Môn học Ngữ văn có vai trò như thế nào trong việc phát triển phẩm chất, năng lực người học

✅ Đáp án trắc nghiệm tập huấn Mô đun 1 môn Ngữ Văn

Môn Ngữ Văn và sự phát triển năng lực người học


  • 08:39 08/11/2019
  • 20413 lượt xem
  • Tác giả: TS. Nguyễn Xuân Lạc

Môn học Ngữ văn có vai trò như thế nào trong việc phát triển phẩm chất, năng lực người học
Nghị quyết về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục – đào tạo của Đảng (tháng 9/2013) đã mở ra một thời kì mới cho việc dạy – học trong trường phổ thông ở nước ta: nhấn mạnh đến việc phát triển năng lực của người học hơn là cung cấp tri thức cho họ. Với môn Ngữ văn, đó là những năng lực gì, và để phát triển tốt những năng lực đó cho người học, cần phải dạy – học như thế nào?

Môn học Ngữ văn có vai trò như thế nào trong việc phát triển phẩm chất, năng lực người học
Ảnh minh hoạ bài viết. Nguồn Internet

MÔN NGỮ VĂN CẦN PHÁT TRIỂN NHỮNG NĂNG LỰC GÌ CỦA NGƯỜI HỌC?

Trước hết cần lưu ý một điều: Đây là môn Ngữ văn chứ không phải môn Văn (Văn chỉ là một phân môn như một thành tố để cấu thành môn Ngữ văn). Ngữ văn đã thành một môn học chính thức trong chương trình giáo dục phổ thông ở nước ta khoảng 20 năm nay, và sắp tới, trong chương trình giáo dục phổ thông mới, nó vẫn giữ nguyên vị trí ấy ở bậc học THCS và THPT. Vì vậy, chúng ta cần chỉ ra các năng lực cần phát triển qua môn Ngữ văn chứ không phải chỉ qua môn Văn.

Đặc trưng của môn Ngữ văn là gì? Ngữ văn là môn học được tích hợp từ ba phân môn Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn (trước đó ba phân môn này là ba môn độc lập, có SGK riêng) gồm hai phần ngữvăn gắn bó với nhau, bởi "ngôn ngữ là chất liệu làm nên văn học và văn học chính là nghệ thuật của ngôn ngữ". Là môn học tích hợp, nhưng về cơ bản nó vẫn là môn học nghệ thuật (Văn vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất), đồng thời nó lại là môn học thực hành (Tập làm văn được học bài bản và hệ thống). Trên đại thể, có thể xem Ngữ văn là môn học về Cái Đẹp với hai khâu liên hoàn: cảm thụ Cái Đẹp trong văn chương (Văn), ngôn ngữ (Tiếng Việt) để tạo lập ra Cái Đẹp trong văn bản nói và viết (Tập làm văn). Đó chính là sợi dây liên kết gắn bó giữa môn học nghệ thuật và môn học thực hành trong môn Ngữ văn với hai hoạt động chủ yếu: đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản.

Như vậy, với những đặc trưng trên đây, môn Ngữ văn sẽ hình thành và phát triển hai năng lực quan trọng cho thế hệ trẻ: năng lực thẩm mĩ năng lực ngôn ngữ. Năng lực thẩm mĩ là năng lực khám phá Cái Đẹp trong văn chương và trong tiếng Việt để thưởng thức chúng; còn năng lực ngôn ngữ là năng lực làm chủ được tiếng Việt, biết sử dụng tiếng Việt một cách thuần thục để tạo lập văn bản (nói và viết) giúp cho việc diễn đạt, giao tiếp đạt hiệu quả. Hai năng lực này không tách rời nhau, mà có mối quan hệ gắn bó, tương hỗ để cùng phát triển… Ngữ văn không chỉ là môn học thực hành bình thường mang ý nghĩa tự thân mà nó còn có thêm yêu cầu hỗ trợ cho các môn khác trong việc diễn đạt để trở thành môn công cụ (giống như Toán là môn công cụ để hỗ trợ cho việc tính toán). Đây là môn học có nhiều khả năng và ưu thế nhất trong việc hình thành và phát triển hai năng lực này của người học.

1. Năng lực thẩm mĩ

Ở môn Ngữ văn, năng lực thẩm mĩ gồm hai năng lực nối tiếp nhau trong quá trình tiếp xúc với vẻ đẹp của tác phẩm văn chương và tiếng Việt: năng lực khám phá Cái Đẹp và năng lực thưởng thức Cái Đẹp. Năng lực khám phá Cái Đẹp lại gồm năng lực phát hiện Cái Đẹp và những rung động thẩm mĩ. Cái Đẹp nghệ thuật thường không bộc lộ ngay, mà nhiều khi lại được ẩn giấu trong hình tượng bằng lời, tác phẩm văn chương lại thường có tính đa nghĩa và tính mơ hồ, nên phải có con mắt tinh tường trên cơ sở những rung động thẩm mĩ mạnh mẽ thì mới phát hiện được. Còn năng lực thưởng thức Cái Đẹp chính là năng lực cảm thụ Cái Đẹp và đánh giá Cái Đẹp ấy. Khi đó, người đọc sẽ sống cùng tác phẩm văn chương và chuyển hóa Cái Đẹp của tác phẩm thành Cái Đẹp trong lòng mình, thành tài sản tinh thần của mình. Đó là quá trình "đồng sáng tạo" cùng tác giả để tạo ra những "dị bản" trong lòng người đọc. Và từ Cái Đẹp của nghệ thuật mà họ nhận ra Cái Đẹp trong cuộc sống của con người: đây chính là sự đánh giá Cái Đẹp đúng đắn nhất, và sự đánh giá này là điều không thể thiếu trong năng lực thẩm mĩ của người học để họ chiếm lĩnh được Cái Đẹp ấy. Như vậy, trong năng lực thẩm mĩ có cả yếu tố cảm xúc (rung động thẩm mĩ) và yếu tố lí trí (nhận xét, đánh giá,…); hai yếu tố này thường gắn bó, hòa quyện với nhau trong quá trình người học tiếp xúc với vẻ đẹp của văn chương và tiếng Việt. Phát triển năng lực thẩm mĩ ở đây chính là bồi dưỡng cho thế hệ trẻ về cả hai mặt cảm xúc và lí trí qua các khâu phát hiện Cái Đẹp, cảm thụ Cái Đẹp, đánh giá Cái Đẹp,…

