Sáng kiến kinh nghiệm dạy trẻ mầm non kỹ năng sống

Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy trẻ về kỹ năng sống cho trẻ mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

mà trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa nhưng ít được quan tâm chú ý tới và ít người biết được rằng: Văn hóa trong ăn uống là một trong những tiêu chí đánh giá nhân cánh của con người. Vì thế, trẻ cần được rèn luyện kỹ năng thực hiện các nghi thức văn hóa ăn uống. Trong quá trình rèn kỹ năng sống cho trẻ nhằm thực hiện nội dung phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện-học sinh tích cực” 2. Thực trạng a. Thuận lợi: - Bộ Giáo dục - Đào tạo đã phát động phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện- học sinh tích cực” với những kế hoạch nhất quán từ trung ương đến địa phương, Phòng giáo dục - Đào tạo cũng đã có kế hoạch từng năm học với những biện pháp cụ thể để rèn kỹ năng sống cho học sinh một cách chung nhất cho các bậc học, đây chính là những định hướng giúp giáo viên thực hiện như: Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác; rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội. Trường học nơi tôi công tác là ngôi trường được xây mới, đang trên lộ trình đạt chuẩn quốc gia nên thuận lợi trong việc thực hiện nội dung xây dựng môi trường giáo dục sạch đẹp, an toàn cho trẻ. - Giáo viên đạt chuẩn về trình độ là một người giáo viên tôi luôn có sự ham thích, nhiệt tình, sáng tạo, có tinh thần tự học, tự rèn luyện, tìm tòi, học hỏi đồng nghiệp để khám phá nghiên cứu bài dạy tốt hơn. Đồ dùng dạy học tương đối đầy đủ, tất cả vì học sinh thân yêu. - Được sự quan tâm của ban giám hiệu, cấp ủy chính quyền điạ phương, các đoàn thể đã hướng tới sự nghiệp giáo dục . “ Mẫu giáo tốt, mở đầu nền giáo dục tốt” - Phòng học sạch sẽ thoáng mát, giáo viên nhiệt tình trong công tác, lập trường tư tưởng vững vàng và luôn có lòng yêu nghề mền trẻ. - Ban giám hiệu và chuyên môn phòng giáo dục quan tâm và tạo điều kiện để giáo viên học tập, tập huấn kịp thời các chuyên đề. b. Khó khăn. Về phía các bậc cha mẹ trẻ em luôn nóng vội trong việc dạy con; do đó, khi trẻ về nhà mà chưa biết đọc, viết chữ, hoặc chưa biết làm toán thì lo lắng một cách thái quá! Đồng thời lại chiều chuộng, cung phụng con cái khiến trẻ không có kỹ năng tự phục vụ, chỉ chú ý đến khâu dạy, không chú ý đến con mình ăn, uống như thế nào, trẻ có biết sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống hay không? Và vì sao chúng ta cần những đồ dùng, vật dụng đó? Những đồ dùng đó để làm gì? Đối với giáo viên mầm non Phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” tập trung nhiều nội dung chung cho các bậc học, giáo viên chưa hiểu nhiều về nội dung phải dạy trẻ lứa tuổi mầm non những kỹ năng sống cơ bản nào, chưa biết vận dụng từ những kế hoạch định hướng chung để rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Đa số giáo viên lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm nhưng việc đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực, chủ động, sáng tạo và ý thức vươn lên, rèn luyện khả năng tự học của học sinh còn gặp nhiều khó khăn; giáo viên trẻ tuổi ít hơn, năng động, sáng tạo nhưng lại khó trong công tác bồi dưỡng do nhận thức về nghề chưa sâu sắc. Với độ tuổi 5-6 tuổi cháu chuẩn bị vào lớp 1, được tiếp xúc với môi trường mới