Tại sao vùng ngoài đê của Đồng bằng sông Hồng đất rất màu mỡ

Đồng bằng sông Hồng
Giới thiệu
[Đóng]
Diện tích
14.862,5 km2 (2007)
Dân số
18.400.600 người (2007)
Mật độ
1.238 người/km2

Đồng bằng sông Hồng là tên gọi chung cho vùng đất do phù sa sông Hồngsông Thái Bình bồi đắp. Đây là một trong hai vùng kinh tế của miền Bắc Việt Nam: Vùng núi và trung du phía Bắc (gồm Đông Bắc và Tây Bắc) và Đồng bằng sông Hồng. Từ xưa, người Việt đã cư trú tại đây, đặc điểm canh tác chủ yếu là trồng lúa nước, đơn vị cư trú là làng.

Đồng bằng sông Hồng rộnghơn1,4 triệu ha, chiếm 3,8% diện tích toàn quốc với một vùng biển bao la ở phía Đông và Đông Nam. Số dân của vùng là 18.400.600 người (2007), chiếm 21,6% số dân cả nước. Hiện tại cũng như trong tương lai, Đồng bằng sông Hồng là một trong những vùng đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Vùng là cái nôi của văn minh sông Hồng, nền văn minh đồ đồng phát triển rực rỡ với trống đồng, thạp đồng, mũi tên đồng, với nông nghiệp trồng lúa nước. Hiện tại, Đồng bằng sông Hồng bao gồm 10 tỉnh thành: Bắc Ninh, Hà Nam, Hà Nội, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Vĩnh Phúc.

Đồng bằng sông Hồng là một trong những vùng kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt trong phân công lao động của cả nước. Đây là vùng có vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng, dân cư đông đúc, nguồn lao động dồi dào, mặt bằng dân trí cao.

Điều kiện tự nhiên

Vùng Đồng bằng sông Hồng có toạ độ địa lí là 220 - 21030' B và 105030' - 1070 Đ, nằm ở phía Nam của đường chí tuyến Bắc. Vùng bao gồm đồng bằng châu thổ màu mỡ, dải đất rìa trung du với một số tài nguyên khoáng sản, tài nguyên du lịch và vịnh Bắc Bộ giàu tiềm năng.

Như đúng tên gọi của vùng, sông Hồng đã gắn bó ngàn đời nay với cư dân của vùng đồng bằng châu thổ này. Địa hình của vùng tương đối bằng phẳng, có độ cao từ 0,4 - 12m so với mực nước biển. Ngoài ra, địa hình cũng có một số vùng đồi có cấu tạo cacxtơ đá vôi dọc hai cánh Tây Nam và Đông Bắc.

Vùng có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới gió mùa. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 22,5 - 23,50C. Lượng mưa trung bình năm là 1400 - 2000mm.

Vùng có vị trí thuận lợi cho sự phát triển kinh tế xã hội. Đây là cầu nối giữa Đông Bắc, Tây Bắc với Bắc Trung Bộ, đồng thời cũng nằm ở trung tâm miền Bắc, trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, có thủ đô Hà Nội là trung tâm công nghiệp, hành chính, chính trị cao nhất nước... Vùng lại tiếp giáp với hơn 400km bờ biển, có cửa ngõ thông ra biển qua cảng Hải Phòng, dễ dàng mở rộng giao lưu với các vùng khác và các nước trong khu vực. Tuy nhiên, do nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa nên thường xuyên chịu ảnh hưởng của thiên tai như bão, lũ lụt, hạn hán.