2. Năng lực ngôn ngữ

Năng lực ngôn ngữ của học sinh trung học gồm ba năng lực chủ yếu sau đây: năng lực làm chủ ngôn ngữ (tiếng Việt); năng lực sử dụng ngôn ngữ (tiếng Việt) để giao tiếp; năng lực sử dụng ngôn ngữ (tiếng Việt) để tạo lập văn bản. Năng lực làm chủ ngôn ngữ đòi hỏi học sinh phải có một vốn từ ngữ nhất định, hiểu và cảm nhận được sự giàu đẹp của tiếng Việt, nắm được các quy tắc về từ ngữ, ngữ pháp, chính tả để sử dụng tốt tiếng Việt. Năng lực giao tiếp ngôn ngữ đòi hỏi học sinh phải biết sử dụng thuần thục tiếng mẹ đẻ (tiếng Việt) để giao tiếp trong nhiều tình huống khác nhau với những đối tượng khác nhau trong gia đình, nhà trường và xã hội. Năng lực sử dụng ngôn ngữ để tạo lập văn bản là một năng lực đặc trưng rất quan trọng của năng lực ngôn ngữ học sinh trong nhà trường. Bởi mục đích cuối cùng của nó là để tạo ra được những văn bản chuẩn mực và đẹp. Đó là những văn bản nghị luận (gồm nghị luận chính trị xã hội và nghị luận văn học), những văn bản nghệ thuật (kể chuyện, tả cảnh, tả người,…) và những văn bản khác (viết báo, viết đơn, làm báo cáo,…). Để tạo lập được các văn bản trên, học sinh phải biết tạo lập ý, sắp xếp ý thành dàn bài, và viết thành bài văn hoàn chỉnh. Điều này không dễ chút nào, bởi trong thực tế vẫn còn có những sinh viên khi ra trường không viết nổi một cái đơn xin việc!? Xem thế mới biết việc bồi dưỡng và phát triển năng lực ngôn ngữ cho học sinh ở bậc học THCS và THPT là cần thiết đến thế nào.

DẠY – HỌC NGỮ VĂN ĐỂ PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGƯỜI HỌC

Đây là cách dạy - học Ngữ văn tiên tiến, hiện đại, nang ý nghĩa đổi mới - cách mạng so với cách dạy - học Ngữ văn truyền thống trước đây, nhằm phát triển năng lực người học là chủ yếu: năng lực thẩm mĩ và năng lực ngôn ngữ. Vậy phải dạy và học như thế nào để phát triển tốt nhất hai năng lực đó? Đây là một vấn đề mới và khó, chúng tôi xin được nêu lên một vài suy nghĩ bước đầu mong góp một tiếng nói vào công cuộc đổi mới phương pháp dạy - học Ngữ văn hiện nay.

1. Phát triển năng lực thẩm mĩ (Chủ yếu qua môn Văn)

Cách dạy - học truyền thống là cung cấp kiến thức văn học, và cao hơn ở những giáo viên giỏi, có thể đem đến Cái Đẹp của tác phẩm văn chương, nhưng dường như tất cả đều được rót từ phía giáo viên xuống cái bình chứa học sinh, người học chỉ tiếp nhận một cách thụ động, thế thì làm sao có thể phát triển năng lực thẩm mĩ được? Chỉ khi nào người học tự khám phá ra Cái Đẹp, biết thưởng thức và nhất là biết đánh giá Cái Đẹp trong tác phẩm văn chương thì khi đó mới được xem là họ đã có năng lực thẩm mĩ. Muốn đạt được điều đó, phải có sự kết hợp hài hòa, nhuần nhị giữa hai khâu dạy và học: người học phải chủ động đến với tác phẩm để tự tìm ra Cái Đẹp cho riêng mình, người dạy phải tạo ra những điều kiện tốt nhất để người học tiếp cận và chiếm lĩnh Cái Đẹp.

Vậy thì, người giáo viên phải dạy - học môn Ngữ văn như thế nào để phát triển năng lực thẩm mĩ cho học sinh? Trong bước chuẩn bị bài ở nhà, cần trang bị cho học sinh một số thao tác cần thiết để tiếp cận vẻ đẹp của tác phẩm văn chương (ví như: muốn phát hiện Cái Đẹp, cần chú ý những điều gì trong tình huống truyện, tính cách nhân vật,… trong hình tượng thơ và ngôn ngữ thơ,…; tại sao tác giả lại dùng thể loại này mà không dùng thể loại khác; những lời nói, câu văn hàm súc ẩn chứa chủ đề của tác phẩm, v.v…). Đến bước dạy - học trên lớp, người giáo viên phải tạo ra được cái không khí của tác phẩm để lôi kéo học sinh vào thế giới nghệ thuật, từ đó từng bước dẫn dắt để họ tự tìm ra Cái Đẹp. Chỉ khi nào họ tự mở lòng ra thực sự rung cảm trước Cái Đẹp thì lúc đó họ mới đến được với tác phẩm văn chương. Vì vậy, người giáo viên phải biết cách giúp các em mở lòng ra để đến với Cái Đẹp ấy: đó là thiên chức cao cả nhất cũng là tài nghệ cần phải có của việc dạy - học Văn. Khi đó, giờ Văn sẽ tạo được một sự đồng cảm - nghệ thuật giữa thầy - trò - tác phẩm để có thể tạo ra sự đồng sáng tạo cùng tác giả.

Những giờ Văn trên lớp chính là môi trường và cơ hội tốt nhất để học sinh được rèn luyện và phát triển năng lực thẩm mĩ. Khi đó, họ được tắm mình trong không khí của văn chương, của Cái Đẹp, của những rung động thẩm mĩ và được bàn bạc, đánh giá Cái Đẹp cùng với các bạn, với thầy. Góp gió thành bão, 7 năm trung học, khoảng gần 400 giờ Văn như thế, chắc chắn năng lực thẩm mĩ sẽ được phát triển. Chỉ cần trong dạy-học Văn, người dạy cần hướng vào người học là chủ yếu chứ không phải hướng vào tác phẩm hay văn bản như cách dạy truyền thống trước đây; còn người học phải chủ động đến với tác phẩm như một nhu cầu thẩm mĩ không thể thiếu của mình để có thể tạo ra sự hứng thú và niềm say mê trong việc học tác phẩm văn chương.

