Năm 1838 nhà nguyễn đổi quốc hiệu thành
Show
Quan niệm phổ biến từ trước và nhiều kết quả nghiên cứu gần đây thường khẳng định quốc hiệu Việt Nam xuất hiện từ đầu thời Nguyễn, bởi vì chính sử của cả nước ta lẫn Trung Quốc đều ghi nhận cụ thể việc này. Năm 1802, sau khi lên ngôi, Nguyễn Ánh (vua Gia Long) phái 2 đoàn sứ giả sang Trung Quốc. Một đoàn do Thượng thư Bộ Hộ là Trịnh Hoài Đức làm chánh sứ, đem giao trả lại sách ấn mà triều Thanh phong cho nhà Tây Sơn. Đoàn kia do Thượng thư Bộ Binh là Lê Quang Định làm chánh sứ, xin phong vương cho Nguyễn Ánh và xin đặt quốc hiệu là Nam Việt. Cũng năm 1802, nhà Thanh chuẩn danh xưng quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Nhưng đến năm Gia Long thứ 3 (1804), sứ giả nhà Thanh là Tế Bá Sâm mới mang cáo sắc, quốc ấn đến Thăng Long để làm lễ phong vương cho Nguyễn Ánh. Thực ra, không phải tới tận đầu thời Nguyễn, cái tên Việt Nam xuất hiện và có xuất xứ như vậy. Tên gọi Việt Nam được biết đến, ít nhất từ thế kỷ 14, thường thấy trong nhiều thư tịch đương thời: Việt Nam thế chí của Hồ Tông Thốc, Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Dư địa chí của Nguyễn Trãi, Trình tiên sinh quốc ngữ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn… Tên gọi Việt Nam lần đầu tiên chính thức trở thành quốc hiệu của nước ta vào năm 1804. Nó được xác lập bởi một văn bản pháp lý quan trọng (chiếu) của Nhà nước Nguyễn, niên hiệu Gia Long thứ 3 (cách đây 202 năm) và đã được thông báo cho nhà Thanh. Trong Dụ Am văn tập của Phan Huy Ích có chép nguyên bản bài Tuyên cáo về việc đặt quốc hiệu mới của vua Gia Long (Nguyễn Ánh) vào năm 1804, nội dung như sau: “Xuống chiếu cho thần dân trong thiên hạ đều biết: Trẫm nghĩ, xưa nay các bậc đế vương dựng nước, ắt có đặt quốc hiệu để tỏ sự đổi mới, hoặc nhân tên đất lúc mới khởi lên, hoặc dùng chữ nghĩa tốt đẹp, xét trong sử sách chứng cớ đã rõ ràng. Nước ta: sao chùa Dực, chân, cõi Việt hùng cường. Từ lâu đã có tên Văn Lang, Vạn Xuân còn thô kệch. Đến đời Đinh Tiên Hoàng gọi là Đại Cồ Việt nhưng người Trung Quốc vẫn gọi là Giao Chỉ. Từ thời Lý về sau, quen dùng tên An Nam do nhà Tống phong cho ngày trước. Tuy thế, vận hội dù có đổi thay nhưng trải qua bao đời vẫn giữ theo tên cũ, thực là trái với nghĩa chân chính của việc dựng nước vậy. Trẫm nối nghiệp xưa, gây dựng cơ đồ, bờ cõi đất đai rộng nhiều hơn trước. Xem qua sổ sách, trẫm xét núi sông nên đặt tên tốt để truyền lâu dài… Ban đổi tên An Nam làm nước Việt Nam, đã tư sang Trung Quốc biết rõ”. Sau khi lên nối ngôi Gia Long, vua Minh Mạng cho đổi quốc hiệu là Đại Nam (1838), cái tên Việt Nam không còn thông dụng như trước nữa. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và chí sĩ yêu nước, trong nhiều tác phẩm và tên tổ chức chính trị: Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử (1905) rồi cùng Cường Để thành lập Việt Nam Công hiến hội (1908), Việt Nam quang phục hội (1912); Phan Chu Trinh viết Pháp-Việt liên hiệp hậu chi Tân Việt Nam, Trần Trọng Kim viết Việt Nam sử lược, Nguyễn Ái Quốc thành lập Việt Nam Thanh niên Cách mạng đồng chí hội (năm 1925) và Việt Nam độc lập đồng minh hội (năm 1941)… Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp, trao chính quyền hình thức cho Bảo Đại. Bảo Đại đổi lại quốc hiệu từ Đại Nam thành Việt Nam. Ngày 19-8-1945, Cách mạng tháng Tám thành công, Bảo Đại thoái vị. Ngày 2-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hiến pháp năm 1946 chính thức thể chế hóa danh hiệu này. Từ đấy, quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất của nó. HỒNG AN (Theo cuốn Tóm tắt niên biểu lịch sử Việt Nam, NXB Văn hóa-Thông tin, Hà Nội, 1996)
NDĐT - Ngày 18-12, tại Trường Đại học Đà Lạt, Cục Văn thư Lưu trữ Nhà nước, Bộ Nội vụ và UBND TP Đà Lạt (Lâm Đồng), khai mạc triển lãm “Quốc hiệu và kinh đô nước Việt trong Mộc bản triều Nguyễn - Di sản tư liệu thế giới”.