Tại sao vùng ngoài đê của Đồng bằng sông Hồng đất rất màu mỡ

Cánh đồng hoa màu bên bờ sông Hồng - Ảnh : Hoàng Chí Hùng

Tài nguyên thiên nhiên của vùng khá đa dạng, đặc biệt là đất phù sa sông Hồng. Đồng bằng sông Hồng là nơi có nhiều khả năng để sản xuất lương thực, thực phẩm. Trên thực tế, đây là vựa lúa lớn thứ hai của cả nước, sau Ðồng bằng sông Cửu Long. Số đất đai sử dụng cho nông nghiệp là trên 70 vạn ha, chiếm 56% tổng diện tích tự nhiên của vùng, trong đó 70% đất có độ phì từ trung bình trở lên. Ngoài số đất đai phục vụ nông nghiệp và các mục đích khác, số diện tích đất chưa được sử dụng vẫn còn hơn 2 vạn ha.
Nhìn chung, đất đai của Ðồng bằng sông Hồng khá màu mỡ do được phù sa của hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình bồi đắp. Tuy vậy, độ phì nhiêu của các loại đất không giống nhau ở khắp mọi nơi. Đất không được bồi đắp hàng năm vẫnmàu mỡhơn đất được bồi đắp.Đất thuộc vùng châu thổ sông Hồng phì nhiêu hơn đất thuộc vùng châu thổ sông Thái Bình. Có giá trị nhất đối với việc phát triển cây lương thực ở Ðồng bằng sông Hồng là diện tích đất không được phù sa bồi đắp hàng năm (đất trong đê). Loại đất này chiếm phần lớn diện tích châu thổ, đã bị biến đổi nhiều do trồng lúa.
Vùng có hai hệ thống sông lớn là hệ thống sông Hồng và hệ thống sông Thái Bình nên nguồn nước rất phong phú. Cả nguồn nước trên mặt lẫn nguồn nước ngầm đều có chất lượng rất tốt. Tuy nhiên, vùng cũng có xảy ra tình trạng quá thừa nước trong mùa mưa và thiếu nước trong mùa khô.

Vùng còn có bờ biển dài, có ngư trường Hải Phòng - Quảng Ninh, cảng Hải Phòng, khu du lịch Đồ Sơn.

Điều kiện khí hậu và thuỷ văn thuận lợi cho việc thâm canh tăng vụ trong sản xuất nông nghiệp. Thời tiết mùa đông rất phù hợp với một số cây trồng ưa lạnh.

Tài nguyên có giá trị đáng kể là các mỏ đá (Hải Phòng, Hà Nam, NinhBình), sét cao lanh (Hải Dương), than nâu (Hưng Yên), khí tự nhiên (Thái Bình). Về khoáng sản thì vùng có trữ lượng lớn về than nâu, đá vôi, sét, cao lanh. Đặc biệt, mỏ khí đốt Tiền Hải đã được đưa vào khai thác nhiều năm nay và đem lại hiệu quả kinh tế cao.

Nguồn tài nguyên biển đang được khai thác có hiệu quả nhờ phát triển nuôi trồng và đánh bắt thủy sản, du lịch

Tuy nhiên, vùng thiếu nguyên liệu cho việc phát triển công nghiệp, phần lớn nguyên liệu phải được nhập từ vùng khác. Một số tài nguyên của vùng bị suy thoái do khai thác quá mức.

Đặc điểm dân cư, xã hội

Vùng Đồng bằng sông Hồng gồm có 10 tỉnh, thành là Hà Nội, Bắc Ninh, Hà Nam, Hải Dương, Hải Phòng, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Thái Bình, Vĩnh Phúc.

Tên vùng, tỉnh

Dân số (nghìn người)

Diện tích (km2)

Mật độ (người/km2)

Cả nước

85.154,9

331.211,6

257

Đồng bằng sông Hồng

18.400,6

14.862,5

1.238

Hà Nội

6.232,9

3.325

1805

Vĩnh Phúc

1.190,4

1.373,2

867

Bắc Ninh

1.028,8

823,1

1.250

Hải Dương

1.732,8

1.652,8

1.048

Hải Phòng

1.827,7

1.520,7

1.202

Hưng Yên

1.156,5

923,5

1.252

Thái Bình

1.868,8

1.546,5

1.208

Hà Nam

825,4

859,7

960

Nam Định

1991,2

1.650,8

1.206

Ninh Bình

928,5

1.392,4

667

Nguồn : Tổng cục Thống kê 2007

(riêng số liệu về Hà Nội cập nhật đến tháng 8/2008, sau khi sáp nhập với Hà Tây)

