đồng thời kinh doanh đúng pháp luật,thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Việc xem xét tình hình chính trị có ổn định hay không tạo điều kiện cho doanh nghiệp có những quyết định đầu tư an toàn nhất. + Nghiên cứu môi trường khoa học và công nghệ: có ảnh hưởng trực tiếp tới việc tạo ra những cơ hội cũng như những thách thức trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Đây cũng là một trong những nhân tố mang tính chất quyết định khi doanh nghiệp cạnh tranh với các đối thủ khác trên thị trường. + Nghiên cứu môi trường tự nhiên giúp doanh nghiệp trả lời câu hỏi về nguyên nhiên vật liệu và việc xử lý phụ phẩm. II. Tác động của việc VN gia nhập WTO tới mỗi môi trường marketing vĩ mô. 1. Môi trường dân số 2. môi trường kinh tế Phần lớn các chuyên gia kinh tế của chúng ta đều cho rằng những vận hội và thách thức này đan xen nhau, trong vận hội có thách thức, trong thách thức có vận hội. Trong vận hội có thách thức ở chỗ, dù có vận hội to lớn, nhưng nếu ta không có khả năng nhận biết nó, có gan giành lấy nó, có sức nắm bắt, khai thác nó, thì nó sẽ trôi đi hoặc người khác sẽ giành lấy mất.
  3. Những vận hội và thách thức nào đang chờ đón chúng ta khi gia nhập WTO? Về vận hội, đây là thời cơ mới để chúng ta thúc đẩy việc mở rộng quan hệ thương mại và hợp tác kinh tế với các nước khác, tạo vị th ế vững chắc hơn trong tham gia phân công lao động quốc tế, đồng thời đẩy mạnh công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế ở trong nước, tạo năng lực cạnh tranh mạnh hơn, đưa nền kinh tế đất nước lên trình độ phát triển cao hơn. Hai mặt này gắn bó với nhau, hỗ trợ cho nhau, có thể cùng nhau tạo một bước ngoặt lớn trong tiến trình phát triển của nước ta. Về mở rộng quan hệ thương mại và hợp tác kinh tế với các nước, những cơ hội cụ thể của chúng ta là: - Tận dụng việc các nước mở cửa thị trường cho hàng hoá và dịch vụ của nước ta, dành cho ta quy chế tối huệ quốc (MFN), không phân biệt đối xử để phát triển xuất khẩu, nhập khẩu một cách hiệu quả hơn. Do chưa phải là thành viên WTO, trong những năm qua hàng hoá của chúng ta xuất khẩu ra các thị trường nước ngoài vẫn bị nhiều rào cản, bị phân biệt đối xử (điển hình nhất là hàng rào hạn ngạch đối với hàng dệt may, những hạn chế về xuất khẩu nông sản...). Những rào cản này khi được dỡ bỏ sẽ mở đường cho nhiều sản phẩm của VN thâm nhập mạnh hơn các thị trường bên ngoài, vừa đáp ứng nhu cầu về “đầu ra” cho nhiều ngành, nhiều sản phẩm và doanh nghiệp, vừa tạo thêm việc làm cho nhiều người lao động, vừa mang lại nguồn ngoại tệ cần thiết cho đất nước. Về nhập khẩu, do thuế giảm và các hàng rào khác được dỡ bỏ, chúng ta có thêm sự lựa chọn để nhập khẩu hiệu quả hơn những sản phẩm cần thiết về phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng
  4. trong nước. Nhập khẩu có vai trò quan trọng trong việc cung cấp công nghệ, thiết bị, vật tư “đầu vào” phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta; hiệu quả của nhập khẩu vừa góp phần tạo nên hiệu quả của nền kinh tế, vừa mang lại lợi ích lớn cho người tiêu dùng. - Tăng khả năng thu hút đầu tư nước ngoài, kết hợp hiệu quả hơn các nguồn lực trong và ngoài nước để phát triển. Khi nước ta gia nhập WTO, các cam kết quốc tế của chúng ta sẽ làm các nhà đầu tư nước ngoài thực sự yên tâm về môi trường đầu tư ở nước ta; đồng thời cam kết của các nước khác về mở cửa thị trường cho VN, triển vọng phát triển xuất nhập khẩu và mở rộng thị trường nội địa ở VN cũng tạo nên rất nhiều cơ hội mới cho họ để có thể đầu tư, khai thác thị trường VN về nhiều mặt. Thu hút thêm đầu tư nước ngoài, chúng ta không những có thêm các nguồn vốn, công nghệ, kỹ năng quản lý tốt hơn, mà còn khai thác hiệu quả hơn những nguồn lực và lợi thế sẵn có trong nước, tăng cường hơn quan hệ hợp tác nhiều mặt với các thị trường bên ngoài. - Tăng khả năng tham gia phân công lao động quốc tế một cách thuận lợi hơn, giành vị trí ổn định và có thể cao hơn trong chuỗi giá trị toàn cầu. Chưa có tư cách thành viên WTO, từ trước tới nay chúng ta tham gia phân công lao động quốc tế với nhiều hạn chế, thường chỉ tập trung vào khâu sản xuất, gia công, lắp ráp, ít tham gia được vào các khâu khác có giá trị gia tăng cao hơn hẳn như các dịch vụ nghiên cứu, thiết kế sản phẩm, tiếp thị, phân phối... Ngay trong khâu sản xuất, gia công, lắp ráp, sự cạnh tranh ngày càng mạnh trên thị trường cũng khiến chúng ta không dễ giữ được vị trí của mình. Gia nhập WTO tạo cho chúng ta vị thế
  5. bình đẳng, cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế, tăng niềm tin của các đối tác nước ngoài đối với chúng ta, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho chúng ta khai thác, phát triển các năng lực mới của mình để tham gia phân công lao động quốc tế trên trình độ cao hơn, ở các khâu tạo giá trị gia tăng lớn hơn. - Đỡ phải gánh chịu những vụ khiếu kiện bất công, bất bình đẳng trong quan hệ thương mại với các đối tác do những quy định khá minh bạch, không phân biệt đối xử trong cơ chế giải quyết các tranh chấp thương mại quốc tế của WTO. - Tạo vị thế mới cho nước ta trong việc tham gia các vòng đàm phán toàn cầu, khu vực và song phương trong tương lai. Vị trí thành viên WTO cho phép chúng ta chủ động và bình đẳng khi tham gia các vòng đàm phán tiếp theo của WTO, bảo vệ và giành những lợi ích mới cho mình trong những lĩnh vực sẽ được đưa ra đàm phán. Trong các quan hệ ở các tổ chức khu vực cũng như các quan hệ song phương, vị thế của ta cũng bình đẳng hơn. Trên cơ sở này, chúng ta có thể tiến hành những cuộc đàm phán song phương mới nhằm nâng tầm quan hệ kinh tế của ta với các đối tác quan trọng. Về thúc đẩy công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế trong nước, những cơ hội cụ thể của chúng ta là: - Hoàn thiện thể chế thị trường, cải thiện môi trường kinh doanh. Đây vừa là nhiệm vụ chúng ta xác định trong Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm 2001-2010 và Kế hoạch 5 năm 2006-2010, vừa là yêu cầu của việc thực hiện các cam kết với WTO. Hai nhiệm vụ cùng được tiến hành theo cùng một hướng sẽ thúc đẩy
  6. chúng ta thực hiện tốt hơn, tạo được thể ch ế kinh tế và môi trường kinh doanh vừa phù hợp với yêu cầu phát triển của mình, vừa đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế. - Cấu trúc lại nền kinh tế về các mặt cơ cấu ngành, sản phẩm, thị trường, các khu vực doanh nghiệp theo hướng phát huy lợi thế so sánh, tạo lợi thế mới. Trên cơ sở những cơ hội mới ở các thị trường bên ngoài và bối cảnh mới về mở cửa thị trường trong nước, đây là cơ hội để chúng ta rà soát, điều chỉnh lại các chiến lược phát triển của mình, cấu trúc lại nền kinh tế, phân bổ lại các nguồn lực để tăng tính hiệu quả và cạnh tranh của nền kinh tế. - Phát triển khoa học công nghệ, thúc đẩy các ngành công nghệ cao, phát triển doanh nghiệp, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người dân thông qua việc nắm bắt, khai thác các cơ hội thị trường và quan hệ hợp tác kinh tế mới ở trong và ngoài nước. Về thách thức, chúng ta sẽ phải đương đầu với những thách thức nặng nề, chủ yếu do cạnh tranh tăng lên ở ngay thị trường trong nước khi chúng ta thực hiện những cam kết mở cửa thị trường của mình với WTO, do những năng lực còn hạn chế trong nội bộ nền kinh tế, do yêu cầu tuân thủ hệ thống các quy định của WTO, do sự gắn chặt hơn nền kinh tế nước nhà với thị trường quốc tế đầy cạnh tranh và nhiều biến động. 3. Môi trường văn hóa . 4. Môi trường pháp luật chính trị
