Quốc Tử Giám là nơi đây học cho ai

Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một khu di tích lịch sử mang ý nghĩa biểu trưng cho tiến trình phát triển văn hóa của Việt Nam, là một bằng chứng về sự đóng góp của Việt Nam vào nền văn minh Nho giáo trong khu vực và nền văn hóa mang ý nghĩa nhân văn của Tòan Thế giới.

Văn Miếu và Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thủ đô Hà Nội. Thời Nhà Lý Văn Miếu – Quốc Tử Giám, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long là tổ hợp gồm hai di tích:  Văn Miếu thờ Khổng Tử, các bậc hiền triết Nho giáo và Tư nghiệp Quốc Tử Giám Chu Văn An – người thầy tiêu biểu đạo cao, đức trọng của nền giáo dục Việt Nam; Quốc Tử Giám – Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.

Văn Miếu được xây dựng từ năm 1070 dưới thời Vua Lý Thánh Tông (1054-1072), có tạc tượng Chu Công, Khổng Tử cùng tứ phối là Nhan Tử, Tăng Tử, Tư Tử, Mạnh Tử và hình vẽ các hiền nho để thờ cúng, bốn mùa tế lễ.

Năm 1076, Vua Lý Nhân Tông cho xây nhà Quốc Tử Giám kề sau Văn Miếu. Khi mới xây dựng, trường chỉ dành riêng cho con vua và con các bậc đại quyền quý (nên gọi tên là Quốc Tử). Từ năm 1253, Vua Trần Thái Tông cho mở rộng Quốc Tử Giám và thu nhận cả con cái thường dân có học lực xuất sắc.

Đời vua Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử Giám Tư nghiệp (Hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Đến năm 1370 Chu Văn An qua đời được Vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.

Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Vua Lê Thánh Tông cho dựng bia Tiến sĩ của những người đỗ Tiến sĩ từ khóa thi năm 1442 trở đi. Nay chỉ còn lại 82 tấm bia tiến sĩ.
Bia tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được Unesco công nhận là Di sản tư liệu thế giới thuộc Chương trình Ký ức Thế giới vào ngày 9/3/2010. Sau Mộc bản Triều Nguyễn, Bia Tiến sĩ Văn Miếu là di sản tư liệu thứ 2 của Việt Nam được đưa vào danh mục Di sản tư liệu thế giới.

Quốc Tử Giám là nơi đây học cho ai

Bia tiến sĩ

Năm 1762, vua Lê Hiển Tông cho sửa lại Quốc Tử giám làm Cơ sở đào tạo và giáo dục cao cấp của triều đình.

Năm 1785 Quốc Tử Giám được đổi thành nhà Thái học. Đến đầu thời Nguyễn, năm 1802, Gia Long bãi bỏ trường Quốc Tử Giám ở Hà Nội, đổi nhà Thái Học làm nhà Khải Thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử và xây dựng Khuê Văn Các ở trước Văn Miếu. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá.

Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám được bố cục đăng đối từng khu, từng lớp theo trục Bắc Nam, mô phỏng tổng thể quy hoạch khu Văn Miếu thờ Khổng Tử. Tuy nhiên, quy mô và kiến trúc ở đây đơn giản hơn.

Bốn mặt đều là phố, cổng chính phía Nam là phố Quốc Tử Giám, phía Bắc là phố Nguyễn Thái Học, phía Tây là phố Tôn Đức Thắng, phía Đông là phố Văn Miếu. Quần thể kiến trúc này nằm trên diện thích rộng 54.331 m2.

Trước mặt Văn Miếu có một hồ lớn gọi là hồ Văn Chương, tên cũ xưa gọi là Thái Hồ. Giữa hồ có gò Kim Châu, là nơi diễn ra các buổi bình văn thơ của nho sĩ kinh thành xưa.

Cổng chính Văn Miếu xây kiểu Tam quan, trên có 3 chữ “Văn Miếu Môn” kiểu chữ Hán cổ xưa.

Văn Miếu có tường bao quanh xây bằng gạch. Bên trong cũng có những bức tường ngăn ra làm 5 khu, mỗi khu vực đều có tường ngăn cách và cổng qua lại nhau.

Khu thứ nhất bắt đầu với cổng chính Văn Miếu Môn đi đến cổng Đại Trung Môn, hai bên có cửa nhỏ là Thành Đức Môn và Đạt Tài Môn.

Khu thứ hai từ Đại Trung Môn vào đến Khuê Văn các.