hoàn toàn khác lạ đối với môi trường mẫu giáo nếu cháu không được trang bị đầy đủ những kiến thức cơ bản nhất định thì cháu sẽ không hòa nhập với môi trường mới. Bước vào lớp một là một bước ngoặt quan trọng trong đời sống của đứa trẻ. Thế nhưng các bậc phụ huynh lại có rất nhiều người nghĩ rằng con mình đang còn nhỏ và trẻ tự lớn lên, mà quên người dẫn dắt, hướng dẫn trẻ - Một số phụ huynh chưa hiểu được tầm quan trọng của bậc học mầm non và dạy kỹ năng sống cho trẻ - Đó là những khó khăn cực kì nan dải đối với những giáo viên mầm non nhất là với bản thân tôi là một giáo viên trẻ kinh nghiệm còn rất ít. b. Thành công Năm học 2013-2014 tôi tiến hành tìm hiểu về nguyên nhân vì sao trẻ ít mạnh dạn trong giao tiếp chưa có các hành vi ứng xử trong mọi hoạt động phù hợp, khi tìm hiểu được nguyên nhân tôi đã tiến hành áp dụng các phương pháp mình đề ra và có sự tiến bộ rõ rệt. Hạn chế Tuy nhiên vẫn có một số vấn đề gặp khó khăn trong lúc tôi thực hiện , trẻ rất chậm vì từ lúc nhỏ đến lớn trẻ đã quen với cuộc sống trẻ thời gian tiếp xúc của trẻ với cô còn ít, phụ huynh còn chưa hợp tác, đôi lúc muốn bỏ cuộc, tinh thần không vui vẻ. c. Mặt mạnh Là một giáo viên trẻ tâm huyết với nghề và yêu trẻ, mong trẻ đạt được những điều tốt đẹp nhất cũng như hình thành và phát triển 5 mặt (đức, trí, thể, mỹ, lao động). Đối tượng tôi tiến hành thử nghiệm là lớp 5- 6 tuổi là năm cuối để chuyển sang bậc học mới. Mặt yếu Có thể do tôi là giáo viên trẻ nên có nhiều tâm tư tình cảm và sự chia sẽ không bằng các đồng nghiệp khác . d. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Do nhận thức của phụ huynh về tâm quan trọng của bậc học mầm non còn hạn chế Nhận thức về cuộc sống của phụ huynh chưa cao trong việc rèn kỹ năng sống cho trẻ. e. Phân tích đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra Mục đích thực nghiệm trong quá trình nghiên cứu thực trạng kỹ năng sống của trẻ lớp mẫu giáo lớn trường Mầm non EaTung, tôi nhận thấy trong những kỹ năng sống mà trẻ chưa được hình thành như: Kỹ năng thể hiện văn hoá giao tiếp, kỹ năng chăm sóc bản thân, kỹ năng tôn trọng người khác thì kỹ năng thể hiện văn hoá giao tiếp là một kỹ năng quan trọng, nó là sự tổng hợp của nhiều kỹ năng như kỹ năng quan sát, lắng nghe, hiểu lời nói...Nhận thấy mức độ cần thiết của việc hình thành kỹ năng thể hiện văn hóa giao tiếp người nghiên cứu đề ra một số biện pháp và lựa chọn những hoạt động phù hợp nhằm hình thành kỹ năng này ở trẻ. Cũng trong quá trình nghiên cứu, tôi nhận thấy giáo viên còn lúng túng trong việc xây dựng những biện pháp tác động sư phạm và những phương pháp cụ thể để hình thành một kỹ năng sống nào đó cho trẻ. Từ những lý do trên người nghiên cứu tiến hành xây dựng một số biện pháp tác động sư phạm nhằm hình thành kỹ năng sống cho trẻ. Tuy nhiên, vì một số điều kiện khách quan cũng như chủ quan,tôi chỉ tiến hành thực nghiệm hình với kỹ năng thể hiện văn hoá giao tiếp của trẻ lớp mẫu giáo lớn. Đó là những khó khăn nhất định đối với cô, Tuy nhiên được sự giúp đở của nhà trường, sự chia sẽ của đồng nghiệp nên tôi nghĩ rằng "tình yêu trẻ thơ" sẽ vượt qua được tất cả. 3. Giải pháp, biện pháp thực hiện 3.1. Mục tiêu của giải pháp Để hoàn thành vai trò giáo viên dạy kỹ năng sống cho trẻ, trong những tháng công tác tôi đã cố gắng tìm ra những giải pháp thiết thực và đảm bảo dạy