  7. Việc gia nhập WTO có ảnh hưởng đến nhiều mặt của pháp luật nước ta. Trong đó, có thể kể đến một số mặt sau: a, Pháp luật lao động. WTO cho phép các nước thành viên can thiệp vào quá trình trao đổi hàng hoá nhằm mục đích bảo vệ sức khoẻ của con người và động vật hoặc bảo tồn các loài thực vật, nhưng với điều kiện là nước đó không được phân biệt đối xử và không được lạm dụng bảo hộ trá hình. Theo đánh giá của các chuyên gia nước ngoài thì pháp luật lao động Việt Nam hiện nay không có bất kỳ chính sách nào bị liệt vào dạng chính sách trợ cấp đèn đỏ. Đó là những trợ cấp bị cấm trong WTO. Chúng ta cũng không có những trợ cấp đèn vàng là những trợ cấp mà phía đối tác có thể đưa ra những biện pháp đối kháng. Việt Nam chỉ có những chính sách và chương trình xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm cho những đối tượng và những vùng khó khăn. Đây đều là những trợ cấp mang tính xã hội, không mang tính chất kinh tế nên 3 được coi là trợ cấp thuộc nhóm đèn xanh và được phép áp dụng trong WTO nên Việt Nam không phải chỉnh sửa về vấn đề này. Vấn đề đầu tiên mà pháp luật lao động cần quan tâm chính là phải xử lý vấn đề tiêu chuẩn lao động. Những tiêu chuẩn lao động không nằm trong cam kết của WTO cũng như trong những cam kết thương mại song phương, đa phương nhưng do lao động là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất nên tiêu chuẩn lao động luôn đi cùng thương mại quốc tế và được các nước quan tâm. Về những tiêu chuẩn lao động trong WTO thì Hội nghị Bộ trưởng Singapore 1996 đã khẳng định Tổ chức lao động quốc tế (ILO) là tổ chức có thẩm quyền xây dựng các tiêu chuẩn về lao động. Nhưng WTO phản đối việc sử dụng các tiêu chuẩn lao
  8. động nhằm mục tiêu bảo hộ. Các tiêu chuẩn lao động quốc tế với mục đích là để xây dựng một môi trường làm việc lành mạnh hơn, có lợi hơn cho người lao động. Tuy nhiên việc thực hiện các tiêu chuẩn này cũng đòi hỏi nhất định về những điều kiện kinh tế, xã hội. Trước đây, trong hệ thống thương mại đa phương WTO, các nước phát triển muốn đưa những tiêu chuẩn lao động riêng biệt vào trong khuôn khổ WTO đã gặp phải những phản ứng của các nước đang phát triển (vốn chiếm đa số trong WTO) vì cho rằng việc tuân thủ những tiêu chuẩn lao động làm tăng chi phí tiền lương và làm ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Và theo tuyên bố chung tại Hội nghị Bộ trưởng WTO năm 1996 tại Singapore, các Bộ trưởng đã thống nhất các vấn đề về tiêu chuẩn lao động thuộc phạm vi điều chỉnh của Tổ chức lao động quốc tế (ILO). Nghĩa là, WTO sẽ không quy định trực tiếp về các tiêu chuẩn lao động. Sau này, trong Hiệp định thương mại tự do bắc Mỹ được bổ sung với một Hiệp định về lao động trong đó có đề cập đến những nguyên tắc về lao động mà sau này được coi là tiêu chuẩn lao động của WTO: Các nước thành viên thống nhất tuân thủ và tăng cường các tiêu chuẩn về lao động được xây dựng trên 12 nguyên tắc chung về lao động. Trong đó có 4 nguyên tắc của ILO (quyền công đoàn, tổ chức công đoàn; thương lượng tập thể; không lao động cưỡng bức và không lợi dụng lao động trẻ em) và 8 nguyên tắc khác (quyền được đình công; tiêu chuẩn tối thiểu về lương làm ngoài giờ; xoá bỏ phân biệt sắc tộc; bình đẳng nam nữ; bồi thường tai nạn lao động; tiêu chuẩn làm việc tối thiểu; bảo hộ lao động; lương tối thiểu) Trước mắt, pháp luật lao động cần tập trung vào hai vấn đề lương tối thiểu và tự donghiệp đoàn.
  9. *Lương tối thiểu Hiện nay pháp luật lao động Việt Nam quy định nhiều mức lương tối thiểu khác nhau. Lương tối thiểu của công chức nhà nước, lương tối thiểu cho công nhân viên doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Điều này rõ ràng đã thể hiện sự phân biệt đối xử đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, vi phạm điều khoản về “quyền công dân kinh doanh” của WTO. Việc khống chế mức lương trong doanh nghiệp nhà nước, quy định về thang bảng lương cũng thể hiện sự bảo hộ của nhà nước. Điều này là không phù hợp khi Việt Nam tham gia WTO. Việt Nam hiện nay chưa có chính sách lương tối thiểu giống nhau cho toàn nền kinh tế và cũng chưa cam kết thực hiện quy ước này của ILO. Theo ông 4 Nguyễn Hữu Dũng, Viện trưởng Viện Khoa học lao động và xã hội thì chính sách tiền lương của Việt Nam khi gia nhập WTO phải giải quyết 2 vấn đề quan trọng: thứ nhất, tiền lương phải theo định hướng thị trường, nghĩa là lương phải đủ cho người lao động sống, phụ thuộc vào quan hệ cung cầu trên thị trường lao động và phải dựa trên sự thoả thuận, đối thoại qua thoả ước tập thể. Thứ hai là, không được vi phạm nguyên tắc phân biệt đối xử về tiền lương, cần tháo bỏ quy định gò bó thang bảng lương trong doanh nghiệp nhà nước hiện nay. Theo lộ trình đến 2010 mới sáp nhập lương tối thiểu giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân. Tuy nhiên, việc thực hiện thống nhất một mức lương tối thiểu đối với Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Tiền lương tối thiểu của Việt Nam có quá nhiều ràng buộc với hệ thống an sinh, là cơ sở để điều chỉnh lương hưu, trợ cấp, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thôi việc. Chính vì vậy việc thống nhất một mức lương tối thiểu cao như ở khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư
  10. nước ngoài sẽ là một gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Ở các nước, lương tối thiểu gắn với lạm phát và thường được điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với chỉ số giá sinh hoạt. Trước tình hình đó, Việt Nam định hướng sẽ cải cách tiền lương theo hướng giảm dần các yếu tố can thiệp của Nhà nước và tăng cường sự tự chủ của các doanh nghiệp trong việc trả lương. b, Pháp luật chống bán phá giá và cạnh tranh. Chính sách và pháp luật về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ cũng là nền tảng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam và đông đảo người tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là thực thi các cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong việc mở cửa thị trường cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư nước ngoài, bước vào sân chơi chung toàn cầu. Trong quá trình xây dựng Luật Cạnh tranh, các Pháp lệnh Chống bán phá giá, Pháp lệnh Ch ống trợ cấp và Pháp lệnh Tự vệ, cùng các văn bản hướng dẫn thi hành, Bộ Thương mại đã nhận sự quan tâm và tham gia góp ý của các bộ, ngành quản lý nhà nước, các hiệp hội ngành hàng, các chuyên gia từ các trung tâm giảng dạy nghiên cứu pháp luật, các hãng luật trong nước và ngoài nước và toàn thể cộng đồng doanh nghiệp. Sự hợp tác chặt chẽ giữa cơ quan nhà nước và đông đảo các tầng lớp xã hội chính là chìa khóa cho thành công trong công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm đưa pháp luật đi vào đời sống, thật sự phát huy được tác dụng và hiệu quả. Tuy nhiên, việc xây dựng và ban hành Luật Cạnh tranh, các Pháp lệnh đã khó, việc thực thi hiệu quả để Luật Cạnh tranh đi vào cuộc sống còn khó hơn nhiều, cần có sự nỗ lực từ cả hai phía là các cơ quan nhà nước và cộng đồng doanh nghiệp. Về phía Chính phủ và các bộ, ngành, cần triển khai những biện pháp đồng bộ sau:
  11. -Tiếp tục phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cơ quan quản lý nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng và đông đảo người tiêu dùng về tầm quan trọng và các yêu cầu thực thi Luật Cạnh tranh; các Pháp lệnh Chống bán phá giá, Chống trợ cấp và Tự vệ trong giai đoạn đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế thông qua quy chế thành viên WTO. -Hoàn thiện hệ thống pháp luật chuyên ngành về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ và các quy định khác theo hướng nhất quán, phù hợp, không ảnh hưởng môi trường cạnh tranh, không ngăn cản các hoạt động kinh doanh hợp pháp của doanh nghiệp. -Kiện toàn cơ cấu tổ chức và đào tạo nguồn nhân lực cho các cơ quan thực thi pháp luật... Tại nhiều thành viên của WTO, số lượng người trong các cơ quan chịu trách nhiệm điều tra những vụ việc này lên đến con số hàng trăm người (Hoa Kỳ, Canada, Ấn Ðộ...) trong khi ở nước ta mới chỉ có hơn 20 người. Với công việc còn mới mẻ, đội ngũ nhân sự của Cục Quản lý cạnh tranh chưa có nhiều kinh nghiệm để xử lý và điều tra các vụ việc phức tạp và kéo dài như các cuộc điều tra cạnh tranh, chống bán phá giá, trợ cấp và tự vệ. Vì vậy, cần sớm có chính sách nâng cao năng lực và tăng cường nguồn nhân lực cho Cục để hình thành một đội ngũ cán bộ chuyên môn hóa về xử lý các vụ việc về cạnh tranh chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ. -Xây dựng cơ chế phối hợp công tác giữa Bộ Thương mại và các cơ quan ngành, đặc biệt các ngành có cam kết mở cửa khi gia nhập WTO. Trong quá trình thực thi pháp luật về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, cơ quan điều tra cần có sự phối hợp chặt chẽ với các bộ trực tiếp quản lý sản xuất để