Khuê Văn các là công trình kiến trúc tuy không đồ sộ song tỷ lệ hài hòa và đẹp mắt. Kiến trúc gồm 4 trụ gạch vuông (85cm x 85cm) bên dưới đỡ tầng gác phía trên, có những kết cấu gỗ rất đẹp.

Tầng trên có 4 cửa hình tròn, hàng lan can con tiện và con sơn đỡ mái bằng gỗ đơn giản, mộc mạc. Mái ngói chồng hai lớp tạo thành công trình 8 mái, gờ mái và mặt mái phẳng.

Gác là một lầu vuông tám mái, bốn bên tường gác là cửa sổ tròn hình mặt trời tỏa tia sáng. Hai bên phải trái Khuê Văn các là Bi Văn Môn và Súc Văn Môn dẫn vào hai khu nhà bia Tiến sĩ.

Quốc Tử Giám là nơi đây học cho ai

Khuê Văn Các

Khuê Văn các ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được công nhận là biểu tượng của thành phố Hà Nội.

Khu thứ ba gồm hồ nước Thiên Quang Tỉnh (nghĩa là giếng soi ánh mặt trời), có hình vuông. Hai bên hồ là khu nhà bia tiến sĩ. Mỗi tấm bia được làm bằng đá, khắc tên các vị thi đỗ Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa, Hoàng giáp, Tiến sĩ. Bia đặt trên lưng rùa đá. Hiện còn 82 tấm bia về các khoa thi từ năm 1442 đến năm 1779. Đó là những di vật quý nhất của khu di tích.

Khu thứ tư là khu trung tâm và là kiến trúc chủ yếu của Văn Miếu, gồm hai công trình lớn bố cục song song và nối tiếp nhau. Tòa nhà ngoài là Bái đường, Tòa trong là Thượng cung.

Khu thứ năm là khu Thái Học. Trước kia đã có một thời kỳ đây là khu đền Khải thánh, thờ thân phụ, thân mẫu của Khổng Tử, nhưng đã bị phá hủy. Khu nhà Thái Học mới được thành phố Hà Nội xây dựng lại năm 1999.

Văn Miếu – Quốc Tử Giám đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là di tích quốc gia đặc biệt

Ngày nay, Văn Miếu-Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước đồng thời cũng là nơi khen tặng cho học sinh xuất sắc và còn là nơi tổ chức hội thơ hàng năm vào ngày rằm tháng giêng. Đặc biệt, đây còn là nơi các sĩ tử ngày nay đến “cầu may” trước mỗi kỳ thi.

Văn Miếu – Quốc Tử Giám được xây dựng tháng 8 năm Canh Tuất, tức tháng 10/1070 (đời vua Lý Thánh Tông) là nơi thờ các thánh hiền đạo nho (Khổng Tử, Mạnh Tử…). Sáu năm sau (1076), Lý Nhân Tông lập thêm Quốc Tử Giám ở kề phía sau, có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam ban đầu là nơi học của các hoàng tử, sau mở rộng thu nhận cả những học trò giỏi trong thiên hạ.

Quốc Tử Giám là nơi đây học cho ai

Với chức năng là nơi thờ Khổng Tử với những nghi lễ tế trang trọng được tổ chức hàng năm, vừa là nơi đào tạo bồi dưỡng tri thức Nho học của Nhà nước. Văn Miếu – Quốc Tử Giám là một cơ quan rất quan trọng của triều đình thời bấy giờ. Những người được bổ nhiệm đứng đầu Văn Miếu – Quốc Tử Giám đều là những Đại Khoa, những nhà khoa bảng lớn, có tri thức và tài năng đã đóng góp rất nhiều cho sự phát triển của đất nước và dân tộc.

Với lịch sử gần 1000 năm, nơi đây đã đào tạo nên hàng ngàn các bậc đại khoa, hiền tài cho đất nước. Là một trung tâm giáo dục lớn nhất nước ta thời xưa, Văn Miếu – Quốc Tử Giám đồng thời cũng là nơi hun đúc nên bao truyền thống văn hóa giáo dục quý báu trong đó có truyền thống hiếu học, tôn sư trọng đạo, truyền thống trọng hiền tài của dân tộc. Cũng vì thế, các thế hệ người Việt Nam xưa và nay đều tôn vinh Văn Miếu – Quốc Tử Giám là trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.

Việc tổ chức giảng dạy, học tập tại Quốc Tử Giám bắt đầu từ năm 1076 dưới thời Lý, phát triển và hoàn thiện dưới thời Lê thế kỷ 15.

