Tên gọi khác của đàn nguyệt

Đàn nguyệt hay còn gọi là đàn kìm, loại nhạc cụ này có xuất xứ từ Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam và trở thành nhạc cụ không thể thiếu trong nhiều hoạt động trình diễn dân gian của nước ta. Vậy đàn kìm là gì? Đàn kìm có mấy dây? Hãy cùng tìm hiểu về đàn kìm trong bài viết dưới đây.

1. Tìm hiểu đàn kìm là gì? Đàn kìm có mấy dây?

Đàn kìm hay đàn nguyệt có xuất xứ từ Trung Quốc, đây là một nhạc cụ dây gẩy quan trọng trong dàn nhạc kinh kịch Bắc Kinh, thường đảm nhận vai trò là nhạc cụ giai điệu chính thay cho phần dây cung. Theo sách xưa, đàn nguyên thủy có 4 dây, sau rút lại còn 2 dây.

Nguyệt cầm của Trung Quốc thường dùng trong kinh kịch, hòa âm trong dàn nhạc bát âm cung đình, các bài hát dân ca,nhạc cổ phong Trung Quốc, C-pop, EDM…

Loại nhạc cụ này đã được du nhập vào Việt Nam từ thời nhà Lý, trong vùng miền Nam chúng còn gọi là đờn kìm. Loại đàn này có hộp đàn hình tựa như hình mặt trăng nên mới có tên là “đàn nguyệt”.

Sau khi du nhập, đàn nguyệt nhanh chóng được Việt hóa, có mặt trong tổ chức dàn nhạc cung đình phục vụ cho tế lễ Phật giáo và trở thành nhạc cụ được yêu thích nhất trong họ dây gảy của người Việt.

Đàn nguyệt thường được dùng để độc tấu, hòa tấu với nhiều ngón chơi độc đáo như ngón nhấn, ngón vê, ngón luyến… Màu âm đàn nguyệt tươi sáng, rộn ràng, tình cảm, đa dạng trong diễn tả các trạng thái cảm xúc âm nhạc. Đàn Nguyệt được sử dụng trong hát ca trù, chầu văn, ca Huế, đờn ca tài tử, cải lương…

Tên gọi khác của đàn nguyệt
Tìm hiểu đàn kìm là gì? Đàn kìm có mấy dây?

2. Màu âm của đàn nguyệt

Màu âm đàn nguyệt tươi sáng, rộn ràng nên thường dùng để diễn tả tình cảm sâu lắng. Đàn nguyệt có tầm âm rộng hơn hai quãng 8. Tầm âm có thể chia ra 3 khoảng âm với đặc điểm như sau:

  • Khoảng âm dưới: tiếng đàn ấm áp, mềm mại, biểu hiện tình cảm trầm lặng, sâu sắc.
  • Khoảng âm giữa: là khoảng âm tốt nhất của đàn Nguyệt, tiếng đàn thanh thoát, vang đều, diễn tả tình cảm vui tươi, linh hoạt.
  • Khoảng âm cao: tiếng đàn trong sáng nhưng ít vang.

Đàn nguyệt là một loại nhạc cụ được dùng để biểu diễn các thể loại nhạc dân ca của Việt Nam. Trong ban nhạc “Ngũ tuyệt” của nhạc thính phòng cổ truyền thì đàn nguyệt đóng vai trò điều khiển. Bốn nhạc cụ kia trong dàn nhạc gồm có đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn nhị, đàn tam và ống sáo.

3. Cấu tạo của đàn nguyệt

Đàn nguyệt có những bộ phận chính như sau:

– Bầu vang: Đây là bộ phận to nhất trong cả chiếc đàn, bầu vang có hình tròn ống dẹt, với đường kính mặt bầu 30cm và thành bầu 6cm. Nền mặt bầu vang có bộ phận nằm phía dưới gọi là ngựa đàn (cái thú) dùng để mắc dây. Bầu vang không có lỗ thoát âm.

– Cần đàn (hay dọc đàn): Bộ phận này của đàn được làm bằng gỗ cứng, dài thon mảnh, bên trên gắn 8 – 11 phím đàn. Những phím này khá cao, nằm xa nhau với khoảng cách không đều nhau.

– Đầu đàn: Có hình lá đề, được gắn phía trên cần đàn, nó có 4 hóc luồn dây và 4 trục dây, mỗi bên hai trục.

– Dây đàn: Đàn nguyệt có 2 dây, trước đây được làm bằng dây tơ, ngày nay thường làm bằng dây nylon. Tuy có 4 trục đàn nhưng người ta chỉ mắc 2 dây (một dây to một dây nhỏ). Cách chỉnh dây thay đổi tùy theo người sử dụng. Có khi 2 dây cách nhau quãng 4 đúng, có khi cách quãng năm đúng hoặc quãng bảy hay quãng tám đúng. Song cách thông dụng nhất vẫn là lên dây theo quãng năm đúng.

