Tại sao nói ngôn ngữ mang bản chất xã hội
BẢN CHẤT CỦA NGÔN NGỮ. 1.1 Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội. Ngôn ngữ được hình thành, tồn tại và phát triển trong xã hội loài người. Thế giới loài vật không có ngôn ngữ. Những tiếng kêu của động vật khi gọi bầy, khi âu yếm, khi tranh giành... chỉ là những tiếng kêu có tính bản năng, lẻ tẻ, không hệ thống, do đó không phải là ngôn ngữ thật sự. Pavlop gọi chúng là hệ thống tín hiệu thứ nhất; còn ngôn ngữ con người là hệ thống tín hiệu cấp cao - hệ thống tín hiệu thứ hai. Thế kií thứ 18, một số học giả thừa nhận học thuyết tiến hóa của Darwin và cho rằng ngôn ngữ là một hiện tượng tự nhiên, giống như một cơ thể sống, nó gần gũi với bản năng sinh vật. Tuy nhiên, điều này đã bị bác bỏ bằng các bằng chứng thực tế. Năm 1920, ở Ấn Ðộ, người ta tìm thấy hai em bé gái ở trong một hang sói. Lúc mới mang về, hai em (một lên tám, một nhỏ hơn) đều không biết nói. Do sống giữa thế giới động vật, hai em chỉ có thể phát ra được những tiếng kêu giống động vật chứ không phải là tiếng nói. Dần dần sống giữa thế giới loài người, được dạy và được học, em còn sống mới dần có thể nói được. Ðiều đó chứng tỏ rằng ngôn ngữ không phải là một hiện tượng tự nhiên và càng không phải là một bản năng sinh vật. Ngoài ra ngôn ngữ cũng không mang tính di truyền. Màu da, nước tóc, màu mắt... mang tính di truyền nhưng ngôn ngữ không mang tính di truyền. Bỏ một em bé sơ sinh Việt Nam ở bất cứ một đất nước nào trên thế giới, dần dần em sẽ không biết gì về tiếng mẹ đẻ, nhưng lại có thể nói được ngôn ngữ của cái tập thể mà em có quá trình chung sống và sinh hoạt. Ngôn ngữ là sản phẩm của tập thể, nó tồn tại và phát triển gắn liền với sự tồn tại và phát triển của xã hội. Trong quá trình phát triển, con ngưòi đã hợp tác với nhau trong lao động và hình thành ngôn ngữ. Mỗi tập thể khác hhau, có thể có một ngôn ngữ khác nhau. Ngôn ngữ đó sẽ không ngừng được cải tiến và hoàn thiện gắn liền với sự tồn tại và phát triển của tập thể xã hội ấy. Khi tập thể xã hội ấy không còn, ngôn ngữ cũng dần bị mai một và biến mất. Ðiển hình là bên cạnh những sinh ngữ cũng có rất nhiều tử ngữ mà nay chỉ còn tồn tại trên sách vở. Và tương tự, bắt một người đã trưởng thành nào đó rời xa quê hương và ngôn ngữ mẹ đẻ của họ, đến một thời gian nào đó, ngôn ngữ mẹ đẻ đó cũng sẽ dần bị lãng quên để nhường chỗ cho sự hoạt động của ngôn ngữ gắn với tập thể mà họ đang sống.
Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội còn vì nó phục vụ xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp, nó góp phần thể hiện ý thức xã hội. Mỗi tập thể khác nhau có một phong tục, tập quán, một cách thức cộng cư khác nhau, và theo đó các từ ngữ để gọi tên các khái niệm tương ứng cũng khác nhau. Thoát khỏi tập thể ấy, những từ ngữ ấy sẽ không được sử dụng và thậm chí không còn tồn tại nữa. Người ta đã bàn đến những nhân tố dân tộc, nhân tố văn hóa, nhân tố truyền thống trong ngôn ngữ. Chúng xuất phát chính từ điểm này. Chẳng thế mà thông qua ngôn ngữ, người ta có thể hiểu được ý thức của tập thể xã hội ấy. Trong cuốn Hệ tư tưởng Ðứïc, Mác và Ăng ghen đã viết: Ngôn ngữ là ý thức thực tại, thực tiễn, ngôn ngữ cũng tồn tại cho cả những người khác nữa, như vậy là cũng tồn tại lần đầu tiên cho bản thân tôi nữa. Và cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với người khác. (1) 1.2 Tính chất xã hội đặc biệt của ngôn ngữ. Mọi hiện tượng xã hội đều được xếp vào một trong hai phạm trù cơ sở hạ tầng hoặc kiến trúc thượng tầng. Không thể xếp ngôn ngữ vào cơ sở hạ tầng, bởi tự nó không tạo ra được một cái gì để nuôi sống con người, hay làm một công cụ trực tiếp để sản xuất ra của cải vật chất. Nó là một thứ công cụ nhưng là công cụ để con người giao tiếp và tư duy. Tuy nhiên, ngôn ngữ cũng không giống các hiện tượng xã hội khác thuộc kiến trúc thượng tầng. Một số bộ phận của kiến trúc thượng tầng sẽ sụp đổ theo khi cơ sở hạ tầng bị sụp đổ (pháp luật, nhà nước, thể chế chính trị...). Trong khi đó với tư cách là công cụ giao tiếp và tư duy, ngôn ngữ không bị biến mất khi cơ sở hạ tầng tan rã, nó vẫn được giữ lại, kế thừa và phát triển. Những bộ phận còn lại thuộc kiến trúc thượng tầng được hình thành dựa trên cơ sở hạ tầng (văn chương, nghệ thuật, triết học, tôn giáo, khoa học...) có quan hệ gián tiếp với hoạt động sản xuất thông qua quan hệ sản xuất xã hội nên những diễn biến xảy ra trong quá trình lao động sản xuất, trong lực lượng sản xuất, không được kiến trúc thượng tầng phản ánh tức thời. Trái lại, ngôn ngữ có quan hệ trực tiếp với lực lượng sản xuất, với hoạt động lao động sản xuất. Nó nhanh chóng và kịp thời phản ánh mọi mặt hoạt động của xã hội, từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng, đồng thời ảnh hưởng tới mọi sự đổi thay của chúng. Rõ ràng ngôn ngữ không thuộc cơ sở hạ tầng và không thuộc kiến trúc thượng tầng; nó phát triển hay biến mất không phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, không giống với kiến trúc thượng tầng mà theo quy luật riêng của nó. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội đặc biệt còn bởi vì nó không mang tính giai cấp. Triết học, luật pháp, chính trị, văn học nghệ thuật... mang tính giai cấp vì tư tưởng của một thời đại là tư tưởng của giai cấp thống trị. Nhưng ngôn ngữ không phải là tài sản riêng của một giai cấp nào, nó là sản phẩm của toàn xã hội và phục vụ toàn xã hội với tư cách là phương tiện giao tiếp và tư duy. Những nhà ngôn ngữ học Mácxit đã phê phán những quan điểm của Marr khi ông dựa vào lớp biệt ngữ để biện luận cho luận điểm ngôn ngữ mang tính giai cấp của mình. Biệt ngữ chỉ là những nhánh phụ của ngôn ngữ dân tộc, chúng không đủ sức làm nên diện mạo cho ngôn ngữ toàn dân. Hơn nữa biệt ngữ cũng không tồn tại lâu dài và không được toàn xã hội chấp nhận, sử dụng. Vả lại, thời công xã nguyên thủy, con người đã có ngôn ngữ để giao tiếp, lúc bấy giờ xã hội chưa có giai cấp nên hiển nhiên ngôn ngữ không thể mang tính giai cấp. Ðến khi xã hội phân chia giai cấp, ngôn ngữ cũng không thể mang tính giai cấp, bởi vì giai cấp thống trị và giai cấp bị trị vẫn phải liên hệ với nhau về kinh tế, về tổ chức xã hội. Do đó, giữa họ cần thiết phải có một phương tiện giao tiếp chung. Ngôn ngữ có thể được các giai cấp sử dụng như một phương tiện đấu tranh giai cấp, nhưng bản thân nó không mang tính giai cấp, nó là phương tiện giao tiếp của toàn dân, phục vụ toàn dân. Tóm lại, ngôn ngữ không thuộc cơ sở hạ tầng, cũng không thuộc kiến trúc thượng tầng. Nó là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Nó là phương tiện giao tiếp của cả cộng đồng trong mọi mặt hoạt động xã hội kinh tế, chính trị, pháp luật, văn học nghệ thuật...2. Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu (hay tín hiệu) đặc biệt.
