Phân tích nhân vật các bô lão trong Phú sông Bạch Đằng

I, MB: Việt Nam là đất nước của những dòng sông. Những dòng sông xanh biếc hiền hòa hay ngầu đỏ phù sa không chỉ bồi đắp bồi bãi mà còn là nới chiến trường thủy chiến, nơi ghi dấu những chiến thắng, những chiến công vang lừng của dân tộc VN trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, Sông Bạch Đằng là một dòng sông nổi tiếng đẹp, nơi đây đã trở thành niềm tự hào của quân và dân Đại Việt. Dòng sông ấy đã đi vào thi ca, vào lịch sử, đặc biệt là qua bài 'phú sông Bạch Đằng" của Trương Hán Siêu. Nổi bật trong bài thơ là hình tượng của các bô lão.

II, TB

 1, Khái quát chung

 - HCST: khi vương triều nhà Trần đang có biểu hiện suy thoái, cần phải nhìn lại quá khứ anh hùng để củng cố niềm tin trong hiện tại.

 2, Phân tích

- Các bô lão đến với “khách” bằng thái độ nhiệt tình, hiếu khách, tôn kính khách. Sau một câu hồi tưởng về việc “Ngô chúa phá Hoằng Thao”, các bô lão kể cho “khách” nghe về chiến tích “Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã” ->Thái độ, giọng điệu của các bô lão kể về sự kiện đầy nhiệt huyết, tự hào. Lời kể ngắn gọn, cô đọng, súc tích.

- Sau lời kể về trận chiến là suy ngẫm, bình luận của các bô lão về chiến thắng trên sông Bạch Đằng: chỉ ra nguyên nhân ta thắng địch thua; khẳng định vị trí, vai trò của con người đó là cảm hứng mang giá trị nhân văn và có tầm triết lí sâu sắc.

- Cuối cùng là lời ca của các bô lão mang ý nghĩa tổng kết, có giá trị như một tuyên ngôn về chân lí: bất nghĩa thì tiêu vong, có nhân nghĩa thì lưu danh thiên cổ.

 3, Đánh giá chung 

- ND, NT

III, KB: Khẳng định lại ý nghĩa

*Bài làm

Việt Nam là đất nước của những dòng sông. Những dòng sông xanh biếc hiền hòa hay ngầu đỏ phù sa không chỉ bồi đắp bồi bãi mà còn là nới chiến trường thủy chiến, nơi ghi dấu những chiến thắng, những chiến công vang lừng của dân tộc VN trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, Sông Bạch Đằng là một dòng sông nổi tiếng đẹp, nơi đây đã trở thành niềm tự hào của quân và dân Đại Việt. Dòng sông ấy đã đi vào thi ca, vào lịch sử, đặc biệt là qua bài 'phú sông Bạch Đằng" của Trương Hán Siêu. Nổi bật trong bài thơ là hình tượng của các bô lão.

Ở đoạn 1, nhân vật “khách” là cái tôi của nhà văn thì ở đoạn 2 nhân vật các bô lão là hình ảnh của tập thể, vừa đại diện cho người bản địa, vừa là những cá nhân đã trực tiếp chiến đấu đồng thời cũng có sự phân thân của tác giả. Sự xuất hiện của họ làm cho việc miêu tả chiến trận thêm sinh động, đồng thời việc chuyển ý được tự nhiên Nhân vật các bô lão là những chứng nhân lịch sử, từ đó dựng lên những trận thủy chiến Bạch Đằng (qua lời kể).  Họ là đại diện cho những người nơi bản địa. Mở đầu, các bô lão giới thiệu cho khách biết: Đây là nơi chiến địa buổi Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã và củng là bãi đất xưa Ngô chúa phá Hoằng Thao. Bằng hai câu dài (mỗi câu 12 âm tiết), tác giả xây dựng không gian nghệ thuật đầy ấn tượng với những tôn nghiêm và trang trọng như bước nền chắc chắn để bước vào chiến trận ở phần tiếp theo.

       Trận thuỷ chiến được khắc họa với những câu ngắn từ 4 đến 6 âm tiết:  .

Thuyền bè muôn đội,

Tinh kì phấp phới.

Tì hổ ba quân,

Giáo gương sáng chói.

… Ánh nhật nguyệt chừ phải mờ 

Bầu trời đất chừ sắp đổ.