Ngoài ra, hai môn Tiếng Việt và Tập làm văn còn có thể kết hợp với môn Văn hoặc hỗ trợ cho môn Văn để phát triển năng lực thẩm mĩ cho người học.

2. Phát triển năng lực ngôn ngữ

Môn Văn cũng có vai trò nhất định trong việc phát triển năng lực ngôn ngữ cho người học, nhưng đảm trách việc này chủ yếu là ở hai môn Tiếng Việt và Tập làm văn. Môn Tiếng Việt giúp học sinh làm chủ được tiếng mẹ đẻ để sử dụng thành thạo trong giao tiếp, còn môn Tập làm văn là nơi các em vận dụng ngôn ngữ để tạo lập các văn bản. Hai môn này gắn bó, hỗ trợ nhau trong nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ cho người học là rất thuận lợi. Nhưng thực tế nhiều năm qua, hiệu quả lại không đạt được mà có chiều hướng ngược lại. Đó là do chương trình còn tham, sách giáo khoa viết chưa tốt, cách dạy chưa đúng. Cách dạy Tiếng Việt còn mang tính hàn lâm, tham lam, ôm đồm, thậm chí rối rắm, phức tạp hóa, học sinh không "tải" được nên cũng không "tiêu" được, không ít em lại "sợ" môn Tiếng Việt, "sợ" học tiếng mẹ đẻ (?!) và sợ nhất là "phong ba bão táp không bằng ngữ pháp Việt Nam" (?!). Trong khi đó, cách dạy Tập làm văn lại khô cứng, máy móc, rập khuôn, như chỉ để tạo ra những người "thợ viết" vô hồn chỉ biết viết đúng theo khuôn mẫu định sẵn, đã giết chết sự sáng tạo cần phải có của người học trong việc tạo lập văn bản. Thử hỏi, cách dạy Tiếng Việt và Tập làm văn như thế thì làm sao có thể phát triển được năng lực ngôn ngữ cho người học?

Vì vậy, điều cấp thiết đầu tiên hiện nay, là phải chấm dứt ngay hai cách dạy không đúng trên đây để thay vào đó cách dạy đổi mới nhằm có thể phát triển được năng lực ngôn ngữ cho thế hệ trẻ. Về Tiếng Việt, phải dạy và học theo tinh thần dạy tiếng Việt là dạy tiếng mẹ đẻ cho người bản xứ chứ không phải là dạy một môn ngoại ngữ như tiếng Anh hay tiếng Pháp,… trong trường phổ thông Việt Nam. Có nghĩa là, người học vốn là học sinh Việt Nam, nên đã có sẵn một vốn tiếng Việt trước khi học, bởi theo quy luật hình thành ngôn ngữ của người bản xứ thì ngôn ngữ bản năng là chủ yếu. Đó là một thuận lợi lớn cần tận dụng trong dạy và học Tiếng Việt. Phải từ vốn ngôn ngữ bản năng mà em nào cũng có để phát triển, nâng cao năng lực ngôn ngữ tiếng Việt cho học sinh một cách tự nhiên, nhẹ nhàng, phù hợp với việc học tiếng mẹ đẻ của người bản xứ. Như vậy, dạy - học Tiếng Việt không phải là dạy - học những cái mới như dạy ngoại ngữ, mà là trên cơ sở những cái học sinh đã có, đã biết để nâng lên thành cái khái quát – hệ thống, và đặc biệt để thực hành, vận dụng những cái đã có đó vào thực tiễn ngôn ngữ đến mức thành thạo. Vì thế, dạy lí thuyết phải tinh giản theo cách quy nạp để học sinh có thể chủ động tham gia xây dựng bài học bằng cái vốn ngôn ngữ bản năng của mình; còn dạy thực hành thì phải đa dạng, phong phú để các em được rèn luyện bằng nhiều thao tác vận dụng ngôn ngữ vào cuộc sống.

Tập làm văn là môn khô khan, khó dạy, cũng là môn học sinh chán học, nhất là khi dạy về lí thuyết các kiểu bài. Nhưng lại là môn rất cần thiết trong việc phát triển năng lực ngôn ngữ cho người học, đặc biệt là tạo lập các loại văn bản – một năng lực không thể thiếu của con người hiện đại. Vì vậy người giáo viên phải tìm mọi cách để gây hứng thú trong việc dạy – học Tập làm văn, tránh biến nó thành những giờ học nặng nề, nhàm chán. Muốn vậy, phải dành cho học sinh một chỗ đứng thích đáng trong giờ học và dành cho họ một không gian rộng rãi của sự sáng tạo trong việc tạo lập các loại văn bản. Lâu nay, ở các giờ Tập làm văn, dường như chỉ diễn ra theo một hướng từ giáo viên đến học sinh: giáo viên đưa ra các bước làm bài, các mô hình cho từng loại văn bản, cách lập dàn ý, thậm chí cả cách mở bài, kết bài,… và học sinh cứ thế rập khuôn một cách máy móc mà không hề có sự suy nghĩ hay đối thoại nào cả. Sự sáng tạo đã không còn thì làm sao có thể tạo ra được những văn bản đích thực? Cho nên người giáo viên cần biết cách khuyến khích học sinh tham gia xây dựng bài học Tập làm văn, đặc biệt là về lí thuyết các loại văn bản để tránh có sự gò bó cứng nhắc, tạo cho họ một tâm lí thoải mái trong việc sáng tạo văn bản mang nét riêng của mình, được viết bằng cảm hứng của chính mình. Và ngay cả khi đánh giá, cũng cần tôn trọng và khích lệ những bài làm có nét riêng đặc sắc. Tập làm văn là môn học thực hành bộc lộ rõ nhất năng lực ngôn ngữ của người học, cần phải đổi mới cách dạy-học theo hướng thoát khỏi sự ràng buộc của các khuôn hình khô cứng để đến với sự sáng tạo vốn có của nó.