2.1. Khái niệm hệ thống: - Nói đến hệ thống là nói đến một cái gì đó gồm nhiều yếu tố. Một yếu tố không làm nên hệ thống được. Phải có từ hai yếu tố trở lên mới làm nên hệ thống. - Tuy nhiên, một bó đũa, một thúng khoai không được gọi là hệ thống. Các yếu tố còn phải có quan hệ. Nói đến hệ thống là phải nói đến quan hệ. Các yếu tố trong hệ thống quan hệ chặt chẽ với nhau, quy định lẫn nhau. Mối quan hệ đó có thể đơn giản hay phức tạp và có thể diễn ra theo từng cấp độ khác nhau. Thí dụ: toàn bộ Trường đại học Cần Thơ là một hệ thống. Hệ thống ấy bao gồm nhiều tiểu hệ thống khác nhau: các khoa, các phòng... Các khoa, phòng... có quan hệ chặt chẽ với nhau và dưới sự điều khiển chung của Ban giám hiệu. Ở từng khoa, phòng... lại có rất nhiều bộ phận. Từng bộ phận lại có rất nhiều thành viên. Các thành viên trong các bộ phận có quan hệ chặt chẽ với nhau, đồng thời có quan hệ với toàn trường. - Ngoài ra, nói tới hệ thống người ta còn phải bàn tới giá trị. Giá trị là cái mà hệ thống đem lại cho yếu tố. Trong Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng (1), Ðỗ Hữu Châu phân biệt khái niệm thực thể và yếu tố. A là một thực thể và A chỉ trở thành một yếu tố khi nó thuộc một hệ thống nào đó. Thực thể A có thể là yếu tố của nhiều hệ thống khác nhau và trong các hệ thống khác nhau đó giá trị của A cũng không giống nhau. Trong quan hệ với lớp học, A là lớp trưởng. Tuy nhiên, trong quan hệ với gia đình, giá trị lớp trưởng không còn và A chỉ có thể là một người con hoặc một người cha trong gia đình. Vậy, hệ thống là một chỉnh thể (hay cấu trúc) những yếu tố có quan hệ với nhau, trong đó giá trị của mỗi yếu tố là do mối quan hệ giữa nó với các yếu tố khác quy định. b) Khác với các hệ thống tín hiệu khác, các đơn vị ngôn ngữ có tính võ đoán. Ðó là tính không có lí do trong quan hệ giữa âm và nghĩa trong phạm vi từ và giữa các từ ngữ khi chúng kết hợp với nhau trong phạm vi câu. Người ta không thể chỉ ra lí do chính xác tại sao cái cây lại được gọi là thụ trong tiếng Hán, tree trong tiếng Anh, arbre trong tiếng Pháp, cây trong tiếng Việt...Và cũng không biết tại sao người Việt hỏi Cái bàn ở đâu? trong khi người Anh, Pháp lại hỏi Ðâu ở cái bàn? Và tại sao người Việt nói Tôi ăn cơm. Nó đánh con tôi trong khi người Hà Nhì ở Lai Châu, Lào Cai lại nói Ngá á họ chạ (Tôi - cơm - ăn) và Hí gạ nga zà tsi (Nó - tôi - con - đánh), nghĩa là theo một trật tự khác hẳn. c) Ngôn ngữ còn mang tính hình tuyến. Khi dùng ngôn ngữ để giao tiếp, người ta phải nói lần lượt từng đơn vị nối tiếp nhau, và người nghe cũng vậy, phải tiếp nhận các đơn vị lần lượt theo trục thời gian. Người nói không thể phát ra nhiều đơn vị đồng loạt ở một thời điểm. Theo đó người nghe cũng không thể tiếp nhận cùng một lúc nhiều đơn vị như đối với nhiều loại tín hiệu khác (âm nhạc, hội họa, tín hiệu giao thông ở ngã tư đường...). d) Hệ thống kí hiệu ngôn ngữ phức tạp nhất trong mọi hệ thống kí hiệu. Theo André Martinet, kí hiệu ngôn ngữ có thể được phân thành hai bậc: bậc khu biệt nghĩa và bậc