Đồng bằng sông Hồng là vùng dân cư đông đúc nhất cả nước. Mật độ dân số trung bình là 1238 người/km2 (năm 2007).Mặc dù tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số trong vùng giảm mạnh nhưng mật độ dân số vẫn cao, gấp 5 lần so với mật độ trung bình của cả nước, gấp gần 3 lần so với Đồng bằng sông Cửu Long, gấp 10 lần so với Miền núi và trung du Bắc Bộ và gấp 17,6 lần so với Tây Nguyên. Đây là một thuận lợi vì vùng có nguồn lao động dồi dào với truyền thống kinh nghiệm sản xuất phong phú, chất lượng lao động dẫn đầu cả nước. Thế nhưng, dân số đông cũng đem đến những khó khăn nhất định, gây sức ép nặng nề lên sự phát triển kinh tế - xã hội của vùng.

Những nơi dân cư đông nhất của vùng là Hà Nội (1805 người/km2 ), Thái Bình (1.028 nngười/km2), Hải Phòng (1.202 người/km2), Hưng Yên (1.252 người/km2). Ở các nơi khác, chủ yếu thuộc khu vực rìa phía Bắc và Đông Bắc của châu thổ, dân cư thưa hơn.
Sự phân bố dân cư quá đông ở Đồng bằng sông Hồng liên quan tới nhiều nhân tố như nền nông nghiệp thâm canh cao với nghề trồng lúa nước là chủ yếu đòi hỏi phải có nhiều lao động. Trong vùng còn có nhiều trung tâm công nghiệp quan trọng và một mạng lưới các đô thị khá dày đặc. Ngoài ra, Đồng bằng sông Hồng đã được khai thác từ lâu đời và có các điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho hoạt động sản xuất và cư trú của con người.
Ở Đồng bằng sông Hồng, dân số gia tăng vẫn còn nhanh. Vì vậy, tốc độ tăng dân số chưa phù hợp với nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội. Điều này gây khó khăn cho việc phát triển kinh tế - xã hội của đồng bằng.
Việt Nam là nước có diện tích canh tác tính theo đầu người rất thấp (892m2). Trên cái nền chung ấy, chỉ số này ở Ðồng bằng sông Hồng còn thấp hơn nhiều do bị sức ép quá nặng nề của dân số. Ở đây, bình quân mỗi đầu người chỉ đạt khoảng ½ con số trung bình của cả nước. Đất canh tác ít, dân đông nên phải đẩy mạnh thâm canh. Song nếu thâm canh không đi đôi với việc hoàn lại đầy đủ các chất dinh dưỡng sẽ làm cho đất đai ở một số nơi bị giảm độ phì nhiêu.

Dân số đông và sự gia tăng dân số đã để lại những dấu ấn đậm nét về kinh tế - xã hội. Mặc dù mức gia tăng dân số đã giảm nhiều, nhưng sản xuất nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu tích luỹ và cải thiện đời sống nhân dân. Hàng loạt vấn đề xã hội như việc làm, nhà ở, y tế, văn hoá, giáo dục vẫn còngây bức xúc.
Trong nhiều năm qua, nước ta đã tiến hành phân bố lại dân cư và lao động trên phạm vi cả nước. Đối với Ðồng bằng sông Hồng, điều đó có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngay từ năm 1961 đã có nhiều người từ Đồng bằng sông Hồng chuyển lên các tỉnh thuộc miền núi Tây Bắc và một số tỉnh thuộc miền núi Đông Bắc. Nhưng phải đến cuối những năm 70 và đầu những năm 80 của thế kỉ này, việc chuyển cư mới được thực hiện với quy mô lớn. Trong thời kỳ 1984 1989, tỉ lệ chuyển cư thuần tuý (tương quan giữa tỉ lệ người chuyển đến và tỉ lệ người chuyển đi) của hầu hết các tỉnh trong vùng đều mang giá trị âm, nghĩa là số người chuyển đi nhiều hơn số người chuyển đến Đồng bằng sông Hồng.
Ngoài vấn đề chuyển cư, giải pháp hàng đầu ở Ðồng bằng sông Hồng là việc triển khai có hiệu quả công tác dân số và kế hoạch hoá gia đình nhằm giảm tỉ lệ sinh. Đồng thời, trên cơ sở lựa chọn cơ cấu kinh tế hợp lí, từng bước giải quyết việc làm tại chỗ cho lực lượng lao động thường xuyên tăng lên, tiến tới nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân trong vùng.