*

Năng lực thẩm mĩ và năng lực ngôn ngữ là những năng lực mang đậm tính người mà em nào cũng có, là tiềm năng của người học, chỉ cần biết cách khơi dậy là tự nó có thể phát triển được. Đó là một thuận lợi cần tận dụng trong dạy-học Ngữ văn. Người giáo viên cần nắm được điều đó để chủ động khơi dậy khả năng tự phát triển của học sinh trong dạy-học Ngữ văn nhằm phát triển tốt nhất năng lực thẩm mĩ và năng lực ngôn ngữ.

Nguồn Văn nghệ số 45/2019

Chương trình Ngữ văn xây dựng theo hướng mở

Cỡ chữ Màu chữ:

Theo Ban Phát triển các chương trình môn học (Bộ Giáo dục và Đào tạo), Ngữ văn là môn học thuộc lĩnh vực giáo dục ngôn ngữ và Văn học, được học từ lớp 1 đến lớp 12.

Ở tiểu học, môn học này có tên là Tiếng Việt; ở trung học cơ sở và trung học phổ thông có tên là Ngữ văn. Nội dung cốt lõi của môn học sẽ trang bị cho học sinh kiến thức, kỹ năng cơ bản, thiết yếu về văn học và Tiếng Việt, đáp ứng các yêu cầu về phẩm chất, năng lực ở từng cấp học.

Chương trình Ngữ văn xây dựng theo hướng mở

Trên cơ sở các quy định cơ bản được nêu trong Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, chương trình Ngữ văn mới được xây dựng trên quan điểm lấy các kỹ năng giao tiếp (đọc, viết, nói và nghe) làm trục chính xuyên suốt cả ba cấp học nhằm đáp ứng yêu cầu của chương trình theo định hướng năng lực, bảo đảm tính chỉnh thể, sự nhất quán liên tục trong tất cả các cấp/lớp.

Chương trình được xây dựng theo hướng mở; không quy định chi tiết nội dung dạy học và các văn bản cụ thể mà chỉ quy định những yêu cầu cần đạt về đọc, viết, nói và nghe cho mỗi lớp. Chương trình quy định một số kiến thức cơ bản, cốt lõi về văn học, Tiếng Việt và quy định một số văn bản quan trọng của văn học dân tộc bắt buộc phải học đối với học sinh toàn quốc.

Qua văn bản ngôn từ, đặc biệt là văn bản văn học đặc sắc, môn Ngữ văn tạo cho học sinh cơ hội khám phá bản thân và thế giới xung quanh, thấu hiểu con người, biết đồng cảm, sẻ chia, có cá tính và đời sống tâm hồn phong phú, quan niệm sống và ứng xử nhân văn; bồi dưỡng tình yêu với Tiếng Việt và Văn học, ý thức về cội nguồn và bản sắc dân tộc, góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị văn hoá Việt Nam.

Ngoài việc góp phần phát triển các năng lực chung, chương trình môn Ngữ văn tập trung giúp học sinh phát triển năng lực giao tiếp và năng lực thẩm mỹ; cung cấp hệ thống kiến thức phổ thông nền tảng về Văn học và tiếng Việt để góp phần phát triển vốn học vấn căn bản của một người có văn hoá. Môn học cũng góp phần hình thành và phát triển con người nhân văn, biết tiếp nhận, cảm thụ, thưởng thức, đánh giá các sản phẩm ngôn từ và các giá trị cao đẹp trong cuộc sống.

Xuất phát từ phẩm chất và năng lực người học

Theo Phó Giáo sư - Tiến sĩ Đỗ Ngọc Thống, Tổng chủ biên chương trình môn Tiếng Việt/Ngữ văn, điểm khác biệt nhất của chương trình Ngữ văn lần này so với những năm trước là được xây dựng xuất phát từ các phẩm chất, năng lực cần có của người học để lựa chọn nội dung dạy học.

Các yêu cầu cần đạt của mỗi lớp tập trung vào bốn kỹ năng lớn: đọc,viết, nói và nghe. Đọc bao gồm yêu cầu đọc đúng và đọc hiểu. Yêu cầu về đọc hiểu bao gồm các yêu cầu hiểu văn bản (trong đó có cả đọc thẩm mỹ, cảm thụ, thưởng thức và đánh giá) và hiểu chính mình (người đọc).

Viết không chỉ yêu cầu học sinh biết viết chữ, viết câu, viết đoạn mà còn tạo ra được các kiểu loại văn bản, trước hết là các kiểu loại văn bản thông dụng, sau đó là một số kiểu loại văn bản phức tạp hơn. Nói và nghe căn cứ vào nội dung của đọc và viết để luyện tập cho học sinh trình bày, nói và nghe tự tin, có hiệu quả; từ nói đúng đến nói hay.

Do yêu cầu phát triển phẩm chất và năng lực nên chương trình nhấn mạnh việc chú ý hình thành cho học sinh cách học, tự học, từ phương pháp tiếp cận, phương pháp đọc hiểu đến cách thức tạo lập văn bản và nghe-nói. Học sinh được thực hành, luyện tập và vận dụng nhiều kiểu loại văn bản khác nhau để sau khi rời nhà trường, các em có thể tiếp tục học suốt đời và có khả năng giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Nhiệm vụ của giáo viên là tổ chức các hoạt động học tập cho học sinh; hướng dẫn, giám sát và hỗ trợ học sinh để các em từng bước hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lực mà chương trình giáo dục mong đợi.

Giáo viên cần khơi gợi, vận dụng kinh nghiệm và vốn hiểu biết đã có của học sinh về vấn đề đang học, từ đó tổ chức cho các em tìm hiểu, khám phá để tự bổ sung, điều chỉnh, hoàn thiện hiểu biết. Giáo viên cần khuyến khích học sinh trao đổi và tranh luận, đặt câu hỏi cho mình và cho người khác khi đọc, viết, nói và nghe. Bên cạnh việc phát huy tính tích cực của người học, giáo viên cần chú ý tính chuẩn mực của người thày cả trong tri thức và kỹ năng sư phạm.