        Trong không khí hoài niệm về quá khứ với những vang dội trong chiến thắng “buổi trùng hưng”, các bô lão chậm rãi, ôn tồn thuật lại bằng tất cả trân trọng. Khi “Muôn đội thuyền bè tinh kì phấp phới”, khí thế “hùng hổ”, “sáng chói” đến  “ánh nhật nguyệt chừ phải mờ/Bầu trời đất chừ sắp đổi”. Trận đánh “kinh thiên động địa” được tái hiện bằng những nét vẽ vừa chân thực, vừa cụ thể dưới con mắt đa chiều kết hợp tài tình cả âm thanh, màu sắc, trực cảm và tưởng tượng tạo nên không khí trận mạc quyết liệt trên sông. Người đọc có thể hình dung khá rõ sự đông đảo của lực lượng tham chiến, lẫn khí thế quyết chiến của hai bên và sự khốc liệt, dữ dội của một cuộc chiến mà cả hai đều ngang tài, ngang sức (Trận đánh thư hùng chưa phân – chiến luỹ Bắc Nam chống đối), thậm chí làm biến đổi cả trời đất, xoay chuyển vũ trụ (khiến cho mặt trăng, mặt trời phải mờ đi, trời đất phải đổi).

       Sau những trận chiến không khoan nhượng đầy kiên gan và quả cảm các bô lão nhận xét về đặc điểm của mỗi bên tham chiến. Bên địch bên ta đều có điểm mạnh điểm yếu, địch kia hùng hậu lại gian manh (Tất Liệt thế cường – Lưu Cung chước đối) đã từng: Quét sạch Nam Bang bốn cõi. Còn ta, ta mạnh ở ý chí chiến đấu, ở trái tim một lòng hướng về dân tộc. Nhưng trái tim ấy sẽ trở thành điểm yếu khi ta chiến đấu vì chính nghĩa, chính nghĩa dù không khoan nhượng nhưng phải đồng thuận trên dưới, thuận với lẽ trời (trời cũng chiều người). Bởi cha ông ta từng răn dạy dù cuộc chiến có cam go ác liệt thì chính nghĩa luôn chiến thắng, phải chính trực, đứng về phía chính nghĩa, trừng phạt kẻ bạo tàn. Thêm vào đó, ta lại có điều kiện tự nhiên hiểm yếu (Trời đất cho nơi hiểm trở), thêm vào đó là khối óc đại tài, có tầm nhìn thấu sáu cõi của người chỉ huy kết hợp đường lối chiến thuật, chiến lược đứng đắn. Những yếu tố đó đủ để dân tộc ta chiến thắng vinh quang, đập tan bè lũ cướp nước. Bởi vậy mà thời gian có qua đi, đất trời có đổi thay, nước sông ngày ngày cuồn cuộn gột rửa mà cái nhục của quân thù vẫn không rửa nổi. Các bô lão không nói nhiều đến phía quân ta chỉ nhấn mạnh lòng biết ơn sâu nặng. Nó ghi dấu mốc son chói lọi trong hành trình đấu tranh của dân tộc, nó trở thành chiến thắng lừng lẫy trong suốt chiều dài lịch sử. Yếu tố tinh thần luôn được nhấn mạnh dẫn đến những lời bình ở phần tiếp theo:

Những người bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lưu danh.

        Lời bình không chỉ là lời nói đơn thuần của những người địa phương mà còn như lời tâm sự của những bàn tay đã cầm súng, những đôi chân từng trải. Đến đây, không gian và thời gian không còn rành rọt mà như hòa làm một. Cách đặt thời gian với không gian để câu chuyện không chỉ ở bề nổi mà còn có chiều sâu, không chỉ là kể mà còn là bộc bạch, không đơn thuần là tái hiện mà còn là lưu giữ. Chính điều đó tạo sự lôi cuốn, tạo dấu ấn làm cho câu chuyện tránh được sự tẻ nhạt, đơn điệu.

       Như vậy qua hình tượng các bô lão ta thấy nhiều suy ngẫm triết lí. Mỗi lời đáp của các bô lão là một lời ca mang âm vang lịch sử của dòng sông cuộc đời. Ta cũng hiểu ra một chân lý vĩnh cửu cũng chảy mãi như dòng sông: Bất nghĩa thì tiêu vong, anh hùng thì lưu danh thiên cổ.

Phân tích nhân vật các bô lão trong Phú sông Bạch Đằng

Cảm nhận hình tượng nhân vật các bô lão trong bài “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu.

1. Lời các bô lão kể với “khách” về những chiến công trên sông Bạch Đằng.

– Tác giả chọn nhân vật các bô lão là người kể chuyện. Nhân vật tập thể các bô lão địa phương có thể là thật – những người dân ven sông Bạch Đằng mà tác giả gặp trên đường vãn cảnh. Cũng có thể đây là nhân vật có tính chất hư cấu.

– Các bô lão đến với khách bằng thái độ nhiệt tình, hiếu khách, tôn kính “khách”. Sau lời hồi tưởng về trận “Ngô chúa phá Hoằng Thao”, họ kể với “khách” về chiến tích “Trùng Hưng nhị thánh bắt Ô Mã”.