Một số chỉ tiêu phát triển dân cư, xã hội ở Đồng bằng sông Hồng năm 1999

Tiêu chí

Đơn vị tính

Đồng bằng sông Hồng

Cả nước

Tỉ lệ gia tăng tự nhiên của dân số

%

1,1

1,4

Tỉ lệ thất nghiệp ở đô thị

%

9,3

7,4

Tỉ lệ thiếu việc làm ở nông thôn

%

26

26,5

Thu nhập bình quân đầu người

Nghìn đồng

280,3

295

Tỉ lệ người lớn biết chữ

%

94,5

90,3

Tuổi thọ trung bình

Năm

73,7

70,9

Tỉ lệ dân thành thị

%

19,9

23,6

Nguồn : Địa lí kinh tế Việt Nam - NXB Giáo dục - 2006

Đồng bằng sông Hồng là vùng có kết cấu hạ tầng nông thôn hoàn thiện nhất trong cả nước. Với chiều dài tổng cộng hơn 3000km, hệ thống đê điều được xây dựng và bảo vệ từ đời này qua đời khác, không chỉ là bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng mà còn là nét độc đáo của nền văn hoá sông Hồng, văn hoá Việt Nam. Cơ sở vật chất của vùng cũng ngày càng hoàn thiện, đặc biệt là mạng lưới đường giao thông.

Do được khai thác từ lâu đời, vùng tập trung nhiều lễ hội, làng nghề, di tích văn hoá lịch sử, có mạng lưới đô thị phát triển. Đồng bằng sông Hồng có một số đô thị hình thành từ lâu đời. Kinh thành Thăng Long, nay là thủ đô Hà Nội được thành lập từ năm 1010. Thành phố cảng Hải Phòng là cửa ngõ quan trọng hướng ra vịnh Bắc Bộ.

Tuy nhiên, đời sống người dân ở Đồng bằng sông Hồng cũng còn nhiều khó khăn do kinh tế dịch chuyển chậm, dân số quá đông.

Tình hình phát triển kinh tế

Đồng bằng sông Hồng là một khu vực có tốc độ phát triển kinh tế nhanh, nhưng nếu so với vùng Đông Nam Bộ thì các tỉnh Đồng bằng sông Hồng có tỷ trọng đóng góp vào GDP và xuất khẩu của cả nước thấp hơn, cơ sở hạ tầng còn yếu kém và thu hút được ít các nguồn vốn đầu tư hơn. Nguyên nhân chính của tình hình này là do cả khu vực còn thiếu cơ chế chính sách đồng bộ, chưa hình thành được thị trường bất động sản, thị trường vốn, cũng như chưa có một quy hoạch tổng thể để phát huy lợi thế so sánh của cả vùng. Theo kế hoạch phát triển các tỉnh Đồng bằng sông Hồng, từ nay đến năm 2010, vùng sẽ phải giữ được tốc độ tăng trưởng liên tục trên 10% và đóng góp khoảng 24% cho GDP của cả nước so với 20% như hiện nay. Mục tiêu đến trước năm 2020, tỷ lệ này sẽ phải là 27%.

Đồng bằng sông Hồng cũng là nơi tập trung nhiều các cảng biển, khu công nghiệp, nông nghiệp nên có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế và tốc độ tăng trưởng ngày càng tăng.