Cần thời gian tiếp cận chương trình và phương pháp mới

Đánh giá về dự thảo chương trình môn Ngữ văn, Tiến sĩ Văn học Trịnh Thu Tuyết, nguyên giáo viên Trường trung học phổ thông Chu Văn An (Hà Nội) ghi nhận sự thay đổi lớn về phương pháp dạy học, tiếp cận chương trình và cách thức kiểm tra đánh giá.

Cô Trịnh Thu Tuyết chia sẻ: Chương trình hiện hành chỉ có một bộ sách giáo khoa dùng chung cho cả nước với các tác phẩm bắt buộc, thời lượng cho mỗi tác phẩm và đơn vị kiến thức cơ bản cũng đã được quy định cụ thể. Với dự thảo chương trình mới, Bộ chỉ quy định những yêu cầu cơ bản về năng lực, phẩm chất cần đạt tới, quy định về kiến thức, kỹ năng, thể loại và danh sách nhóm các tác phẩm mang tính chất gợi ý.

Trên cơ sở đó, các nhóm biên soạn sách giáo khoa cùng giáo viên và học sinh được quyền lựa chọn, đề xuất tác phẩm phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, thời đại và đặc điểm nơi mình đang sống. Đây là hướng mở, tiếp cận được với phương pháp dạy học của các nước tiên tiến.

Cô Tuyết nhấn mạnh: Ở dự thảo chương trình mới, tính chất của các tác phẩm văn học trong trường phổ thông đã thay đổi. Trong chương trình hiện hành, tác phẩm văn học luôn là đối tượng nghiên cứu, phân tích, cảm nhận của thầy và trò. Thầy chủ yếu cung cấp cho học trò những đơn vị kiến thức cơ bản nhất liên quan đến tác phẩm. Từ đó, hoạt động trả bài của trò chỉ dừng lại ở việc trò tiếp nhận được những đơn vị kiến thức nào mà thầy cung cấp.

Với dự thảo chương trình mới, trên cơ sở những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng, về thể loại, về từng giai đoạn văn học, trào lưu văn học, những tác phẩm đưa ra chỉ mang tính chất gợi ý. Thầy và trò sẽ chọn những tác phẩm ấy để học nhưng không coi nó là đối tượng để nghiên cứu và là cái đích cao nhất mà những tác phẩm ấy đóng vai trò là phương tiện để làm sáng tỏ những phẩm chất, năng lực mà học sinh cần đạt tới.

Tuy nhiên, cô Trịnh Thu Tuyết băn khoăn về việc thực hiện chương trình mới, bởi giáo viên cần có khoảng thời gian vừa đủ để tiếp cận chương trình và phương pháp dạy học mới. Chương trình Ngữ văn mới đòi hỏi tính đồng bộ của đội ngũ giáo viên từ việc lựa chọn chương trình, lựa chọn phương pháp tiếp cận, nếu giáo viên không đủ bản lĩnh sẽ rất khó khăn.

Theo cô Trịnh Thu Tuyết, dù đổi mới thế nào vẫn cần đặt trên nền tảng đặc trưng của bộ môn. Trong phương pháp giảng dạy môn Ngữ văn ở chương trình mới, Ban soạn thảo có đưa vào nhiều hoạt động hoạt náo, hướng ngoại như đóng vai, ngâm thơ, kể chuyện...

Những hoạt động này cần có hướng dẫn mang tính chất tích cực và phù hợp nhất. Bởi mỗi tiết học có thời lượng 45 phút, nếu thầy và trò thực hiện xong một hoạt động nào đó đã hết thời gian thì giáo viên khó có thể giúp học sinh tiếp cận được những yếu tố mang tính chất chuẩn mực của một tác phẩm văn chương.

Bộ môn Văn có tính đặc trưng là có cả yếu tố hướng nội, cần sự đằm lắng. Nếu hướng nhiều quá đến các hoạt động và sự trợ giúp của công nghệ thông tin sẽ làm hạn chế khả năng tiếp nhận của học sinh.

Thầy Đặng Ngọc Khương, giáo viên Trường trung học cơ sở Archimedes Academy (Hà Nội) cũng đánh giá về những thay đổi mang tính chất tích cực ở chương trình môn Ngữ văn, đó là về mặt nội dung và cách tiếp cận môn học. Cụ thể, về mặt nội dung, Bộ đã mở rộng biên độ của những tác phẩm văn học để giáo viên có thể khai thác, sử dụng trong giảng dạy; cung cấp cho học sinh vốn văn bản phong phú, phản ánh những vấn đề khác nhau trong đời sống xã hội.

Về mặt phương pháp, kỹ năng tiếp cận, ở chương trình hiện hành, chúng ta lấy kiến thức làm trọng tâm thì với dự thảo mới, mục tiêu cần hướng tới là kỹ năng của học sinh, bao gồm nghe, đọc, viết, nói. Với môn Văn, đây là những kỹ năng thiết thực nhất trong đời sống.

Để triển khai được chương trình mới như mong đợi, theo thầy Đặng Ngọc Khương cần nhiều yếu tố, trong đó, với mỗi giáo viên, điều cần nhất là phải tự làm mới chính mình để bắt kịp với phương pháp giảng dạy hiện đại.

Môn học Ngữ văn có vai trò như thế nào trong việc phát triển phẩm chất, năng lực người học
Gửi email
Môn học Ngữ văn có vai trò như thế nào trong việc phát triển phẩm chất, năng lực người học
In trang

Tầm quan trọng của môn Văn

Môn học Ngữ văn có vai trò như thế nào trong việc phát triển phẩm chất, năng lực người học
Môn Ngữ Văn là một môn học rất quan trọng, chiếm thờ lượng lớn trong chương trình học của của học sinh. Môn Ngữ văn góp phần giáo dục tư tưởng và bồi dưỡng hoàn thiện nhân cách cho học sinh. Tuy nhiên, so với tình trạng học môn Ngữ Văn đa số các em học sinh đang ở hiện trạng không thích học môn văn ngày càng có chiều hướng gia tăng, số liệu chứng minh đó chính là trong các đợt thi đại học, cao đẳng. Số lượng học sinh đăng ký thi khối C, D ngày càng giảm và hiên tượng học lệch các môn tự nhiên và các môn xã hội.