Triển lãm giới thiệu đến công chúng 32 hình ảnh, tài liệu, hiện vật trong Di sản Mộc bản triều Nguyễn về nguồn gốc, ý nghĩa của các Quốc hiệu chính thức và Kinh đô của nước ta trải qua các thời kỳ lịch sử, từ buổi đầu dựng nước đến thế kỷ XIX; được khắc ghi trong các mộc bản Đại Việt sử ký toàn thư, Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập, Khâm Định Việt sử thông giám cương mục và Đại Nam thực lục. Phát biểu khai mạc, Cục trưởng Văn thư Lưu trữ Nhà nước Đặng Thanh Tùng nhấn mạnh: Triển lãm không chỉ tái hiện lại bức tranh sinh động về lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam từ xa xưa, thông qua những lần đặt, đổi Quốc hiệu và Kinh đô đất nước, mà còn thể hiện khát vọng và ý chí độc lập, tinh thần tự tôn, tự hào dân tộc của các bậc tiền nhân. Đồng thời, tạo điều kiện cho công chúng trong và ngoài nước được tiếp cận với các di sản tư liệu của Việt Nam. Những lần thay đổi quốc hiệu, dời chuyển kinh đô đều đánh một dấu mốc trọng đại trong lịch sử dân tộc. Từ tên nước ta đầu tiên được nhắc đến là Xích Quỷ (tên một vì sao màu đỏ) của Kinh Dương Vương; đến năm 1838, vua Minh Mạng đổi quốc hiệu thành Đại Nam. Và Việt Nam đã thành tên gọi ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân từ đầu thế kỷ XIX. Triển lãm diễn ra đến ngày 24-12. MAI VĂN BẢO
TÀI LIỆU KỲ HỌP
TÀI LIỆU PHIÊN HỌP TT HĐND
Tin tức / Thông tin tuyên truyền trung ương, địa phương
A+ | A | A-
Quốc hiệu Việt Nam có từ khi nào?Người đăng: Administrator Account Ngày đăng: 11:09 | 05/09 Lượt xem: 51110 Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, đất nước ta từng có nhiều tên gọi. Và bắt đầu từ triều Nguyễn (1804), nước ta mang quốc hiệu Việt Nam. Như thế có phải hai chữ Việt Nam là do nhà Nguyễn đặt ra không? Rất kỳ lạ và lý thú là không phải!