– Lời kể theo diễn biến tình hình. Ngay từ đầu, hai bên ta và địch đã tập trung binh lực hùng hậu cho một trận đánh quyết định. Tiếp đến trận đánh diễn ra gay go, quyết liệt “được thua chửa phân”, “bắc nam chống đối”. Đó là sự đối đầu không chỉ về lực lượng mà còn về ý chí: ta với lòng yêu nước, với sức mạnh chính nghĩa, địch “thế cường” với bao mưu ma chước quỷ. Chính vì vậy, trận chiến diễn ra ác liệt: “Ánh … sắp đổi”. Nhưng rồi cuối cùng người chính nghĩa chiến thắng, giặc “hung đồ hết lối”, chuốc nhục muôn đời.

– Nghệ thuật miêu tả trận chiến Bạch Đằng:

+ Thủ pháp đối lập ta- địch tạo tình thế đối địch gay cấn.

+ Thủ pháp khoa trương, phóng đại, những hình tượng kì vĩ, mang tầm vóc của vũ trụ báo hiệu một cuộc thủy chiến kinh thiên động địa, tạo bối cảnh chiến trường hoành tráng.

+ So sánh với những trận chiến nổi tiếng trong lịch sử Trung Quốc.

+ Thái độ, giọng điệu của các bô lão khi kể về chiến công Bạch Đằng đầy nhiệt huyết, tự hào. Đó là cảm hứng của người trong cuộc. Lời kể không dài dòng mà súc tích, cô đọng, khái quát, nhưng gợi lại diễn biến, không khí của của trận đánh hết sức sinh động.

2. Suy ngẫm và bình luận của các bô lão về những chiến công xưa.

– Sau lời kể về trận chiến là lời suy ngẫm, bình luận của các bô lão về chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Lời bình luận chỉ ra nguyên nhân ta thắng, địch thua: Trời cho ta thế hiểm, nhưng điều quyết định là ta có “nhân tài giữ cuộc điện an”:

– Khẳng định vai trò, vị trí của con người, tác giả đã gợi lại hình ảnh Trần Hưng Đạo với câu nói lưu cùng sử sách “Năm nay thế giặc nhàn”.

– Theo binh pháp cổ, muốn thắng trong chiến tranh cần ba yếu tố: thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Bài phú cũng nói tới ba yếu tố đó. Tuy nhiên, thắng giặc không cốt ở đất hiểm mà chủ yếu là đức lớn, là sức mạnh của con người, bài phú thể hiện cảm hứng mang giá trị nhân văn và có tầm triết lí sâu sắc.

3. Lời ca của các bô lão và khách.

– Lời ca của các bô lão mang ý nghĩa tổng kết, có giá trị như một tuyên ngôn về chân lí: kẻ bất nghĩa thì tiêu vong, người có nhân nghĩa thì lưu danh thiên cổ. Đồng thời, tác giả khẳng định sự vĩnh hằng của chân lí đó giống như sông Bạch Đằng kia ngày đêm vẫn cuồn cuộn “dồn về biển đông” theo quy luật tự nhiên muôn đời.

– Lời ca của nhân vật khách.

+ Lời ca của khách tiếp nối lời của các vị bô lão ca ngợi sự anh minh của “hai vị thánh quân” (Trần Thánh Tông – Trần Nhân Tông).

+ Ở hai câu cuối lời ca, khách vừa biện luận vừa khẳng định chân lí: trong mối quan hệ giữa địa linh và nhân kiệt thì nhân kiệt là yếu tố quyết định. Ta thắng giặc không chỉ ở đất hiểm, mà quan trọng hơn là bởi nhân tài có “đức cao”, “đức lành”. Khẳng định địa linh bởi nhân kiệt, nêu cao vai trò, vị trí của con người, lời ca kết thúc bài phú vừa mang niềm tự hào dân tộc, vừa thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp.

3. Đánh giá:

Phú sông Bạch Đằng là đỉnh cao nghệ thuật của thể phú trong văn học trung đại Việt Nam: cấu tứ đơn giản mà hấp dẫn, bố cục chặt chẽ, lời văn linh hoạt, hình tượng nghệ thuật sinh động, vừa gợi hình sắc trực tiếp, vừa mang ý nghĩa khái quát, tâm lí, ngôn từ vừa trang trọng, hào sảng, vừa lắng đọng, gợi cảm.

Bài phú thể hiện lòng yêu nước và niềm tự hào dân tộc trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất và truyền thống đạo lí nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm cũng thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp qua việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.

Phân tích bài Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu

  • Phú sông Bạch Đằng (Trương Hán Siêu)