  12. làm rõ hơn về ngành sản xuất, thực trạng cạnh tranh, các vấn đề mang tính chất chuyên môn, thông lệ kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành. -Việc đào tạo nâng cao năng lực về các biện pháp chống phá giá, chống trợ cấp và tự vệ cho đội ngũ cán bộ làm công tác này là hết sức cần thiết và cấp bách, góp phần tăng cường sự hợp tác và hỗ trợ của các bộ, ngành trong việc thi hành các quy định pháp luật liên quan. -Ðối với các địa phương, cần xây dựng phương án, kế hoạch khả thi nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp địa phương, phát huy thế mạnh sẵn có, vượt qua những thách thức. Các cơ quan, đơn vị tại địa phương cũng cần tránh ý thức cục bộ, địa phương chủ nghĩa, đưa ra các chủ trương, chính sách thiên vị làm suy yếu sức cạnh tranh của các doanh nghiệp địa phương, tổn hại đến môi trường kinh doanh chung và trái với những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO. -Ðối với cộng đồng doanh nghiệp và các hiệp hội ngành hàng: Việc tìm hiểu và tiếp thu tốt các nội dung và định hướng cơ bản của Luật Cạnh tranh, Pháp lệnh Chống bán phá giá, Pháp lệnh Chống trợ cấp và Pháp lệnh Tự vệ cùng các văn bản hướng dẫn thi hành sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao chuẩn mực và chất lượng hoạt động của mình. Mặc dù ngăn cấm và xử lý vi phạm trong lĩnh vực cạnh tranh, nhưng các văn bản pháp luật này có nhiệm vụ chính là hướng dẫn doanh nghiệp cách hành xử đúng đắn trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Cạnh tranh lành mạnh trong khuôn khổ pháp luật sẽ giúp doanh nghiệp lớn mạnh và bảo đảm sự phát triển bền vững của nền kinh tế nói chung. Doanh nghiệp cần nhận thức được đầy đủ và tuân thủ nghiêm túc các yêu cầu cạnh tranh lành mạnh không chỉ trong nước mà còn tại các thị
  13. trường thành viên của WTO, do nguy cơ các vụ kiện thương mại quốc tế ngày càng gia tăng. Cần có những đầu tư nghiêm túc cho các hoạt động nghiên cứu thị trường, xúc tiến thương mại, tư vấn pháp lý... nhằm giảm thiểu những rủi ro cho doanh nghiệp và hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam, nhất là trước những cơ chế phức tạp mà các thành viên khác trong WTO dựng lên thông qua các quy định về chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, nhằm bảo hộ cho sản xuất nội địa kém cạnh tranh của họ. Luật Cạnh tranh và các Pháp lệnh đã cung cấp những công cụ pháp lý cần thiết giúp doanh nghiệp có thể tự bảo vệ mình trước hoạt động trái pháp luật của các đối thủ cạnh tranh trong nước cũng như ngoài nước. Các doanh nghiệp cần sử dụng tốt các công cụ đó để yêu cầu sự can thiệp của công quyền, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của mình trên thương trường. Chỉ có doanh nghiệp mới có thể bảo vệ tốt nhất cho chính bản thân mình. Cần tăng cường liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa các doanh nghiệp với hiệp hội ngành hàng và cơ quan quản lý Nhà nước. Do khả năng phối hợp các doanh nghiệp trong số nhiều ngành công nghiệp của Việt Nam là chưa cao; các hiệp hội ngành hàng chưa phát huy được vai trò dẫn dắt các doanh nghiệp kinh doanh lành mạnh, đúng pháp luật. Việc tăng cường liên kết, phối hợp có ý nghĩa quan trọng để có thể giúp các tổ chức, cá nhân nộp hồ sơ yêu cầu áp dụng các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ cần đáp ứng yêu cầu về tư cách đại diện cho ngành sản xuất trong nước. Ðể điều tra một vụ việc chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, pháp luật chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ đã đưa ra quy định về "tư cách khởi kiện" của ngành sản xuất
  14. nội địa Việt Nam. Theo quy định này, bên khởi kiện phải đại diện cho ít nhất 25% khối lượng, trị giá hàng hóa sản xuất trong nước và số nhà sản xuất ủng hộ vụ kiện phải lớn hơn số nhà sản xuất chống lại vụ kiện. Ðiều đó đã đặt ra một yêu cầu là phải có sự hợp tác, thống nhất hành động của các nhà sản xuất trong nước ủng hộ đơn kiện yêu cầu điều tra để áp dụng các biện pháp nêu trên. Việc đáp ứng đầy đủ, chính xác các điều kiện theo luật định là một thách thức không nhỏ đối với các doanh nghiệp nước ta. Các doanh nghiệp và hiệp hội cũng cần hợp tác chặt chẽ với cơ quan quản lý cạnh tranh Nhà nước trong việc nâng cao nhận thức cho cộng đồng doanh nghiệp và các hiệp hội ngành hàng về pháp luật và chính sách về cạnh tranh, chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ, tích cực phòng chống các vi phạm pháp luật nhằm xây dựng môi trường cạnh tranh lành mạnh và cơ chế kinh tế thị trường phát triển bền vững. Cạnh tranh là một lĩnh vực rất mới ở Việt Nam, do đó mặc dù đã có những nỗ lực rất lớn công tác soạn thảo, các văn bản pháp luật về cạnh tranh không thể tránh khỏi những bất cập. Trong quá trình thực thi, rất cần cộng đồng doanh nghiệp có những kiến nghị, góp ý bổ sung hoàn thiện các quy định pháp luật. Bộ Thương mại hết sức hoan nghênh và sẵn sàng tiếp thu, sửa đổi kịp thời trong khả năng cho phép. c, Pháp luật về dịch vụ ngân hàng- tiền tệ Để thực thi các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt - Mỹ và chuẩn bị cho gia nhập WTO, trong thời gian qua hệ thống pháp luật về ngân hàng của Việt Nam đã có những thay đổi cơ bản. Các văn bản pháp luật cơ bản về tiền tệ, ngân hàng được hoàn thiện, như: Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật Ngân hàng nhà
  15. nước Việt Nam ngày 17/6/2003; Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật các tổ chức tín dụng ngày 15/6/2004; Luật các công cụ chuyển nhượng ngày 29/11/2005; Pháp lệnh Ngoại hối của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày 13/12/2005; Nghị định số 22/2006/NĐ-CP của Chính phủ ngày 28 tháng 2 năm 2006 về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam; Nghị định số 74/2005/NĐ-CP của Chính phủ ngày 07/6/2005 về phòng, chống rửa tiền... Như vậy, nếu đối chiếu với các cam kết của Việt Nam trong Phụ lục Biểu Cam kết cụ thể đối với thương mại dịch vụ (tài liệu WT/ACC/VNM/48/Add.2) kèm Nghị định thư về việc gia nhập WTO, với pháp luật Việt Nam hiện hành có thể nhận thấy những tương thích cơ bản. Tuy nhiên, những thành tựu lập pháp nói trên chỉ là khởi động của một quá trình, để dịch vụ tiền tệ ngân hàng phát triển bền vững trong sau hội nhập, những thay đổi trên là chưa đủ.Những nội dung sau đây cũng không kém phần quan trọng song chưa được chú trọng một cách đúng mức: Thứ nhất: Các văn bản pháp luật liên quan lĩnh vực giao dịch có bảo đảm (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh); pháp luật về công chứng; pháp luật về đăng ký giao dịch có bảo đảm; pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm…phải được sửa đổi, hoàn thiện cho phù hợp trong điều kiện mới. Thứ hai: Các qui định cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho các ngân hàng, các tổ chức tín dụng phi ngân hàng và giấy phép hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác chưa cụ thể. Hiện tại, theo quy định của Luật các