Ngày 2.9.1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tháng 2, năm Giáp Tý (1804), vua Gia Long chính thức đổi quốc hiệu nước ta là Việt Nam. Sự kiện đổi quốc hiệu được diễn ra rất nghiêm trang. Mộc bản triều Nguyễn sách Đại Nam thực lục đệ nhất kỷ, quyển 23, mặt khắc 12, 13 có khắc: “Ngày Đinh Sửu, vua đem việc cáo Thái miếu. Lễ xong, vua ngự ở điện nhận lễ chầu mừng. Xuống chiếu bố cáo khắp trong ngoài: “Đế vương dựng nước, trước phải trọng quốc hiệu để tỏ rõ nhất thống. Xét từ các đấng tiên thánh vương ta xây nền dấy nghiệp, mở đất Viêm bang, gồm cả đất đai từ Việt Thường về Nam, nhân đó lấy chữ Việt mà đặt tên nước. Hơn 200 năm, nối hòa thêm sáng, vững được nền thần thánh dõi truyền, giữ được vận trong ngoài yên lặng. Chợt đến giữa chừng, vận nước khó khăn, ta lấy mình nhỏ, lo dẹp giặc loạn, nên nay nhờ được phúc lớn, nối được nghiệp xưa, bờ cõi Giao Nam, đều vào bản tịch. Sau nghĩ tới mưu văn công võ, ở ngôi chính, chịu mệnh mới, nên định lấy ngày 17 tháng 2 năm nay, kính cáo Thái miếu, cải chính quốc hiệu là Việt Nam, để dựng nền lớn, truyền lâu xa. Phàm công việc nước ta việc gì quan hệ đến quốc hiệu và thư từ với nước ngoài, đều lấy Việt Nam làm tên nước, không được quen xưng hiệu cũ là An Nam nữa. Lại hạ chiếu báo các nước Xiêm La, Lữ Tống và các thuộc quốc Chân Lạp, Vạn Tượng, khiến cho đều biết”. Sự kiện vua Gia Long công bố cho đổi quốc hiệu Việt Nam có ý nghĩa vô cùng quan trọng lúc bấy giờ. Đó là sự thể chế hóa nguyện vọng lâu đời của các tầng lớp trí thức, quan lại và nhân dân; khẳng định tính pháp lý về chủ quyền của một Nhà nước Việt ở phương Nam; thể hiện ý chí, sức mạnh muôn đời của các cộng đồng cư dân Việt trên dải đất phương Nam, cũng là một sự khiêm nhường, đúng mực, “biết người biết ta”, trong quan hệ bang giao với nhà Thanh và các nước khác. Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, hai chữ “Việt Nam” được sử dụng với tư cách là quốc hiệu và được công nhận hoàn toàn về mặt ngoại giao. Tuy nhiên, theo các cứ liệu lịch sử thì hai từ Việt Nam đã xuất hiện từ rất sớm. Ngay từ cuối thế kỷ 14, đã có bộ sách với nhan đề “Việt Nam thế chí” do Học sĩ viện Hàn lâm Hồ Tông Thốc biên soạn. Cuốn “Dư địa chí” của Nguyễn Trãi viết đầu thế kỷ 15 cũng nhiều lần nhắc đến hai chữ Việt Nam. Điều này còn được đề cập rõ trong tác phẩm của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, ngay trang mở đầu tập “Trình tiên sinh quốc ngữ” có câu: “Việt Nam khởi tổ xây nền”. Ngoài ra, người ta cũng tìm thấy hai chữ “Việt Nam” trên một số tấm bia khắc từ thế kỷ 16 - 17 như bia chùa Bảo Lâm (1558) ở Hải Dương, bia chùa Cam Lộ (1590) ở Hà Nội, bia chùa Phúc Thánh (1664) ở Bắc Ninh... Đặc biệt bia Thủy Môn Đình (1670) ở biên giới Lạng Sơn có câu đầu: “Việt Nam hầu thiệt, trấn Bắc ải quan” (đây là cửa ngõ yết hầu của nước Việt Nam và là tiền đồn trấn giữ phương Bắc). Dưới vương triều Nguyễn, quốc hiệu Việt Nam tồn tại trong suốt 34 năm (1804 - 1838). Quốc hiệu Việt Nam được sử dụng ít hơn kể từ khi vua Minh Mạng lên nối ngôi và cho đổi quốc hiệu là Đại Nam. Tuy nhiên, từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, hai tiếng Việt Nam được sử dụng trở lại bởi các nhà sử học và chí sĩ yêu nước trong các tác phẩm và các tổ chức chính trị, như: Phan Bội Châu viết Việt Nam vong quốc sử (1905), Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (1925) và Hội Việt Nam độc lập đồng minh (1941)… Ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Hiến pháp năm 1946 chính thức thể chế hóa quốc hiệu này. Từ đấy, quốc hiệu Việt Nam được sử dụng phổ biến, với đầy đủ ý nghĩa thiêng liêng, toàn diện nhất. Tác giả: Thơm Quang(theo báo Quảng Nam) [Trở về] Các tin mới:
Các tin khác:
Tài liệu kỳ họp
TÀI LIỆU PHIÊN HỌP TT HĐND
Thông tin - Thông báo
Đại biểu dân cử với cử tri
Phóng sự ảnh
Khảo sát việc trồng rừng thay thế tại các dự án thủy điệnĐổi thay Đại LộcKhảo sát khu, cụm công nghiệpĐổi thay Đại Lộc Khảo sát khu, cụm công nghiệp
Liên kết web
Liên kết Website
|