Cơ cấu kinh tế của vùng đang có sự chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỉ trọng khu vực I, tăng nhanh tỉ trọng khu vực II và III trên cơ sở đảm bảo tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, gắn liền với việc giải quyết các vấn đề xã hội. Trong kế hoạch từ nay đến năm 2010, tỉ trọng 3 khu vực sẽ đạt lần lượt là 20%, 34%, 46%.

Công nghiệp

Công nghiệp Đồng bằng sông Hồng hình thành sớm nhất và phát triểnmạnh trong thời kì đất nước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Giá trị công nghiệp ở Đồng bằng sông Hồng tăng mạnh từ 18,3 nghìn tỉ đồng (năm 1995) lên 55,2 nghìn tỉ đồng, chiếm 21% GDP công nghiệp của cả nước (năm 2002)

Phần lớn giá trị công nghiệp tập trung ở các thành phố Hà Nội, Hải Phòng.

Các ngành công nghiệp trọng điểm của Đồng bằng sông Hồng là công nghiệp chế biến lương thực thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, sản xuất vật liệu xây dựng và công nghiệp cơ khí. Sản phẩm công nghiệp quan trọng của vùng là máy công cụ, động cơ điện, phương tiện giao thông, thiết bị điện tử, hàng dệt kim, giấy viết, thuốc ...

Việc chuyển dịch cơ cấu trong ngành công nghiệp cũng được thực hiện qua việc hình thành các ngành trọng điểm dựa trên thế mạnh của vùng về tự nhiên và dân cư như dệt may, giày da, cơ khí điện tử, vật liệu xây dựng, chế biến lương thực thực phẩm.

Nông nghiệp

Về diện tích và tổng sản lượng lương thực, Đồng bằng sông Hồng chỉ đứng sau Đồng bằng sông Cửu Long, nhưng là vùng có trình độ thâm canh cao nên năng xuất lúa rất cao. Hầu hết các tỉnh ở Đồng bằng sông Hồng đều phát triển một số cây ưa lạnh đem lại hiệu quả kinh tế lớn như các cây ngô đông, khoai tây, su hào, bắp cải, cà chua và trồng hoa xen canh. Hiện nay, vụ đông đang trở thành vụ chính của một số địa phương trong vùng.