  16. TCTD, một trong những điều kiện bắt buộc để được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xem xét cấp phép là “có nhu cầu hoạt động ngân hàng trên địa bàn”. Thiết nghĩ, phải nhanh chóng xoá bỏ các điều kiện mang tính định tính trong nhóm các điều kiện tiếp cận thị trường. Thay vào đó, các điều kiện như tỷ lệ vốn an toàn, khả năng thanh toán và trình độ quản trị ngân hàng sẽ được bổ sung vào nhóm các điều kiện cấp phép. Những bổ sung này đảm bảo phù hợp với tinh thần các cam kết, vừa trong khuôn khổ “biện pháp thận trọng” được phép ghi nhận trong Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ, nhằm đảm bảo an toàn hệ thống tài chính - tiền tệ quốc gia. Thứ ba: Muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của các ngân hàng Việt Nam cần thiết phân định rạch ròi hơn nữa chức năng của các ngân hàng thương mại và ngân hàng chính sách xã hội. Những ngân hàng thương mại dù là ngân hàng thương mại nhà nước phải được trao quyền tự chủ trong kinh doanh, được “giải phóng” khỏi sự can thiệp hành chính. Việc xoá bỏ những ưu đãi, bảo hộ của nhà nước đối với các ngân hàng thương mại nhà nước phải tiến hành đồng thời với việc xoá bỏ các biện pháp can thiệp mang tính hành chính. Ví dụ: khoản 2 Điều 3 Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về các biện pháp bảo đảm tiền vay cho phép Chính phủ chỉ định ngân hàng thương mại nhà nước cho vay một số đối tượng không có tài sản bảo đảm. Các qui định tương tự vẫn tồn tại trong các văn bản pháp luật hiện hành như một gánh nặng cho các ngân hàng thương mại nhà nước. Việc thực hiện các chính sách xã hội được đảm nhận bởi Ngân hàng chính sách xã hội và ngân hàng này phải có một cơ chế pháp lý riêng. Thứ tư: Hệ thống pháp luật về thanh tra, kiểm tra, kiểm soát đặc biệt trong đối với dịch
  17. vụ tiền tệ - ngân hàng chưa đồng bộ. Những qui định pháp luật về cạnh tranh trong Luật cạnh tranh ngày 03/12/2004 (có hiệu lực từ 01/7/2005) cho dù được đánh giá cao song để áp dụng trong lĩnh vực dịch vụ tiền tệ - ngân hàng cần thiết phải có những văn bản hướng dẫn cụ thể và phải tính đến những yếu tố đặc thù trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng. Tình trạng tương tự cũng thể hiện ở pháp luật phá sản. Thứ năm: Vai trò của Ngân hàng trung ương (Ngân hàng nhà nước Việt Nam) trong điều kiện hội nhập còn mờ nhạt do những trói buộc trong Luật NHNNVN. Trong điều kiện hội nhập với cộng đồng tài chính- tiền tệ thế giới, vị thế và vai trò của Ngân hàng trung ương phải được củng cố. Với địa vị pháp lý và chế độ tài chính hiện hành, Ngân hàng nhà nước Việt Nam khó có thể thực thi một cách hiệu quả và linh hoạt chính sách tiền tệ để ngăn chặn những thảm hoạ tài chính- tiền tệ cũng như quản lý một cách hữu hiệu hoạt động ngân hàng được dự đoán là rất sôi động và cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà cung cấp dịch vụ này trong tương lai. 5. Môi trường khoa học và công nghệ Điện tử - viễn thông là hai trong số những ngành được coi là mũi nhọn và chịu nhiều tác động sau sự kiện này. Sự cạnh tranh diễn ra khá quyết liệt trên hai thị trường điện tử và viễn thông đã khiến ngành đứng trước rất nhiều những khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, không phải là không có những cơ hội được mở ra... Hội thảo đã thu hút đông đảo đại biểu và giới báo chí tham dự. Ảnh: Thuỷ Nguyên
  18. Quan điểm này đã được nhiều đại biểu, chuyên gia trong lĩnh vực điện tử - viễn thông chia sẻ tại buổi hội thảo với chủ đề "Hội nhập Kinh tế Quốc tế và những vấn đề đặt ra đối với ngành Điện tử - Viễn thông Việt Nam" vừa diễn ra hôm qua, 25/12 tại Hà Nội. Hội thảo nằm trong khuôn khổ chương trình "Đánh giá tác động hội nhập sau hai năm gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam và tôn vinh các doanh nghiệp Việt Nam tiêu biểu". Cơ hội nhiều... Theo đại diện của Vụ Xuất nhập khẩu Bộ Công Thương, tốc độ tăng trưởng của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam hàng năm khoảng 20-30%. Từ những lắp ráp đơn giản, Việt Nam đã phát triển từng bước và bước đầu sản xuất phụ tùng, linh kiện xuất khẩu cũng như nghiên cứu thiết kế được một số sản phẩm thương hiệu Việt được bạn hàng quốc tế tin dùng. Về cơ bản, các sản phẩm điện tử và công nghệ đã thoả mãn được nhu cầu của thị trường nội địa và phát triển xuất khẩu. Doanh số thị trường nội địa đạt 1,6 tỷ USD năm 2005, và năm 2006 đã đạt hơn 2 tỷ USD. Việc Việt Nam gia nhập WTO đã mang lại cho ngành công nghiệp điện tử những cơ hội lớn như tăng cường khả năng thâm nhập và thúc đẩy xuất khẩu do thị trường thế giới và khu vực được mở rộng và vị thế cạnh tranh bình đẳng hơn. Môi trường kinh doanh và đầu tư của ngành cũng đã được cải thiện, hành lang pháp lý minh bạch dẫn đến sức cạnh tranh lành mạnh hơn, không phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Cũng từ khi Việt Nam gia nhập WTO, cơ hội tiếp cận tín dụng, công nghệ mới, thông tin thị
  19. trường thế giới, khu vực, các dịch vụ, cung cấp vật tư... của ngành tốt hơn. Ngành điện tử có cơ hội xây dựng lại chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh phù hợp với tình hình mới, các tranh chấp thương mại quốc tế được giải quyết công bằng và minh bạch hơn. Còn với ngành viễn thông, theo tiến sĩ Trịnh Minh Anh, Phó Vụ trưởng - Phó Chánh văn phòng Uỷ ban quốc gia Hợp tác kinh tế quốc tế, hai năm sau khi Việt Nam gia nhập WTO, những tác động mang tính tích cực ảnh hưởng tới ngành đó là thị trường viễn thông Việt Nam đã có tốc độ tăng trưởng được xếp vào hàng nhanh nhất thế giới. Cạnh tranh sôi động nhất đang diễn ra trên thị trường thông tin di động giữa các nhà cung cấp dịch vụ VinaPhone, MobiFone, Viettel, EVN Telecom, SFone... đã thúc đẩy thị trường đạt mức tăng trưởng nhanh. Mới đây, trong bảng xếp hạng phát triển viễn thông Châu Á, thị trường viễn thông Việt Nam đã được xếp thứ 13 về cả quy mô và tốc độ phát triển trên ba lĩnh vực cố định, di động và Internet. Chia sẻ quan điểm tại hội thảo, ông Bùi Quốc Việt, Giám đốc Trung tâm Thông tin và Quan hệ công chúng thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam cho rằng, hội nhập WTO, các doanh nghiệp viễn thông trong nước có nhiều cơ hội kinh doanh mới, cơ hội đầu tư trang bị thiết bị công nghệ mới, hiện đại, tiết kiệm được vốn đầu tư và hiệu quả kinh tế. Hội nhập, viễn thông Việt Nam thu hút được nguồn vốn và kinh nghiệm quản lý từ các nhà khai thác nước ngoài thông qua việc hợp tác với các nhà khai thác lớn trên thế giới để phát triển, hiện đại hoá mạng lưới và cung cấp dịch vụ, đồng thời cơ hội từng bước thâm nhập ra thị
  20. trường khu vực và trên thế giới. Cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tạo động lực phát triển cho từng doanh nghiệp và cho cả ngành viễn thông và CNTT Việt Nam. Cạnh tranh phát triển tạo cơ hội cho các doanh nghiệp viễn thông trong nước tự đổi mới và tái cơ cấu để hoạt động có hiệu quả, cải cách quy trình quản lý, khai thác, tập trung nguồn lực vào các lĩnh vực mang tính chiến lược, nâng cao chất lượng dịch vụ và chất lượng chăm sóc khách hàng. Tuy nhiên, với lộ trình mở cửa thị trường lĩnh vực viễn thông trong cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, cho tới thời điểm này, các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam vẫn chưa thực sự phải đối mặt với cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp viễn thông nước ngoài. "Hiện cạnh tranh trong nước chính là bước tập dượt cho cạnh tranh nước ngoài và là giai đoạn quan trọng để các doanh nghiệp viễn thông Việt Nam từng bước tích tụ các nguồn lực, nâng cao năng lực cạnh tranh, vượt qua các rào cản, thách thức và chủ động đón bắt các vận hội của hội nhập kinh tế quốc tế" - ông Việt nói. Và thách thức cũng lắm Quả thực, khi kinh tế phát triển, nhu cầu thị trường về các dịch vụ bưu chính, viễn thông và CNTT tăng trưởng mạnh, thị trường tiềm năng để phát triển các dịch vụ mới rất lớn đã tạo cơ hội để các doanhnghiệp cung cấp dịch vụ bưu chính, viễn thông, CNTT phát triển các hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, theo ông Bùi Quốc Việt, trong những năm qua, thị trường viễn thông di động Việt Nam luôn duy trì mức tăng trưởng 160-170%/năm và được coi là thị trường đầy tiềm năng, thu hút sự chú ý của không ít các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là khi Việt Nam gia nhập WTO.