Nếu như việc giỏi các môn Toán, Lý, Hóa để thành công thì các môn Văn, Sử, Địa giúp chúng ta giàu có về tâm hồn và tư tưởng, nhân cách, việc học môn Văn rất quan trọng, như Bác Hồ của chúng ta đã nói “Có tài mag không có đức thì là người vô dụng, có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó”. Từ đây chúng ta có thể rút ra bài học rằng, Để trở thành một người thành công chúng ta cần có những phẩm chất nào, có trí tuệ siêu việt hay phải có đạo đức tuyệt vời cao cả. tài chính là tài năng, là kiến thức, là hiểu biết, là kĩ năng kĩ xảo, là kinh nghiệm sống để con người có thể hoàn thành công việc của mình một cách tốt nhất, đặc biệt là trong những hoàn cảnh khó khăn, những tình huống phức tạp. Đức chính là đạo đức, là tư cách tác phong, là lòng nhiệt tình, là những khát vọng chân thiện, mĩ… Người có đức biết tôn trọng và bảo vệ chân lí, dám đấu tranh với sai lầm, sẵn sàng hi sinh quyển lợi cá nhân cho quyền lợi của tập thể

Gần gũi hơn với đời sống thường ngày của chúng ta, học văn là học cách để diễn đạt trôi chảy ý nghĩa của bản thân, tạo nên những câu nói đẹp, những bài luận sắc sảo. Có thể nói thông qua Văn học chúng ta có thể tích lũy được vô vãn những tri thức quý giá cho bản thân. Văn học giúp cho chúng ta hiểu hơn về lịch sử hình thành đất nước, văn hóa, phong tục tập quán của các vùng miền khác nhau. Không có thước đo nào đo được giá trị của văn học mang đến cho đời sống con người. Thông qua tác phẩm văn học có thể tái hiện dược bức tranh quý giá, một gia thoại hào hung của lịch sử dân tộc. Ví dụ như: Qua tác phẩm văn học “Vợ Nhặt” của nhà văn Kim Lân đã phần nào tái hiện được khung cảnh đất nước ta trong nạn đói lịch sử năm 1945 và giá trị tình người qua tác phẩm văn học đó.

Học Văn giúp cho chúng ta trau dồi vốn từ và cách sử dụng ngôn từ khéo léo hơn. Qua học môn Văn ta học cách chia sẻ khéo léo hơn, có tấm lòng đồng cảm chia sẻ với tấm lòng yêu thương con người. Có thể nói văn học như một quyển “Bách khoa toàn thư” về vô vần những cung bậc cảm xúc của con người bao gồm Hỉ, Nộ, Ái, Ố tất cả đều sinh động và chân thực đến lạ thường.

Cho dù ở bất cứa một xã hội nào thì việc học văn vô cùng quan trọng, Văn – Toán là hai môn học song hành nó giúp con người phát triển một cách toàn diện hơn về nhân cách và trí tuệ của con người. Tạo nên sự thành công cho mỗi con người nếu như chúng ta học cân bằng cả hai điều đó.

Tìm hiểu, đi sâu vào các tác phẩm văn học, ta sẽ nâng cao được nhận thức, bồi dưỡng được tư tưởng tình cảm tốt và nâng cao tính thẩm mỹ của bản thân. Việc học văn rất quan trọng, nhưng không phải ai cũng có thể hiểu được giá trị của nó đối với chính bản thân mỗi con người, bởi giá trị của nó nằm sâu bên trong và tiềm ẩn, nuôi dưỡng tư tưởng chúng ta hàng ngày.

Đáp án trắc nghiệm tập huấn Mô đun 1 môn Âm nhạc

1. Chọn phương án đúng nhất: Tên môn học và vị trí môn Âm nhạc ở chương trình GDPT 2018 là:

A. Môn Âm nhạc/Là môn học bắt buộc trong chương trình GDPT, chỉ học ở tiểu học và THCS

B. Môn Giáo dục Nghệ thuật/ là môn học cốt lõi trong chương trình GDPT, học bắt buộc ở tất cả các cấp tiểu học, THCS và THPT

C. Môn Âm nhạc/ là môn học thuộc nhóm môn Giáo dục nghệ thuật, học tự chọn ở tất cả các cấp tiểu học, THCS và THPT phù hợp với định hướng nghề nghiệp, sở thích và năng lực của bản thân.

D. Môn Âm nhạc /là môn học cốt lõi thuộc nhóm môn Giáo dục nghệ thuật. Ở tiểu học và THCS là môn học bắt buộc, ở THPT, học sinh được lựa chọn môn học phù hợp với định hướng nghề nghiệp, sở thích và năng lực của bản thân.

2. Chọn phương án đúng nhất: Các giai đoạn của chương trình môn Âm nhạc ở chương trình GDPT 2018 là gì?

A. Gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn giáo dục bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 9 và giai đoạn hướng nghiệp từ lớp 10 đến lớp 12

B. Gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản ở cấp Tiểu học và THCS và Giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp ở cấp THPT.

C. Gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn giáo dục thường thức âm nhạc, giai đoạn phát triển các kĩ năng thực hành, mở rộng hiểu biết về âm nhạc

D. Gồm 2 giai đoạn: Giai đoạn giáo dục cơ bản ở cấp Tiểu học và THCS và giai đoạn phát triển các kĩ năng thực hành, mở rộng hiểu biết về âm nhạc ở cấp THPT.

3. Chọn phương án đúng nhất: Đặc điểm cơ bản trong giai đoạn giáo dục cơ bản của môn Âm nhạc ở chương trình GDPT 2018 là gì ?

A. Âm nhạc là môn học bắt buộc từ lớp 1 đến lớp 9, bao gồm những kiến thức và kĩ năng cơ bản về hát, nhạc cụ, nghe nhạc, đọc nhạc, lí thuyết âm nhạc, thường thức âm nhạc.