Đàn nguyệt là nhạc cụ khảy dây, được dùng thường xuyên trong ban nhạc chầu văn, tài tử, phường bát âm và trong nhiều dàn nhạc dân tộc khác.

Tên gọi khác của đàn nguyệt
Tìm hiểu đàn kìm là gì? Đàn kìm có mấy dây?

Xem thêm: Tìm hiểu về đàn tranh có bao nhiêu dây?

4. Kỹ thuật trình diễn đàn nguyệt

Nhìn chung, đàn nguyệt có âm sắc trong sáng, ở khoảng âm thấp thì hơi đục. Loại nhạc cụ này có thể diễn đạt nhiều sắc thái tình cảm khác nhau, từ dịu dàng, mềm mại đến rắn rỏi, rộn ràng.

Ngày xưa, nghệ sĩ biểu diễn đàn nguyệt thường phải nuôi móng tay dài để khảy đàn, ngày nay miếng khảy đàn đã giữ nhiệm vụ này. Một số kỹ thuật sử dụng tay phải trong đàn nguyệt như sau:

– Ngón phi: Đây là lối đánh cổ truyền, không dùng miếng khảy mà sử dụng những ngón tay vẩy liên tiếp nhanh trên dây đàn, hiệu quả âm thanh gần giống như ngón vê. Ngón phi có hai cách diễn như sau:

+ Phi lên: Thường sử dụng trên một dây đàn, bắt đầu từ ngón út rồi lần lượt những ngón khác hất vào dây đàn.

+ Phi xuống: Thường sử dụng trên cả 1 dây đàn hoặc trên cả hai dây. Phi xuống là vẫy nhanh các ngón tay vào dây đàn, bắt đầu từ ngón út (có khi bắt đầu từ ngón trỏ) rồi lần lượt những ngón khác khảy dây đàn.

Khi biểu diễn ngón phi, người ta thường dùng 4 ngón tay (không sử dụng ngón tay cái). Nếu đánh bằng miếng khảy đàn họ chỉ sử dụng 3 ngón vì ngón cái và ngón trỏ phải giữ miếng khảy.

– Ngón vê: Người chơi sử dụng ngón này để khảy liên tiếp trên dây đàn. Kỹ thuật này thường dùng trong nhạc hát văn. Cách vê có thể bằng móng tay hay miếng khảy, vê 1 dây hoặc 2 dây đều được.

– Ngón gõ: Người chơi dùng những ngón tay phải gõ vào mặt đàn, mục đích để báo hiệu cho hát, cho các nhạc khí khác hòa tấu hoặc điểm giữa những nhạc cụ, đoạn nhạc hay những lúc các nhạc cụ khác ngưng hoạt động.

– Bịt: Người chơi sẽ làm âm thanh vừa vang lên liền tắt đột ngột. Kỹ thuật sử dụng tay trái trong đàn nguyệt gồm có 12 cách: ngón rung, ngón nhấn, ngón nhấn luyến, nhấn luyến, ngón láy, ngón láy rền và ngón láy giật. Trước đây người ta ít sử dụng ngón vuốt, nhưng ngày nay có thể xem nó là kỹ thuật số 9 của tay trái. Kế tiếp là ngón bật dây, âm bội và đánh chồng âm (hợp âm).

5. Đàn kìm giá bao nhiêu?

Đàn nguyệt có rất nhiều loại, có thể là những cây đàn được sản xuất tại Việt Nam, hoặc cũng có thể sản xuất tại nước ngoài như Trung Quốc, Nhật Bản. Chính vì vậy, giá thành của loại nhạc cụ này sẽ có sự chênh lệch khá đáng kể, dao động trong khoảng 500.000 đến 10.000.000 VNĐ hoặc có thể cao hơn tùy thuộc vào xuất xứ và chất liệu của đàn.

Tổng hợp

Tên gọi khác của đàn nguyệt

Đặc điểm của đàn nguyệt là có cái cần dài và những phím cao nên nghệ nhân với thể tạo ra những âm thanh mềm mại, uyển chuyển lòng người nghe bằng tiếng đàn khi trong, lúc sôi nổi hoặc thủ thỉ trầm lắng. Màu âm đàn tươi sáng, rộn ràng, tình cảm, đa dạng trong thể hiện cảm súc âm nhạc. Vì vậy, đàn nguyệt thường không thiếu vắng trong những cuộc hoà tấu nhạc lễ trang nghiêm, các buổi tang lễ, các cuộc hoà tấu thính phòng mang chức năng như đệm nhạc bài hát, ca trù, hát chầu văn, ca Huế, đờn ca tài tử, cải lương, hoà tấu hoặc độc tấu.