I. Khái niệm và phân loại môi trường hoạt động của tổ chức

1. Môi trường hoạt động của tổ chức

Môi trường là khái niệm dùng để chỉ các yếu tố, các lực lượng, các thể chế tồn tại bên ngoài của tổ chức mà các nhà quản trị khó hoặc không kiểm soát được chúng nhưng chúng lại ảnh hưởng đến hoạt động và kết quả hoạt động của tổ chức. Mục đích của việc nghiên cứu môi trường là để giúp đỡ những nhà quản trị có thể nhận diện được những cơ hội và các mối đe doạ mà môi trường có thể đem lại cho tổ chức.

2. Phân loại môi trường hoạt động của tổ chức

Gồm

- Môi trường vĩ mô (môi trường tổng quát)

_ Môi trường vi mô (môi trường đặc thù)

3. Môi trường vĩ mô :

* Đặc điểm :

_ Các yếu tố của môi trường vĩ mô thường tác động 1 cách gián tiếp đến hoạt động và kết quả hoạt động của tổ chức.

_ Các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực khác nhau có thể có chung 1 môi trường vĩ mô, cho nên người ta hay gọi môi trường này là môi trường tổng quát.

_ Các yếu tố của môi trường vĩ mô có mối quan hệ tương tác với nhau để cùng tác động lên 1 tổ chức.

* Các yếu tố cơ bản :

_ Kinh tế (là yếu tố quan trọng nhất)

_ Chính trị – chính phủ

_ Xã hội – dân cư

_ Tự nhiên

_ Kỹ thuật – công nghệ

4. Môi trường vi mô :

* Đặc điểm :

_ Các yếu tố của môi trường vi mô thường tác động 1 cách trực tiếp đến hoạt động vàa kết quả hoạt động của tổ chức.

_ Mỗi 1 tổ chức dường như có 1 môi trường vi mô đặc thù của mình.

_ Các yếu tố của môi trường vi mô thường đơn lẻ tác động đến mỗi tổ chức.

* Các yếu tố cơ bản :

_ Đối thủ cạnh tranh

_ Khách hàng

_ Người cung cấp

_ Đối thủ tiềm ẩn

_ Sản phẩm thay thế

_ Các nhóm áp lực

Những yếu tố môi trường vĩ mô

Yếu tố môi trường kinh tế vĩ mô

Môi trường kinh tế vĩ mô bao gồm các yếu tố nằm bên ngoài doanh nghiệp, chúng không chỉ định hướng và có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động quản trị của doanh nghiệp, mà còn ảnh hưởng cả tới môi trường vi mô bên ngoài và môi trường nội bộ bên trong doanh nghiệp. Các yếu tố này cũng là những nguyên nhân chính tạo ra cơ hội cũng như nguy cơ cho các hoạt động của nó. Nghiên cứu kỹ lưỡng các yếu tố môi trường kinh tế vĩ mô có vai trò khá quan trọng đối với các hoạt động quản trị cuả một doanh nghiệp. Nhìn chung chúng bao gồm từ các yếu tố sau:

(1) Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)

GDP tác động đến nhu cầu của gia đình, doanh nghiệp và Nhà nước. Một quốc gia có GDP tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên về nhu cầu, về số lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, tăng lên về chủng loại, chất lượng, thị hiếu ... dẫn đến tăng lên quy mô thị trường. Điều này đến lượt nó lại đòi hỏi các doanh nghiệp phải đáp ứng trong từng thời kỳ, nghĩa là nó tác động đến tất cả các mặt hoạt động quản trị như hoạch định, lãnh đạo, tổ chức, kiểm soát và ra các quyết định không chỉ về chiến lược và chính sách kinh doanh, mà cả về các hoạt động cụ thể như cần phải sản xuất hàng hóa, dịch vụ gì, cho ai, bao nhiêu và vào lúc nào.

Ở nước ta từ năm 1990 đến nay do sự tăng lên của GDP đã tác động mạnh mẽ đến cơ cấu tiêu dùng và mở ra nhiều cơ hội cho các nhà quản trị. Nhiều doanh nghiệp đã thành công nhờ đưa ra các hàng hóa dịch vụ phù hợp nhu cầu, thẩm mỹ, thị hiếu đang gia tăng của người tiêu dùng. Tuy nhiên một số doanh nghiệp không nhanh nhạy thích ứng với sự thay đổi này đã dẫn tới thua lỗ, phá sản. Nguy cơ và rủi ro cho một số doanh nghiệp không chỉ bắt nguồn từ sự thay đổi quá nhanh và mạnh mẽ mà còn cả từ sự không năng động và linh hoạt của các nhà quản trị trong việc không biết cách đáp ứng nhu cầu đã tăng lên và thay đổi nhanh chóng về các loại sản phẩm hàng hóa dịch vụ trong thời kỳ này.

(2) Yếu tố lạm phát

Yếu tố lạm phát tiền tệ cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc hoạch định chiến lược và sách lược kinh doanh. Nếu lạm phát gia tăng sẽ làm tăng giá cả yếu tố đầu vào kết quả dẫn tới sẽ là tăng giá thành và tăng giá bán. Nhưng tăng giá bán lại khó cạnh tranh. Mặt khác, khi có yếu tố lạm phát tăng cao, thì thu nhập thực tế của người dân lại giảm đáng kể và điều này lại dẫn tới làm giảm sức mua và nhu cầu thực tế của người tiêu dùng. Nói cách khác khi có yếu tố lạm phát tăng cao thì thường khó bán được hàng hóa dẫn tới thiếu hụt tài chính cho sản xuất kinh doanh, việc tổ chức thực hiện chiến lược kinh doanh khó thực thi được. Vì vậy việc dự đoán chính xác yếu tố lạm phát là rất quan trọng trong điều kiện nước ta hiện nay.