B. Âm nhạc là môn học tự chọn từ lớp 1 đến lớp 9, bao gồm những kiến thức và kĩ năng cơ bản về hát, nhạc cụ, nghe nhạc, đọc nhạc, lí thuyết âm nhạc, thường thức âm nhạc

C. Âm nhạc là môn học bắt buộc đối với HS tiểu học và THCS, bao gồm những kiến thức và kĩ năng cơ bản và nâng cao về hát, nhạc cụ, nghe nhạc, đọc nhạc, lí thuyết âm nhạc, thường thức âm nhạc.

D. Âm nhạc là môn học tự chọn từ lớp 1 đến lớp 9, bao gồm những kiến thức và kĩ năng cơ bản về âm nhạc.

4. Chọn phương án ĐÚNG để điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau: Đặc điểm cơ bản trong giai đoạn giáo dục định hướng nghề nghiệp của môn Âm nhạc ở chương trình GDPT 2018 là: “Âm nhạc là môn học được lựa chọn theo _____ ____ (1) và định hướng ____ _____(2) của học sinh ở cấp THPT. Nội dung môn học bao gồm kiến thức và kĩ năng mở rộng, nâng cao về hát, nhạc cụ, nghe nhạc, đọc nhạc, lí thuyết âm nhạc, thường thức âm nhạc. Những học sinh có sở thích, năng khiếu hoặc định hướng nghề nghiệp liên quan còn được chọn thêm các chuyên đề học tập”.

A. (1) nguyện vọng ; (2) nghề nghiệp;

B. (1) mong muốn; (2) nguyện vọng

C. (1) sở thích; (2) tương lai

D. (1) yêu cầu ; (2) ngành nghề

5. Chọn các phương án đúng: Quan điểm xây dựng chương trình môn Âm nhạc ở chương trình GDPT 2018 là:

A. Chương trình tập trung phát triển ở học sinh năng lực âm nhạc, biểu hiện của năng lực thẩm mĩ trong lĩnh vực âm nhạc thông qua nội dung giáo dục với những kiến thức cơ bản, thiết thực; chú trọng thực hành; góp phần phát triển hài hoà đức, trí, thể, mĩ và định hướng nghề nghiệp cho học sinh.

B. Chương trình kế thừa và phát huy những ưu điểm của chương trình môn Âm nhạc hiện hành, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm xây dựng chương trình của một số nền giáo dục tiên tiến trên thế giới.

C. Chương trình xây dựng những hoạt động học tập đa dạng, với sự phong phú về nội dung và hình thức, nhằm đáp ứng nhu cầu, sở thích của học sinh; tạo được cảm xúc, niềm vui và hứng thú trong học tập.

D. Chương trình quy định mục tiêu, tất cả các nội dung giáo dục, phương pháp giáo dục và việc đánh giá kết quả giáo dục âm nhạc thống nhất trong toàn quốc

6. Chọn phương án đúng nhất: Tính mở và linh hoạt của Chương trình môn Âm nhạc trong chương trình GDPT 2018 được thể hiện ở:

A. Thống nhất định hướng chung trong toàn quốc

B. Thực hiện theo khả năng tổ chức các nội dung giáo dục tích hợp theo điều kiện của từng trường;

C. Giáo viên được lựa chọn chủ đề dạy học môn Âm nhạc; Học sinh được lựa chọn chuyên đề học tập từ lớp 1 đến lớp 12.

D. Chương trình vừa bảo đảm những nội dung giáo dục cốt lõi thống nhất trong cả nước, vừa có tính mở để phù hợp với sự đa dạng về điều kiện và khả năng học tập của học sinh các vùng miền.

7. Chọn các phương án đúng: Mục tiêu chung của môn Âm nhạc cấp THCS ở chương trình GDPT 2018 là:

A. Giúp học sinh bước đầu làm quen với kiến thức âm nhạc phổ thông, sự đa dạng của thế giới âm nhạc và các giá trị âm nhạc truyền thống;

B. Giúp học sinh phát triển năng lực âm nhạc dựa trên nền tảng kiến thức âm nhạc phổ thông và các hoạt động trải nghiệm, khám phá nghệ thuật âm nhạc;

C. Nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ và tình yêu âm nhạc; tiếp tục hình thành một số kĩ năng âm nhạc cơ bản, phát huy tiềm năng hoạt động âm nhạc;

D. Nhận thức được sự đa dạng của thế giới âm nhạc và mối liên hệ giữa âm nhạc với văn hoá, lịch sử, xã hội cùng các loại hình nghệ thuật khác, hình thành ý thức bảo vệ và phổ biến các giá trị âm nhạc truyền thống; góp phần phát triển những phẩm chất chủ yếu và năng lực chung đã được hình thành từ cấp tiểu học.

8. Chọn phương án đúng nhất, điền vào chỗ trống các từ/cụm từ phù hợp Một số thành phần cơ bản của năng lực “Cảm thụ và hiểu biết âm nhạc” được thể hiện trong chương trình môn Âm nhạc 2018 cấp THCS là: “Vận động cơ thể phù hợp với ____ ____ và ____ ____ âm nhạc; biết chia sẻ cảm xúc âm nhạc với người khác; Nhận biết được câu, đoạn trong bài hát, bản nhạc có hình thức rõ ràng”.

A. nhịp điệu/ cao độ

B. nhịp điệu/ tính chất

C. cao độ/ trường độ

D. tính chất /trường độ

9. Chọn phương án đúng nhất dưới đây, điền vào các chỗ trống các từ/cụm từ phù hợp Một số thành phần cơ bản của năng lực “Ứng dụng và sáng tạo âm nhạc” được thể hiện trong chương trình môn Âm nhạc 2018 cấp THPT là: “ Biết kết hợp và vận dụng kiến thức, kĩ năng âm nhạc vào các hoạt động nghệ thuật; biết ứng tác hoặc ____ ___ (1)đơn giản; Biết làm dụng cụ học tập âm nhạc; biết _____ _____ (2)khi nghe nhạc không lời”.