Quốc Tử Giám có hai nhiệm vụ: rèn luyện cho các giám sinh dự thi Hội và báo cử những giám sinh tài đức lên triều đình để bổ dụng làm quan. Và dù là thi hay cử thì phần lớn giám sinh là những người đã qua thi Hương, đỗ hương cống, hoặc bị trượt kỳ thi Hội. Một số ít là tuyển từ con cháu các công thần có qua thi Hương nhưng chưa đỗ hương cống.

Đứng đầu Quốc Tử là Tế Tửu (Hiệu trưởng), Tư Nghiệp (Hiệu phó) Thời ). Phụ trách giảng dạy là các giảng viên với các chức Giáo Thụ, Trực giảng, Trợ giáo, Huấn đạo… có lúc đặt thêm ngũ kinh bác sĩ tức là năm vị chuyên giảng về năm pho kinh Thi, Lễ, Dịch, Xuân Thu.

Học trò trường Quốc Tử Giám là các Giám Sinh, chủ yếu là những người đã đỗ thi Hương, qua một kỳ kiểm tra ở Bộ Lễ vào Quốc Tử Giám để học tập, để chuẩn bị kỳ thi Hội và thi Đình. Giám Sinh chia ra làm 3 hạng.

– Thượng xá sinh, học bổng là 10 tiền một tháng – Trung xá sinh, học bổng là 9 tiền một tháng

– Hạ xá sinh, học bổng là 8 tiền một tháng.

Quá trình học tập giám sinh chủ yếu là phải tự học, tự nghiên cứu, nghe giảng sách, bình văn là làm văn, sách dùng cho việc học tập là Tứ Thư (đại học, trung dung, luận ngữ và Mạnh Tử), Ngũ Kinh (Thi, Thư, Lễ, Xuân Thu và dịch) các tuyển tập thơ phú cổ văn và Bắc sử.

Bài văn được chấm theo lối phân thành 4 loại: ưu, bình, thứ, liệt. Loại thứ lại chia làm thứ mác là bài có đoạn hay, thứ cộc thuộc loại xoàng. Bài kém bị phê liệt. Những bài thật hay được chọn đọc trong những buổi bình văn cho cả trường nghe, kèm theo những lời bình của thầy. Những lời bình này chính là những bài giảng sinh động và sâu sắc lại sát thực tế trình độ người học.

Giám sinh mỗi tháng có một kỳ tiểu tập, một năm có 4 kỳ đại tập, nếu đủ các kỳ học, sau khi trình Bộ Lễ xem xét đạt tiêu chuẩn mới vào thi Hội, thi Đình, phép thi Hội có 4 kỳ.

– Kỳ đệ nhất: Thi kinh nghĩa – Kỳ đệ nhị: Thi chế, chiếu, biểu – Kỳ đệ tam: Thi thơ phú

– Kỳ đệ tứ: Thi văn sách, trình bày kiến thức, mưu lược kế sách của mình nhằm giải đáp câu hỏi nêu lên trong bài. Trúng thi Hội mới vào thi Đình. Thi Đình được tổ chức ở sân Điện, Vua ra đề thi và chám duyệt lần cuối cùng.

Những người đỗ thi Đình xếp thành 3 hạng:

– Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ (Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa) – Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp)

– Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

Người đỗ đầu cả 3 kỳ thi Hương, thi Hội, thi Đình gọi là Tam Nguyên.

82 khoa thi được dựng bia ở Văn Miếu, ghi tên 1306 người đỗ trong số hơn 200.000 người dự thi.

Năm 1502 và năm 1667 đỗ ít nhất có 3 người

Năm 1478 đỗ nhiều nhất có 62 người.

Trong lịch sử khoa cử Việt Nam, người đỗ ít tuổi nhất là Nguyễn Hiền, đỗ Trạng Nguyên năm 1247 khi mới 13 tuổi. Người nhiều tuổi nhất là Quách Đồng Dần 68 tuổi đỗ Tiến sĩ năm 1634.

Quốc Tử Giám là trung tâm giáo dục lớn nhất cả nước thời phong kiến. Quốc Tử Giám đã góp phần đào tạo ra nhiều nhân tài cho đất nước, xứng đáng là Trường Đại học đầu tiên của Việt Nam.

Theo BAN QUẢN LÝ VĂN MIẾU – QUỐC TỬ GIÁM HÀ NỘI 

Tags: Khoa cử Việt Nam