Tại sao vùng ngoài đê của Đồng bằng sông Hồng đất rất màu mỡ

Mùa thu hoạch - Ảnh : Hoàng Chí Hùng

Từ bao đời nay, người dân đồng bằng sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm. Đó là vốn rất quý để đẩy mạnh sản xuất. Ngoài ra, sự phát triển của nền kinh tế cùng với hàng loạt các chính sách mới cũng góp phần quan trọng cho việc giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm ở Đồng bằng sông Hồng.
Trong cơ cấu ngành nông nghiệp, ngành trồng cây lương thực luôn giữ địa vị hàng đầu. Diện tích cây lương thực là khoảng 1,2 triệu ha, chiếm khoảng 14% diện tích cây lương thực của cả nước. Sản lượng lương thực là 6,1 triệu tấn, chiếm 18% sản lượng lương thực toàn quốc (1999).
Trong các cây lương thực, lúa có ý nghĩa quan trọng nhất cả về diện tích và sản lượng. Hàng năm, Ðồng bằng sông Hồng có hơn 1 triệu ha đất gieo trồng lúa. Với con số này, lúa chiếm 88% diện tích cây lương thực của vùng và chiếm khoảng 14% diện tích gieo trồng lúa của cả nước (1999).
Cây lúa có mặt ở hầu hết các nơi, nhưng tập trung nhất và đạt năng suất cao nhất là ở các tỉnh Thái Bình, Nam Định, Hải Dương, Hưng Yên, Ninh Bình. Thái Bình trở thành tỉnh dẫn đầu cả nước về năng suất lúa (61,6 tạ/ha năm 1999). Nhiều huyện, hợp tác xã đạt năng suất 8 10 tấn/năm.
Ngành trồng cây lương thực, đặc biệt là trồng lúa ở đây đã có từ lâu đời và được thâm canh với trình độ cao nhất trong cả nước. Tuy vậy, việc đảm bảo lương thực cho con người và cho các nhu cầu khác (phục vụ chăn nuôi, công nghiệp chế biến v.v) còn bị hạn chế. Mức bình quân lương thực theo đầu người ở Đồng bằng sông Hồng vẫn thấp hơn mức bình quân của cả nước (414 kg/người so với 448 kg/người năm 1999).
Vấn đề thực phẩm liên quan đến cơ cấu bữa ăn và ảnh hưởng nhiều tới cơ cấu cây trồng. Ở Đồng bằng sông Hồng, việc sản xuất thực phẩm chưa tương xứng với tiềm năng hiện có.
Rau các loại có diện tích gieo trồng hơn 7 vạn ha, chiếm 27,8% diện tích rau cả nước, tập trung chủ yếu ở vành đai xung quanh các khu công nghiệp và thành phố.
Nguồn thực phẩm của vùng đồng bằng phụ thuộc nhiều vào ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi gia súc nhỏ, gia cầm và nuôi trồng thuỷ sản. Việc phát triển các ngành này còn nhiều khả năng to lớn. Vấn đề cơ bản là giải quyết tốt cơ sở thức ăn cho gia súc nhỏ và mở rộng quy mô của ngành nuôi trồng thuỷ sản.
Hiện nay, chăn nuôi lợn rất phổ biến và thịt lợn là nguồn thực phẩm quan trọng trong bữa ăn hàng ngày của nhân dân. Đàn lợn của Đồng bằng sông Hồng chỉ đứng sau Vùng núi và trung du Bắc Bộ về số lượng với gần 4,3 triệu con, chiếm 22,5% đàn lợn của toàn quốc (1999).
Việc nuôi, trồng thuỷ sản nước ngọt, nước lợ và nước mặn đã được chú ý phát triển, nhưng thực tế chưa khai thác hết tiềm năng của vùng. Hiện nay toàn vùng có 5,8 vạn ha diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, chiếm 10,9% diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản của cả nước.
Trong những năm qua, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch là giảm tỉ trọng trồng trọt, tăng tỉ trọng chăn nuôi và thuỷ sản, riêng trồng trọt thì giảm tỉ trọng lương thực, tăng tỉ trọng cây công nghiệp và cây thực phẩm.

Dịch vụ

Nhờ kinh tế phát triển mà hoạt động vận tải trở nên sôi động. Thủ đô Hà Nội và thành phố Hải Phòng là hai đầu mối giao thông vận tải quan trọng.

Hà Nội, Hải Phòng đồng thời là hai trung tâm du lịch lớn ở phía Bắc. Đồng bằng sông Hồng có nhiều địa danh du lịch hấp dẫn, nổi tiếng như chùa Hương, Tam Cốc - Bích Động, Côn Sơn, Cúc Phương, Đồ Sơn, Cát Bà ...

Bưu chính viễn thông là ngành phát triển mạnh. Hà Nội là trung tâm thông tin, tư vấn, chuyển giao công nghệ, đồng thời là một trong hai trung tâm tài chính, ngân hàng lớn nhất nước.

Trong tương lai, vùng định hướng phát triển mạnh ngành dịch vụ và đẩy mạnh hơn nữa việc phát triển du lịch, khai thác các tiềm năng sẵn có.

Các trung tâm kinh tế và vùng kinh tế trọng điểm

Vùng có hai trung tâm kinh tế lớn là Hà Nội và Hải Phòng

Các thành phố lớn như Hà Nội - Hải Phòng - Hạ Long (Quảng Ninh) tạo thành tam giác kinh tế phát triển mạnh của vùng và có sự lan toả, thu hút với các vùng, tỉnh lân cận. Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ tạo điều kiện cho sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên, nguồn lao động của cả hai vùng Đồng bằng sông Hồng và Vùng núi và trung du phía Bắc.


về đầu trang