A. (1) biến tấu, (2) tưởng tượng

B. (1) sáng tác, (2) vận động

C. (1) cảm thụ, (2) hình dung

D. (1) cảm nhận, (2) phỏng đoán

10. Chọn phương án đúng nhất: Những nội dung được kế thừa trong chương trình hiện hành gồm:

A. Nghe nhạc, Nhạc cụ, Hát ; Đọc nhạc;

B. Lí thuyết âm nhạc; Nghe nhạc, Nhạc cụ, Hát ;

C. Nghe nhạc, Hát ; Đọc nhạc; Lí thuyết âm nhạc;

D. Hát ; Đọc nhạc; Lí thuyết âm nhạc; Thường thức âm nhạc

11. Chọn một phương án đúng nhất: Các mạch nội dung của Môn Âm nhạc chương trình GDPT 2018 là:

A. Hát; Nghe nhạc; Đọc nhạc; Nhạc cụ; Lí thuyết âm nhạc; Tìm hiểu nhạc cụ.

B. Hát; Nghe nhạc; Đọc nhạc; Nhạc cụ; Lí thuyết âm nhạc; Thường thức âm nhạc.

C. Hát; Nghe nhạc; Đọc nhạc; Nhạc cụ; Kí hiệu âm nhạc và các loại nhịp; Thường thức âm nhạc.

D. Hát; Nghe nhạc; Đọc nhạc; Hoà âm; Lí thuyết âm nhạc; Thường thức âm nhạc.

12. Chọn một phương án đúng nhất: Mạch nội dung “Hát” trong giai đoạn chương trình Môn Âm nhạc 2018 gồm các nội dung cụ thể là:

A. Bài hát tuổi trẻ; Dân ca Việt Nam; Bài hát nước ngoài.

B. Bài hát tuổi học sinh; Dân ca Việt Nam; Bài hát nước ngoài.

C. Bài hát tuổi học sinh; Dân ca quan họ; Bài hát nước ngoài.

D. Bài hát tuổi học sinh; Dân ca bài chòi; Bài hát nước ngoài.

13. Chọn một phương án đúng nhất: Mạch nội dung “Nghe nhạc” trong chương trình Môn Âm nhạc 2018 gồm các nội dung cụ thể là:

A. Nhạc có lời; Nhạc không lời

B. Nhạc Việt Nam, Nhạc nước ngoài

C. Nhạc trẻ, nhạc giao hưởng

D. Tất cả các nội dung trên

14. Chọn một phương án đúng nhất: Mạch nội dung “Lí thuyết âm nhạc” trong chương trình Môn Âm nhạc 2018 gồm các nội dung cụ thể là:

A. Kí hiệu âm nhạc và các loại nhịp; Một số kiến thức cơ bản khác

B. Kí hiệu âm nhạc và các loại nhịp; Nhạc Việt Nam

C. Kí hiệu âm nhạc và các loại nhịp; Nhạc Việt Nam, Nhạc nước ngoài

D. Kí hiệu âm nhạc và các loại nhịp.

15. Chọn các phương án đúng: Ba chuyên đề học tập Âm nhạc lớp 11 gồm:

A. Kĩ năng biểu diễn thanh nhạc

B. Kĩ năng biểu diễn nhạc cụ;

C. Kĩ năng chỉ huy.

D. Phương pháp xác định tiết điệu đệm.

16. Chọn các phương án đúng: Ba chuyên đề học tập Âm nhạc lớp 12 gồm

A. Phần mềm chép nhạc

B. Kĩ năng chỉ huy.

C. Phần mềm biên tập âm thanh và thu âm

D. Phần mềm hoà âm tự động.

17. Chọn một phương án đúng nhất: Các nội dung có tính đồng tâm, tuyến tính, xuyên suốt 3 cấp học là:

A. Bài hát tuổi học sinh; Dân ca Việt Nam; Bài hát nước ngoài; Nhạc có lời; Nhạc không lời; Tiết tấu.

B. Bài hát tuổi học sinh; Dân ca Việt Nam; Giai điệu; Hoà âm; Tìm hiểu nhạc cụ; Giọng Đô trưởng.

C. Bài hát tuổi học sinh; Dân ca Việt Nam; Bài hát nước ngoài; Nhạc có lời; Nhạc không lời

D. Bài hát tuổi học sinh; Dân ca Việt Nam; Tác giả và tác phẩm; Âm nhạc và đời sống; Giai điệu; Hoà âm.

18. Chọn một phương án đúng nhất, điền vào chỗ trống các từ phù hợp Định hướng về phương pháp hình thành, phát triển năng lực đặc thù môn Âm nhạc gồm: “Căn cứ vào nội dung dạy học, yêu cầu cần đạt và điều kiện thực tế, giáo viên vận dụng linh hoạt các hoạt động dạy học âm nhạc đặc thù (nghe, đọc, tái hiện, phản ứng, trình diễn, phân tích, đánh giá, ___ ____, ____ ___) cho phù hợp và hiệu quả; Sử dụng những nhạc cụ có cao độ chuẩn để giúp học sinh phát triển kĩ năng nghe và hát đúng nhạc; Hướng dẫn học sinh hoà tấu hoặc đệm cho bài hát, bản nhạc bằng cách kết hợp giữa các loại nhạc cụ và động tác tay, chân (vỗ tay, giậm chân, búng ngón tay,…)”

A. trải nghiệm, khám phá

B. hoạt động, trải nghiệm

C. ứng dụng, sáng tạo

D. thực hành, trải nghiệm

19. Chọn một phương án đúng nhất: Hình thức đánh giá kết quả giáo dục Âm nhạc gồm:

A. Đánh giá chẩn đoán; Đánh giá định tính và đánh giá định lượng;

B. Đánh giá các kĩ năng của học sinh trong việc thực hiện các nhiệm vụ học tập;

C. Đánh giá đóng góp của học sinh vào thành tích chung của tập thể và việc thực hiện có kết quả hoạt động chung của tập thể.

D. Đánh giá chẩn đoán; Đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì; Đánh giá định tính và đánh giá định lượng;

20. Chọn các phương án đúng: Thiết bị dạy học môn Âm nhạc của giáo viên gồm:

A. Kính hiển vi, phấn, máy tính, máy chiếu, sổ sách

B. Nhạc cụ: đàn phím điện tử hoặc piano kĩ thuật số;

C. Tư liệu âm nhạc: tranh ảnh về nhạc cụ, tác giả âm nhạc, nghệ sĩ, nghệ nhân;

D. Tranh minh họa câu chuyện âm nhạc; video biểu diễn âm nhạc,…