trẻ kỹ năng sống bằng những kinh nghiệm, giải pháp. Sau đây tôi xin trình bày để các đồng nghiệp cùng tham khảo: 3.2. Giải pháp thực hiện Biện pháp 1: giúp giáo viên nhận thức sâu sắc về việc dạy trẻ kỷ năng sống Đầu năm học, tôi nghiên cứu thực trạng và giải pháp ở đơn vị trong việc hưởng ứng phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” do Bộ Giáo dục- Đào tạo phát động; qua đó giúp bản thân tôi hiểu được rằng chương trình học chính khoá thường cho trẻ tiếp xúc từ từ với các kiến thức văn hoá trong suốt năm học, còn thực tế trẻ sẽ học tốt nhất khi có được cách tiếp cận một cách cân bằng, biết cách phát triển các kỹ năng nhận thức, cảm xúc và xã hội. Vì thế, khi trẻ tiếp thu được những kỹ năng giao tiếp xã hội và các hành vi ứng xử cơ bản trong nhóm bạn, thì trẻ sẽ nhanh chóng sẵn sàng và có khả năng tập trung vào việc học văn hoá một cách tốt nhất. Biện pháp 2: giúp giáo viên xác định những kỹ năng sống cơ bản cần dạy trẻ ở lứa tuổi mầm non. Đối với tâm sinh lý trẻ em dưới sáu tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều nghiên cứu đều cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học là chính là những kỹ năng sống như: sự hợp tác, tự kiểm soát, tính tự tin, tự lập, tò mò, khả năng thấu hiểu và giao tiếp. Việc xác định được các kỹ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp tôi lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ . Biệp pháp 3: cụ thể hóa nội dung của những kỹ năng cơ bản mà giáo viên cần dạy trẻ: Kỹ năng sống tự tin : Một trong những kỹ năng đầu tiên mà giáo viên cần chú tâm là phát triển sự tự tin, lòng tự trọng của trẻ. Nghĩa là giúp trẻ cảm nhận được mình là ai, cả về cá nhân cũng như trong mối quan hệ với những người khác. Kỹ năng sống này giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin trong mọi tình huống ở mọi nơi. Kỹ năng sống hợp tác: Bằng các trò chơi, câu chuyện, bài hát giáo viên giúp trẻ học cách cùng làm việc với bạn, đây là một công việc không nhỏ đối với trẻ lứa tuổi này. Khả năng hợp tác sẽ giúp trẻ biết cảm thông và cùng làm việc với các bạn. Kỹ năng thích tò mò, ham học hỏi, khả năng thấu hiểu: Đây là một trong những kỹ năng quan trọng nhất cần có ở trẻ vào giai đoạn này là sự khát khao được học. Giáo viên cần sử dụng nhiều tư liệu và ý tưởng khác nhau để khêu gợi tính tò mò tự nhiên của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng, các câu chuyện hoặc các hoạt động và tư liệu mang tính chất khác lạ thường khêu gợi trí não nhiều hơn là những thứ có thể đoán trước được. Kỹ năng giao tiếp: Giáo viên cần dạy trẻ biết thể hiện bản thân và diễn đạt ý tưởng của mình cho người khác hiểu, trẻ cần cảm nhận được vị trí, kiến thức của mình trong thế giới xung quanh nó. Đây là một kỹ năng cơ bản và khá quan trọng đối với trẻ. Nó có vị trí chính yếu khi so với tất cả các kỹ năng khác như đọc, viết, làm toán và nghiên cứu khoa học. Nếu trẻ cảm thấy thoải mái khi nói về một ý tưởng hay chính kiến nào đó, trẻ sẽ trở nên dễ dàng học và sẽ sẵn sàng tiếp nhận những suy nghĩ mới. Đây chính là yếu tố cần thiết để giúp trẻ sẳn sàng học mọi thứ. Ngoài ra, ở trường mần non giáo viên cần dạy trẻ nghi thức văn hóa trong ăn uống qua đó dạy trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, rèn tính tự lập như: Biết tự rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn ăn, biết cách sử dụng những đồ dùng, vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, biết mời trước khi ăn, cảm ơn sau khi ăn, biết tự dọn, cất đúng chỗ bát, chén, thìa hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, ăn hết suất. không làm ảnh hưởng đến người xung quanh. Biện pháp 4: xác định nhiệm vụ cơ bản và phân công trách nhiệm trong việc dạy trẻ kỹ năng sống 4.1. Trách nhiệm của trường mầm non - Ban giám hiệu trao đổi với giáo viên để xác định mục tiêu của trường, kết quả mong đợi phù hợp với tiềm năng phát triển của trẻ và xây dựng kế hoạch năm học cho từng độ tuổi phù hợp với đặc điểm của chương trình. - Tạo điều kiện cho giáo viên tổ chức tốt các họat động nuôi dưỡng, chăm sóc giáo dục trẻ theo thời gian biểu của nhà trường đã đưa ra. -Tập huấn cho giáo viên về các kỹ năng làm việc với cha mẹ, tạo cơ hội, tổ chức nhiều hoạt động nhằm giúp giáo viên tăng cường phối hợp nhất quán với gia đình để dạy trẻ kỹ năng sống đạt hiệu quả. 4.2. Giáo viên có thể làm được gì để dạy kỹ năng sống cho trẻ? - Giáo viên cần tích cực đổi mới phương pháp giảng dạy nhằm khuyến khích sự chuyên cần, tích cực của trẻ, giáo viên cần phải biết khai thác phát huy năng khiếu, tiềm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Vì mỗi đứa trẻ là một nhân vật đặc biệt, phải giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. - Giáo viên cần thường xuyên tổ chức các họat động giáo dục chăm sóc giáo dục trẻ một cách thích hợp tuân theo một số quan điểm: Giúp trẻ phát triển đồng đều các lĩnh vực: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm- xã hội và thẩm mỹ. Phát huy tính tích cực của trẻ, giúp trẻ hứng thú, chủ động khám phá tim tòi, biết vận dụng vốn kiến thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tinh huống khác nhau. - Giáo viên cần giúp trẻ có được những mối liên kết mật thiết với những bạn khác trong lớp, trẻ biết chia sẻ chăm sóc, trẻ cần phải học về cách hành xử, biết lắng nghe trình bày và diễn đạt được ý của mình khi vào trong các nhóm trẻ khác nhau, giúp trẻ luôn cảm thấy tự tin khi tiếp nhận các thử thách mới. Điều này liên quan tới việc đứa trẻ có cảm thấy thoải mái, tự tin hay không đối với mọi người xung quanh, cũng như việc mọi người xung quanh chấp nhận đứa trẻ đó như thế nào? Cần chuẩn bị cho trẻ sự tự tin, thoải mái trong mọi trường hợp nhất là trong việc ăn uống để chúng ta không phải xấu hổ vì những hành vi không đẹp của trẻ. - Thường xuyên liên hệ với phụ huynh để kịp thời nắm tình hình của trẻ, trao đổi với phụ huynh những nội dung và biện pháp chăm sóc và giáo dục trẻ tại nhà, bàn bạc cách giải quyết những khó khăn gặp phải. Biện pháp 5: tuyên truyền các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng sống trong gia đình - Có thể thấy, trẻ thường dễ dàng kết bạn khi chơi theo đôi bạn trong môi trường của riêng chúng hơn là chơi trong một nhóm bạn tại trường. Nhiều giáo viên thấy rằng, một số trẻ có khó khăn trong việc kết bạn hoặc chia sẻ với bạn theo nhóm lớn, lại có thể hình thành mối liên kết thân thiết với bạn mới trong môi trường gia đình của trẻ. Cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc và xã hội bằng cách tạo ra các mối liên kết bạn bè tại gia đình. Cha mẹ hãy hỏi trẻ muốn mời ai về nhà chơi? Mối quan hệ này được trẻ duy trì khi đến trường, khi có được mối liên kết với một trẻ nào