mang nghĩa. Trong khi mỗi thông tin trong các hệ thống kí hiệu khác là một thể hoàn chỉnh, không phân tích được và cũng không thể tổng hợp được thì các đơn vị ngôn ngữ thường không thông báo một thông tin hoàn chỉnh; chúng chỉ làm chất liệu để tạo nên các kết cấu ngữ pháp làm chức năng thông báo (câu, phát ngôn). Trong ngôn ngữ còn có những đơn vị chỉ có chức năng ngữ pháp thuần túy (hư từ), chúng không thể biểu thị một thực tại nào ở ngoài ngôn ngữ. Các đơn vị ngôn ngữ thuộc nhiều cấp độ khác nhau khi đi vào thực hiện chức năng giao tiếp thường liên hệ với nhau theo nhiều quan hệ rất phức tạp. Trong quan hệ tôn ti, các đơn vị thuộc cấp độ thấp hơn là thành tố để cấu tạo nên đơn vị thuộc cấp độ cao hơn, và đơn vị thuộc cấp độ cao hơn bao giờ cũng gồm ít nhất một đơn vị thuộc cấp độ thấp hơn. Trong quan hệ ngữ đoạn, các đơn vị kết hợp trên hình tuyến lại phải cùng thuộc một cấp độ. Thuộc ngôn ngữ, âm vị kết hợp âm vị để tạo nên âm tiết, hình vị kết hợp hình vị để tạo nên từ; thuộc lời nói, từ kết hợp với từ để tạo ra ngữ đoạn (ngữ, cú), ngữ đoạn kết hợp với nhau để tạo nên câu, câu kết hợp với nhau để tạo nên chỉnh thể trên câu, chỉnh thể trên câu kết hợp với nhau để tạo nên văn bản. Về mặt lí thuyết, một văn bản tối giản cần được hiểu là văn bản gồm một chỉnh thể trên câu, chỉnh thể trên câu này gồm một câu, câu này gồm một ngữ đoạn, ngữ đoạn này gồm một từ, từ này gồm một hình vị, hình vị này gồm một âm tiết, âm tiết này gồm một âm vị. Hiện nay, nhiều hệ thống kí hiệu đã được tạo ra trên cơ sở điểm đặc biệt này của hệ thống ngôn ngữ. e) Hệ thống kí hiệu ngôn ngữ mang tính vạn năng và vô hạn. Các hệ thống kí hiệu khác chỉ có thể dùng trong một hoặc một số phạm vi nhất định trong cuộc sống. Hệ thống kí hiệu để giao tiếp giữa tàu, thuyền trên sông biển sẽ không thể dùng để giao tiếp trong ngành đường sắt. Ngôn ngữ Pascal với các ấn bản (version) khác nhau dùng lập trình trong tin học không thể dùng trong sinh hoạt gia đình... Riêng ngôn ngữ có thể dùng trong bất cứ lĩnh vực nào. Chỉ có những trường hợp con người không muốn dùng ngôn ngữ chứ không có những trường hợp không thể dùng ngôn ngữ . Các hệ thống kí hiệu khác chỉ có thể diễn đạt một lượng thông tin hạn chế. Hiệu trống trường chỉ nói được vài thông tin, hệ thống bảng hiệu giao thông chỉ báo được vài mươi điều. Riêng ngôn ngữ, có thể dùng để truyền đạt số lượng thông tin vô hạn. Chỉ có những hạn chế trong lời nói cá nhân, không có hạn chế trong việc thông tin bằng ngôn ngữ. g) Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu phức tạp nhất so với các hệ thống kí hiệu do quy ước mà có; nhưng đối với người bản ngữ, nó lại rất quen thuộc và dường như là một cái gì đó khá đơn giản; nó có từ lâu đời cũng như ý thức. Con người sinh ra và lớn lên là có thể tự nhiên có nó nếu không bị tách ra khỏi cuộc sống của cộng đồng.Tóm lại, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu nhưng là một hệ thống kí hiệu đặc biệt, nó có cấu trúc phức tạp và giàu sức sống hơn bất cứ hệ thống kí hiệu nào. |