(3) Tỷ giá hối đoái và lãi suất cho vay

Cả hai yếu tố này cũng đều có tác động đến giá thành sản phẩm - dịch vụ của doanh nghiệp. Thường thì doanh nghiệp nào cũng có mối quan hệ trên thương trường quốc tế, nếu không là đầu tư với nước ngoài thì cũng phải mua nguyên vật liệu, hàng hóa hoặc máy móc từ nước ngoài. Tỷ giá hối đoái chiếm vị trí trung tâm trong những tác động lên các hoạt động này và nhất là nó ảnh hưởng trực tiếp đến giá thành và giá bán sản phẩm của doanh nghiệp. Vì thế, việc dự báo tỷ giá hối đoái là rất quan trọng trong việc hoạch định và tổ chức thực hiện các hoạt động quản trị kinh doanh nói chung và các chiến lược cùng sách lược quản trị kinh doanh nói riêng.

Yếu tố lãi suất cho vay của ngân hàng cũng có ảnh hưởng đáng kể đến các hoạt động quản trị ở mỗi doanh nghiệp. Trên thực tế các doanh nghiệp thường đi vay thêm vốn ở ngân hàng để mở rộng sản xuất hoặc sử dụng trong việc mua bán, do đó lãi suất cho vay cao hay thấp sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các yếu tố đầu vào, đầu ra ở mỗi doanh nghiệp. Điều này cũng có nghĩa là ảnh hưởng của lãi suất cho vay đến giá thành, giá bán và tác động đến sức mua thực tế về hàng hóa cùng dịch vụ của doanh nghiệp, có tác động rất lớn đến việc hoạch định và thực thi các chiến lược và chính sách quản trị kinh doanh. Chính vì vậy mà khi vạch ra một chiến lược quản trị kinh doanh, đặc biệt là chiến lược quản trị tài chính, doanh nghiệp thường lưu ý đến yếu tố này.

(4) Tiền lương và thu nhập

Chi phí về tiền lương là một khoản chi phí rất lớn ở hầu hết mọi doanh nghiệp, nó ảnh hưởng đến chi phí sản xuất, chi phí kinh doanh của các đơn vị này. Chi phí tiền lương càng cao thì giá thành sẽ càng tăng, dẫn đến những bất lợi cho doanh nghiệp trong vấn đề cạnh tranh. Mức lương quá thấp lại không khuyến khích người lao động nhiệt tình làm việc. Một chính sách về tiền lương đúng đắn có ảnh hưởng rất lớn đến thái độ, động cơ, tinh thần làm việc của người lao động. Các hoạt động về quản trị trong mỗi tổ chức chỉ thực sự có hiệu lực và hiệu quả khi quyền lợi vật chất của những người tham gia vào quá trình này được bảo đảm. Điều này cũng giải thích vì sao Đảng và Nhà nước ta rất chăm lo giải quyết vấn đề chính sách lương bổng nhằm vừa bảo đảm mức sống sự công bằng và đảm bảo khuyến khích các hoạt động sản xuất kinh doanh phát triển.

So với mức lương của người lao động ở các nước phát triển thì mức lương ở nước ta và các nước chưa phát triển khác là khá thấp. Các nhà đầu tư nước ngoài thường đầu tư ở các nước mới phát triển, trong đó có nước ta, do giá nhân công ở các nước này rẻ, làm giảm chi phí sản xuất, dẫn đến giá thành giảm, nâng cao khả năng tăng lợi nhuận của họ. Các hoạt động về đầu tư đến lượt nó lại tạo ra một môi trường kinh doanh cũng như quản trị kinh doanh thuận lợi và mở ra nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp trong và ngoài nước.

Yếu tố môi trường văn hóa - xã hội

(a) Dân số

Để sản xuất hay kinh doanh, các nhà quản trị cần phải sử dụng đến nguồn nhân lực, để bán được hàng họ cần đến khách hàng. Để hoạch định chiến lược phát triển của mỗi công ty, người ta phải xuất phát từ cả hai yếu tố ảnh hường này. Nói một cách khác, dân số và mức gia tăng dân số ở mỗi thị trường, ở mỗi quốc gia luôn luôn là lực lượng có ảnh hưởng rất lớn đến tất cả mọi hoạt động về quản trị sản xuất và quản trị kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp.

Thông thường các nhà quản trị phải phân tích cơ cấu dân số trên cơ sở giới tính, tuổi tác để phân khúc và xác định thị trường mục tiêu, phải xác định được nhu cầu thực tế về sản phẩm hàng hoá của mình và dựa vào đó để quyết định kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp.

Sự dịch chuyển dân số từ vùng này sang vùng khác; từ địa phương này sang địa phương khác cũng là những yếu tố tác động đến các hoạt động hoạch định về các chiến lược và chính sách quản lý nguồn nhân lực, chiến lược thị trường và các chiến lược sản xuất kinh doanh hỗ trợ khác trong vùng không gian kinh doanh hiện có. Chẳng hạn sự di chuyển dân cư từ nông thôn ra thành thị nhanh đã làm bùng nổ các nhu cầu nhà ớ, mở rộng đường xá, các hàng hóa tiêu dùng v.v... Chính những điều này đến lượt nó lại buộc các nhà hoạch định chiến lược và chính sách kinh doanh phải có những chủ trương và chính sách kinh doanh cho phù hợp.

(2) Văn hóa

Văn hóa là một phạm trù phức tạp với nhiều định nghĩa khác nhau. Ở đây, chúng ta xem văn hóa như một hiện tượng tồn tại khách quan trong xã hội loài người. Mỗi con người, mỗi nhà quản trị, mỗi tổ chức đều thuộc về một nền văn hóa cụ thể. Dưới ảnh hưởng của mỗi nền văn hoá, nhân cách, đạo đức, niềm tin, thái độ, hệ thống các giá trị.v.v. ở mỗi người được hình thành và phát triển. Như vậy văn hóa quản trị nói chung và phong cách cùng phương pháp quản trị ở mỗi doanh nghiệp nói riêng sẽ bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những nền văn hóa mà những nhà quản trị của họ thuộc về các nền văn hóa đó. Qua nghiên cứu, người ta cũng thấy rằng, văn hóa là một trong những yếu tố chủ yếu tác động, chi phối hành vi ứng xứ của người tiêu dùng, chi phối hành vi mua hàng của khách hàng. Thêm vào đó, tình cảm gia đình, sự hiểu biết xã hội, trình độ học vấn ... vẫn là điều xuất phát khi mua sắm hàng hóa - dịch vụ, nghĩa là chi phối việc soạn thảo chiến lược và sách lược kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp cụ thể.

Trong mỗi nền văn hóa lại có các nhánh văn hóa.Ví dụ trong nền văn hóa của người Việt Nam chúng ta thấy có nhánh văn hóa của người dân tộc thiểu số, nhánh văn hóa của người miền Nam, nhánh văn hóa của người miền Trung và nhánh văn hóa của người miền Bắc.v.v. Sự hiện diện của các nhánh văn hóa cũng có những ảnh hưởng khá sâu sắc tới các hoạt động về quản trị trên cả ba phương diện nhà quản trị, đối tượng quản trị và môi trường quản trị.

Thí dụ Việt Nam có 7 vùng (nhánh ) văn hóa và 25 tiểu vùng. Mỗi vùng có một tập quán riêng, cảm nhận cái đẹp khác nhau, dẫn đến thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Đây là một vấn đề cần lưu ý đối với các quản trị gia khi tuyển và sử dụng nhân viên cũng như khi việc hoạch định và thực hiện các chính sách kinh doanh trong các vùng và tiểu vùng văn hóa đó.

(3) Nghề nghíệp

Chuyên môn hóa và hợp tác hóa lao động xã hội là một qui luật tất yếu trong quá trình phát triển của mỗi nước, mỗi khu vực và trên toàn thế giới. Ở nơi nào nền kinh tế xã hội phát triển mạnh mẽ thì trình độ chuyên môn hóa lao động và hợp tác hóa lao động càng cao và ngược lại.Điều này cũng có nghĩa là xã hội ngày càng phát triển thì tính chuyên môn hóa và đa dạng hóa về nghề nghiệp ngày càng mạnh. Nghề nghiệp khác nhau sẽ dẫn đến những đòi hỏi về phương tiện và công cụ lao động chuyên biệt khác nhau Ngoài ra do ngành nghề khác nhau mà những nhu cầu tiêu dùng về ăn ở đi lại vui chơi giải trí.v.v. cũng khác nhau. Để đáp ứng các nhu cầu khác nhau về nghề nghiệp trong xã hội, các nhà quản trị ở mỗi doanh nghiệp phải tính đến toàn bộ những ảnh hưởng của các yếu tố vừa nêu đến việc hoạch định và thực hiện các chiến lược và sách lược kinh doanh của mình.

(4) Tâm lý dân tộc

Tình cảm quê hương, tình yêu đất nước, lòng tự hào dân tộc, ý chí ngoan cường, tính hiếu học, lòng nhân nghĩa vị tha... luôn luôn là những yếu tố tinh thần thuộc về tâm lý dân tộc. Chúng có ảnh hưởng rất lớn không chỉ đến cách suy nghĩ và hành động của mỗi nhà quản trị cũng như của mỗi con người bị quản trị, mà nó còn có ảnh hưởng sâu sắc đến phong cách tiêu dùng, ảnh hưởng đến sự hình thành các khúc thị trường khác nhau và chính những điều này buộc các nhà quản trị phải cân nhắc, tính toán trong các quyết định quản trị kinh doanh của mình.

Thí dụ nước ta có 54 dân tộc, qui mô dân số mỗi dân tộc khác nhau, quan điểm tiêu dùng của mỗi dân tộc cũng khác nhau và nhu cầu tiêu dùng cũng có những điểm khác nhau. Tất cả những yếu tố này đòi hỏi các doanh nghiệp phải soạn thảo các chiến lược sản xuất kinh doanh khác nhau cho phù hợp với tâm lý, thị hiếu của các dân tộc anh em đó.

(5) Phong cách và lối sống

Xã hội là bức tranh muôn màu do các cá thể với các phong cách và lối sống khác nhau tạo nên. Dẫu không có hai người cùng giống nhau tuyệt đối về một phong cách hay lối sống, nhưng nhìn chung, ở bất cứ đâu, bất cứ thời điểm nào cũng tồn tại những phong cách và lối sống tiêu biểu cho nơi đó hay thời điểm đó. Mỗi phong cách và lối sống lại có những đặc trưng riêng của mình về cách mỗi cá thể suy nghĩ, hành động và thể hiện ra thế giới bên ngoài. Chính điều này đến lượt nó lại chi phối rất mạnh đến việc hình thành những nhu cầu về chủng loại, chất lượng, số lượng, hình dáng, mẫu mã... của hàng hóa, dịch vụ đặc trưng cho các phong cách và lối sống đó. Như vậy muốn kinh doanh có hiệu quả, các nhà quản trị không thể không điều chỉnh các hoạt động của mình phong cách và lối sống của xã hội đương thời và xã hội tương lai sắp đến.

Thí dụ phong cách sống của phụ nữ phương Tây khác phụ nữ Việt Nam đã dẫn đến sự tiêu dùng hàng hóa dịch vụ khác nhau và điều này lại buộc các nhà quản trị phải hoạch định và thực hiện các chiến lược về hàng hóa và dịch vụ khác nhau cho hai loại đối tượng đó.

(6) Hôn nhân và gia đình

Hôn nhân và gia đình trong cuộc sống của mỗi con người có một vị trí và vai trò hết sức quan trọng. Hôn nhân và gia đình là qui luật tất yếu và muôn thuở của xã hội loài người. Mỗi gia đình là một tế bào của xã hội và chính điều này nói lên sự gắn bó chặt chẽ giữa các hoạt động quản trị và các nhà quản trị với hôn nhân và gia đình của mình. Không thể có một nhà quản trị nào yên tâm làm việc, nếu gia đình nhà mình có vấn đề bất ổn. Không có người nhân viên nào toàn tâm toàn ý để làm việc có hiệu quả nếu cuộc sống trong gia đình của họ không được bảo đảm v.v... Tất cả những điều này nói lên rằng, hôn nhân và gia đình có ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất, chất lượng và hiệu quả của mọi người, từ giám đốc cho đến một người công nhân lao động bình thường trong mỗi doanh nghiệp.

Hôn nhân và gia đình không chỉ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các nhà quản trị ở mỗi doanh nghiệp mà nó cũng còn có những ảnh hưởng rất sâu sắc tới việc hình thành nhiều loại nhu cầu trong xã hội như: nhà ở, ti vi, máy giặt, giường tủ, bàn ghế v.v... và các mặt hàng khác có liên quan đến các hộ gia đình. Các nhà quản trị khi vạch ra và tổ chức thực hiện các chiến lược và sách lược kinh doanh càng không được phép bỏ qua tác động của những yếu tố này trong các hoạt động của mình.

Thí dụ tỉ lệ hôn nhân gia tăng sẽ có ảnh hưởng đến nhu cầu về nhà ở. Qui mô của các hộ gia đình có ảnh hưởng đến nhu cầu về kích cỡ của các loại tivi, dung tích của các loại tủ lạnh v.v...

(7) Tôn giáo

Tôn giáo ra đời từ rất sớm trong lịch sử phát triển của loài người. Ngày nay có rất nhiều loại tôn giáo trên thế giới, tuy nhiên chỉ tính số lượng các tín đồ của ba loại tôn giáo chủ yếu là: đạo Thiên chúa, đạo Phật và đạo Hồi thì chúng ta đã thấy một con số rất khổng lồ. Mỗi tôn giáo đều có những quan niệm, niềm tin và thái độ riêng về cuộc sống, về cách cư xử giữa các tín đồ với nhau và với mọi người. Tôn giáo có ảnh hưởng rất lớn tới đạo đức, tư cách, văn hóa và lối sống của không chỉ chính bản thân của các nhà quản trị mà cả tới những cán bộ công nhân viên dưới quyền quản lý của họ. Các hoạt động lãnh đạo và điều hành của các nhà quản trị không thể không tính tới ảnh hưởng của yếu tố tôn giáo trong nhận thức, ứng xử, chấp hành và thực thi các quyết định của những người dưới quyền. Không chỉ có vậy chúng ta còn thấy rằng, tâm lý của người tiêu dùng cũng không nằm ngoài những ảnh hưởng rất sâu sắc của tôn giáo. Ngày rằm người dân theo đạo Phật ăn chay, tránh việc sát sinh và mua nhiều loại đồ thơ cúng, người dân theo đạo Hồi kiêng ăn và sử dụng những thứ hàng hóa từ lợn và thịt lợn, người dân theo đạo Thiên chúa mua sắm rất nhiều loại hàng hóa để tổ chức ngày lễ Giáng sinh v.v... Tất cả những điều này ảnh hưởng rất lớn đến việc hoạch định và thực hiện các chủ trương chính sách kinh doanh của các nhà quản trị. Những ai nhanh nhạy, hiểu biết sâu sắc về tôn giáo thì đều có thể tìm ra những cơ hội trong các hoạt động quản trị kinh doanh của mình.

Các yếu tố chính trị, pháp luật, lãnh đạo và quản lý của Nhà nước

Thập kỷ 80-90 có nhiều sự biến động cả về chính trị lẫn kinh tế trên thế giới. Một qui luật được thấy rất rõ trong thời kỳ này là: sự định hướng đúng đắn và sự ổn định về chính trị là những điều kiện cần thiết khách quan để phát triển toàn bộ nền kinh tế ở mỗi nước và ở mỗi doanh nghiệp. Chúng ta đã từng thấy các chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước về khoán 10, về phát triển kinh tế thị trường có định hướng XHCN, về phát triển kinh tế tư bản, tư nhân v.v... là những đòn bẩy tạo đà cho sự phát triển rất mạnh mẽ của các doanh nghiệp ngày nay. Nói một cách khác, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội có những ảnh hưởng gián tiếp hoặc trực tiếp rất lớn đến toàn bộ tiến trình kinh doanh và quản trị kinh doanh ở mọi doanh nghiệp.

Đối với các hoạt động về quản trị kinh doanh ở các doanh nghiệp, Chính phủ đóng vai trò khá quan trọng: vừa có thể thúc đẩy vừa có thể hạn chế việc kinh doanh. Chính phủ có thể thúc đẩy bằng cách khuyến khích việc mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua việc trợ cấp cho các ngành công nghiệp được lựa chọn, ưu tiên về thuế trong những hoàn cảnh nhất định, bảo vệ một vài ngành kinh doanh thông qua những biểu thuế suất đặc biệt, hay bằng cách trợ giúp việc nghiên cứu và triển khai.