đó trong lớp, các mối quan hệ khác sẽ hình thành tiếp theo một cách dễ dàng hơn. - Tuyên truyền để cha mẹ trẻ không nên bực bội khi trẻ về đến nhà hoặc cho rằng trẻ chỉ biết chơi suốt ngày. Cha mẹ cần có niềm tin với sự hướng dẫn của giáo viên và năng khiếu tò mò bẩm sinh của trẻ, trẻ có thể lĩnh hội kinh nghiệm nhằm giải quyết các vấn đề quan trọng, đọc, làm toán, thử nghiệm một số kỹ năng khoa học khi chơi với nhau. - Cha mẹ trẻ cần phối hợp với giáo viên một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trừơng. Cha mẹ nên tham gia vào các buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và dự một số giờ học, dự các hoạt động ngoại khoá; chỉ bằng cách đó thôi cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng học là phải học cả đời. - Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của cuộc sống. Nếu cha mẹ múôn giáo dục trẻ biết tự giữ kỷ luật, trứơc hết cần đánh thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ về bản thân mình một cách tích cực và đừng bao giờ phá vở suy nghĩ tích cực về bản thân trẻ. - Trong gia đình, việc dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống rất cần thiết. Để trẻ có được những kỹ xảo, thói quen sử dụng đồ dùng một cách chính xác và thuần thục và khéo léo, không chỉ đòi hỏi trẻ phải thường xuyên luyện tập, mà còn phải đáp ứng được những nhu cầu của trẻ, đó là cung cấp cho trẻ những mẫu hành vi văn hóa, những hành vi đúng, đẹp, văn minh của chính cha mẹ và những người xung quanh trẻ. Biện pháp 6: chỉ dẫn cho giáo viên và tuyên truyền các bậc cha mẹ thực hiện dạy trẻ các kỷ năng sống cơ bản 6.1 Trứơc hết, người lớn phải gương mẫu, yêu thương, tôn trọng, đối xử công bằng với trẻ và đảm bảo an tòan cho trẻ. 6.2. Tạo điều kiện tốt nhất cho trẻ vui chơi. Giáo viên cần tạo các tình huống chơi trong chế độ sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Vì đối với trẻ chơi trò chơi có một vai trò rất quan trọng trong việc rèn kỷ năng sống cho trẻ. Trẻ lớn lên, học hành và khám phá thông qua trò chơi. Các hành động chơi đòi hỏi trẻ phải suy nghĩ, giải quyết các vấn đề, thực hành các ý tưởng. Ví dụ: Giáo viên có thể giới thiệu với trẻ về chữ cái và các con số thông qua các trò chơi đóng vai, các trò chơi xây dựng, các trãi nghiệm văn học và âm nhạc. 6.3. Liên tục đọc sách, trò chuyện, kể chuyện cho trẻ nghe - Giáo viên cần tranh thủ đọc sách cho trẻ nghe trong mọi tình huống như những giờ hoạt động góc ở một nhóm nhỏ, hoặc đọc sách trẻ nghe trong giờ trưa đối với những trẻ khó ngủ. - Tăng cường kể cho trẻ nghe các câu chuyện cổ tích qua đó rèn luyện đạo đức cho trẻ, giúp trẻ hoàn thiện mình, biết đọc sách, dạy trẻ yêu thương bạn bè, yêu thương con người. Tạo hứng thú cho trẻ nhỏ qua các truyện bằng tranh tùy theo lứa tuổi, gợi mở tính tò mò, ham học hỏi, phát triển khả năng thấu hiểu ở trẻ. Ví dụ: Khi kể chuyện “ Ba cô gái” giáo viên đặt những câu hỏi gợi mở như: Nếu là con khi hay tin mẹ bị ốm, con sẽ làm gì? gợi mở tính tò mò thay đổi đoạn kết của truyện có hậu hơn, đặt tên khác cho câu chuyện v,v. - Trong gia đình, cha mẹ luân phiên cùng anh chị lớn đọc sách cho trẻ nghe, hoặc thống nhất giờ đọc sách của gia đình, vào giờ đó các thành viên trong gia đình đều đọc sách, báo hoặc đọc một thứ gì đó của mình. - Khi còn nhỏ cha mẹ cần dành ra 15 phút / ngày để trò chuyện, đọc sách cho trẻ nghe các loại sách phù hợp với lứa tuổi. Khi trẻ có thể tự đọc được lúc đó việc đọc sách trở thành là niềm vui có giá trị và có ý nghĩa hơn giúp trẻ phát triển sự ham hiểu biết, tìm tòi phát triển nhân cách của trẻ. 6.4. Cô giáo, cha mẹ luôn khuyến khích trẻ nói lên quan điểm của trẻ, nói chuyện với các thành viên trong lớp, trong gia đình về cảm giác và về những lựa chọn của mình, cần giúp trẻ hiểu rằng nên có thông số để theo đó mà lựa chọn, cố gắng không chỉ trích các quyết định của trẻ. Việc này sẽ hình thành kỹ năng tự kiểm soát bản thân, rèn luyện tính tự tin cho trẻ khi tham gia các hoạt động và các buổi thảo luận tại trừơng sau này. 6.5. Cô giáo, cha mẹ giúp trẻ phát triển sở thích, ý thích của mình và đảm bảo rằng ngừơi lớn có thể cung cấp thêm phương tiện để trẻ thực hiện ý thích đó. Ví dụ như trẻ thích vẽ, ngoài việc cho trẻ học năng khiếu vẽ thì cô giáo, cha mẹ có thể cho trẻ thêm bút màu, giấy vẽ và hãy chỉ cho trẻ cách lưu giữ các bức tranh để tạo thành một bộ sưu tập tranh vẽ của chính trẻ hoặc triển lãm tranh của trẻ ở góc nhỏ trong nhà. 6.6. Cô giáo, cha mẹ cần dạy trẻ những nghi thức văn hóa trong ăn uống, biết cách sử dụng các đồ dùng ăn uống; hơn nữa trẻ sẽ được dạy cách sử dụng các đồ dung đúng chức năng một cách chính xác và thuần thục.Việc này được thực hiện trong giờ học, giờ sinh hoạt hàng ngày của trẻ tại lớp và trong bửa cơm gia đình. Cụ thể: Trẻ được làm quen với những đồ dùng, vật dụng khác nhau, (bộ đồ bếp, bộ đồ ăn, bộ đồ uống). Sự sạch sẽ, gọn gàng, một thói quen nề nếp, sự sắp đặt ngăn nắp, ngay ngắn những bộ đồ dùng, vật dụng, thái độ, ăn uống từ tốn, không vội vã, không khí cởi mở, thoải mái và đầm ấm, những cuộc trao đổi nhẹ nhàng, dễ chịu tất cả những yếu tố trên sẽ giúp trẻ có thói quen tốt để hình thành kỷ năng tự phục vụ và ý nghĩa hơn là kỹ năng sống tự lập sau này. Biện pháp 7: giúp trẻ phát triển các kỹ năng sống qua việc tổ chức các hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh trong nhà trừơng Nội dung phong trào“ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, trong đó có nội dung: Nhà trường cần tổ chức các hoạt động văn nghệ, thể thao một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của học sinh. Tổ chức các trò chơi dân gian và các hoạt động vui chơi giải trí tích cực khác phù hợp với lứa tuổi của học sinh. Căn cứ vào nội dung trên, tôi đã xây dựng kế hoạch và thực hiện nhiều hoạt động một cách thiết thực, khuyến khích sự tham gia chủ động, tự giác của trẻ. c. Điều kiện để thực hiện giải pháp, biện pháp. Để thực hiện tốt các giải pháp, biện pháp ta cần đảm bảo các điều kiện sau đây: Lồng ghép đan xen các biện pháp, giải pháp với nhau. Tiến hành một cách có khoa học hợp lý, có tổ chức. Được tiến hành thường xuyên và lâu dài. Giáo dục nghiêm túc và thấy được ưu điểm của các giải pháp, biện pháp mình đã đề ra. d. Mối quan hệ giữa các biện pháp, giải pháp Như ta đã biết để thực hiện được các giải pháp, biện pháp nhằm giúp trẻ phát triển kỷ năng sống, để đem lại kết quả một cách tốt nhất và hoàn thiện nhất ta cần hiểu được mối quan hệ giữa các biện pháp, giải pháp tôi nghĩ rằng đó là một mối quan hệ cộng hưởng, tồn tại cùng nhau và liên kết xuyên suốt với nhau biện pháp này. Thực hiện thì biện pháp sau sẽ hỗ trợ cho giải pháp đầu tiên chúng liên kết thành một thể thống nhất tồn tại trong h