Nhà nước cũng có thể hạn chế và điều chỉnh việc kinh doanh thông qua các bộ luật, nghị định, thông tư và các quyết định như bộ Luật Lao Động, Luật Thương Mại, Luật Doanh Nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thuế xuất nhập khẩu, Luật Bảo Vệ Môi Trường v.v... Các chính sách về lương bổng, tài chính, tiền tệ (chính sách quản lý tiền mặt, chế độ thu chi và sử dụng ngân sách, cán cân thanh toán, nguồn cung cấp tiền, việc kiểm soát về khả năng tín dụng thông qua chính sách tài chính) đều có những ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động về kinh doanh nói chung và quản trị kinh doanh nói riêng ở tất cả mọi doanh nghiệp.

Trong những ảnh hưởng từ chính sách của nhà nước, thì các chính sách về thuế có ảnh hưởng trực tiếp nhiều nhất đến việc cân đối thu chi, lời lỗ và chính sách kinh doanh ở mỗi doanh nghiệp. Mọi hoạt động về quản trị nói chung và quản trị tài chính nói riêng ở mỗi doanh nghiệp đầu bị chi phối không trực tiếp thì gián tiếp từ các chính sách về thuế của nhà nước. Thí dụ như nếu các khoản thuế về lợi nhuận kinh doanh quá cao, thì sự khuyến khích đi vào kinh doanh hoặc tiếp tục kinh doanh sẽ có xu thế giảm xuống, và những nhà đầu tư sẽ tìm kiếm chỗ khác để họ đầu tư. Nếu các khoản thuế được đánh vào việc bán hàng, thì giá cả sẽ tăng lên và dân chúng sẽ có xu hướng mua ít đi, điều này cũng có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy công việc quản trị kinh doanh ở các doanh nghiệp cần phải chấp hành đầy đủ các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước và nghiêm chỉnh tuân thủ những quy định hiện hành của pháp luật là một đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan.

Yếu tố tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ

Kinh doanh là tìm cách thỏa mãn nhu cầu của thị trường, nhưng nhu cầu của thị trường lại thay đổi liên tục cho nên các nhà doanh nghiệp phải thường xuyên áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới để đáp ứng được tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Ngày nay không có một doanh nghiệp sản xuất nào muốn tồn tại và phát triển lại không dựa vào việc áp dụng những thành tựu tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và công nghệ. Khoa học kỹ thuật và công nghệ càng tinh vi thì càng cho phép các nhà doanh nghiệp sản xuất được nhiều loại hàng hóa phù hợp hơn với những nhu cầu của con người hiện đại. Công nghệ thường xuyên biến đổi, công nghệ tiên tiến liên tục ra đời, chúng tạo ra các cơ hội cũng như nguy cơ rất lớn cho các doanh nghiệp. Nhìn chung những tiến bộ của khoa học - kỹ thuật và công nghệ thể hiện tập trung ở những phương diện sau:

- Lượng phát minh sáng chế và cải tiến khoa học kỹ thuật tăng lên nhanh chóng

- Bùng nổ về cuộc cách mạng về thông tin và truyền thông;

- Rút ngắn thời gian ứng dụng của các phát minh sáng chế;

- Xuất hiện nhiều loại máy móc và nguyên liệu vật liệu mới với những tính năng và công dụng hoàn toàn chưa từng có trước đây;

- Xuất hiện nhiều loại máy móc và công nghệ mới có năng suất chất lượng cũng như tính năng và công dụng hiệu quả hơn;

- Chu kỳ đổi mới công nghệ ngày càng ngắn hơn, tốc độ chuyển giao công nghệ ngày càng nhanh và nạnh hơn;

- Vòng đời sản phẩm của doanh nghiệp ngày càng ngắn hơn;

- Trình độ tự động hóa, vi tính hóa, hóa học hóa và sinh học hóa trong tất cả các khâu sản xuất, phân phối lưu thông và quản lý ngày càng cao hơn;

- Các loại hàng hóa mới thông minh ngày càng xuất hiện nhiều hơn;

- Các phương tiện truyền thông và vận tải ngày càng hiện đại và rẻ tiền hơn dẫn tới không gian sản xuất và kinh doanh ngày càng rộng lớn hơn.

Ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ là vô cùng phong phú và đa dạng, chúng ta có thể kể ra rất nhiều ảnh hưởng của tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ nữa, nhưng điều quan trọng cần phải nhận thức được là các nhà quản trị thuộc mọi tổ chức nói chung và trong từng doanh nghiệp nói riêng đều cần phải tính tới ảnh hường của các yếu tố này trong các mặt hoạt động của mình. Sẽ là một sai lầm lớn, nếu trong kinh doanh mà các nhà quản trị không hoạch định được một chiến lược đúng đắn về kỹ thuật và công nghệ trong từng thời kỳ để sản xuất ra các loại sản phẩm tương ứng với thị trường. Thực tế đang chứng tỏ rằng, nhà doanh nghiệp nào nắm bắt nhanh nhạy và áp dụng kịp thời những thành tựu tiến bộ như vũ bão của khoa học kỹ thuật thì người đó sẽ thành công.

Yếu tố thiên nhiên

Thiên nhiên là thế giới xung quanh cuộc sống của chúng ta, là khí hậu, thủy văn, địa hình, rừng núi, sông ngòi, hệ động thực vật, tài nguyên khoáng sản thiên nhiên v.v...Dưới con mắt của các nhà quản trị đó là những lực lượng và các yếu tố có sự ảnh hưởng rất sâu sắc tới cuộc sống của mọi con người trên trái đất này. Chẳng hạn nếp sống, sinh hoạt và nhu cầu về hàng hóa của người dân vùng ôn đới chịu những ảnh hưởng sâu sắc từ điều kiện khí hậu lạnh giá của họ và đến lượt mình các nhà quản trị phải biết những đặc thù về những thứ hàng hóa dành cho người dân xứ lạnh để hoạch định chính sách kinh doanh cho phù hợp. Ở nước ta hàng năm có từ 10 -13 cơn bão nhiệt đới tràn qua và ai cũng biết rằng bão, lụt thường có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống sinh hoạt và làm ăn của tất cả mọi người. Cha ông ta thường coi lũ lụt là giặc thủy bởi sức tàn phá ghê gớm của nó. Chính vì vậy các nhà quản trị không thể không tính tới ảnh hưởng của bão, lũ, lụt trong các hoạt động kinh doanh của mình.

Thiên nhiên không phải là lực lượng chỉ gây ra tai họa cho con người, thiên nhiên là cái nôi của cuộc sống. Đối với nhiều ngành công nghiệp thì tài nguyên thiên nhiên như các loại khoáng sản, nước ngầm, lâm sản, hải sản v.v... là nguồn nguyên liệu cần thiết cho công việc sản xuất , kinh doanh của nó.

Bảo vệ, phát triển và khai thác hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên đang là một yêu cầu cấp bách, bức xúc tất yếu khách quan trong hoạt động của tất cả mỗi nhà quản trị. Áp lực bảo vệ môi trường sạch và xanh, phong trào chống lãng phí trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên sẽ là những yếu tố càng ngày càng trở nên quan trọng và có ảnh hưởng ngày càng lớn hơn đến những quyết định của hệ thống quản trị trong mỗi tổ chức.

Tóm lại: Các yếu tố môi trường vĩ mô gồm nhóm các yếu tố môi trường kinh tế, nhóm các yếu tố môi trường xã hội, nhóm các yếu tố môi trường chính phủ, yếu tố công nghệ và yếu tố tự nhiên; các nhóm yếu tố này có quan hệ với nhau gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất kinh doanh.

Vì vậy khi nói đến quá trình quản trị sản xuất kinh doanh, quản trị gia phải dự báo chính xác các yếu tố môi trường vĩ mô, để có thể đề ra một chiến lược phù hợp giúp doanh nghiệp tồn tại và phát triển.

Phân tích môi trường bên ngoài và môi trường bên trong của doanh nghiệp

4/5 (29 đánh giá) 9 bình luận

Việc nghiên cứu, phân tích môi trường bên trong và bên ngoài doanh nghiệp sẽ giúp tìm ra được điểm mạnh, điểm yếu khi phân tích môi trường kinh doanh; cơ hội và thách thức từ các yếu tố khách quan mang lại, từ đó đưa ra các quyết định kinh doanh đúng đắn.