Đàn nguyệt với hộp đàn tựa như mặt trăng nên có tên là “đàn nguyệt”. Theo sử sách biên chép đàn nguyệt lúc mới xuất hiện với 4 dây, sau rút lại còn 2 dây.

Đàn Nguyệt gồm những bộ phận chính:

Bầu vang: là bộ phận lớn nhất của đàn, chúng mang hình ống dẹt, đường kính 30cm, thành bầu 6cm, dĩ nhiên có các kích cỡ khác nữa. Nền mặt bầu vang sở hữu bộ phận phía dưới gọi là ngựa đàn sử dụng để mắc dây.

Cần Đàn: làm bằng gỗ, gắn trên phần bầu tương đối dài, trên sở hữu 8 – 11 phím đàn, các phím gắn không bắt buộc đều, dùng để chỉnh dây và tạo âm.

Đầu đàn: mang hình dáng lá đề, được gắn trên phần cần, có 4 hóc luồn dây và 4 trục dây, mỗi bên hai trục.

Dây Đàn: gồm 2 dây một dây to và một dây nhỏ, trước kia khiến cho bằng sợi tơ, ngày nay chuyển sang dây nilon. Cách điều chỉnh dây khác nhau, tuỳ theo người nghệ nhân dùng theo hướng nào. Đôi khi 2 dây cách nhau quãng 4 đúng, với lúc bí quyết quãng 5 đúng hoặc quãng 7 hay quãng 8 đúng. Các lên dây thường được sử dụng nhất là quãng 5 đúng. Đàn Nguyệt thường được các ban nhạc chầu văn, tài tử, phường bát âm dùng khi trình diễn dàn nhạc dân tộc.

Tại Trung Quốc, đàn có 4 dây, được chỉnh trong hai mức D và A. Được sử dụng cho opera Bắc Kinh, bên cạnh đó có 2 dây duy nhất, chỉ một trong số ấy được thực sự sử dụng trong các vở kịch opera Bắc Kinh, người nghệ sỹ dùng 1 chiếc chốt nhỏ thay vì tấm lót để trình diễn và chỉ chơi ở vị trí đầu. Vì thế đòi hỏi người dùng bắt buộc dùng quãng 8 để chơi đa số âm thanh trong một giai điệu nhất định.

Đàn nguyệt (chữ Hán:月琴: nguyệt cầm;Bính âm:Yùeqín) - là nhạc cụ dây gẩy căn nguyên từ Trung Quốc được du nhập vào Việt Nam, trong Nam còn gọi là đờn kìm. Loại đàn này sở hữu hộp đàn hình tròn như mặt trăng do vậy mang tên là "đàn nguyệt". Theo sách xưa, đàn nguyên thủy có 4 dây, sau rút lại còn 2 dây. Nó là một nhạc cụ quan trọng trong dàn nhạc kinh kịch Bắc Kinh, thường có vai trò là nhạc cụ chính thay cho phần dây cung.

Đàn nguyệt là cây đàn dùng nhiều để độc tấu, hòa tấu phổ biến ngón chơi độc đáo như ngón nhấn, ngón vê, ngón luyến… Màu âm đàn nguyệt tươi sáng, rộn ràng, tình cảm, đa dạng trong diễn tả những trạng thái cảm xúc âm nhạc.

Lịch sử ra đời

Theo truyền thống, nhạc cụ được phát minh ở Trung Quốc trong triều đại Tần thế kỷ thứ 3 tới thế kỷ 5. Tổ tiên của đàn nguyệt là đàn nguyễn.

Đàn nguyễn với lịch sử hơn 2.000 năm, hình thức sớm nhất có thể là tần tỳ bà, sau đấy  là ruanxian (được đặt tên theo Nguyễn Hàm), rút ​​ngắn thành ruan.

Cũng trong thời nhà Đường, một ruãnian đã được đưa tới Nhật Bản từ Trung Quốc. Bây giờ ruanxian này vẫn được lưu trữ trong Shosoin của Bảo tàng Quốc gia Nara ở Nhật Bản. Các ruanxian được làm bằng gỗ đàn hương đỏ và trang hoàng có khảm xà cừ. Các ruanxian cổ đại cho thấy rằng diện mạo của ruan hiện nay đã không đổi thay rộng rãi kể từ thế kỷ 8.

Ngày nay, mặc dù đàn nguyễn chưa bao giờ nhiều như pipa, ruan đã được chia thành nhiều nhạc cụ nhỏ hơn và được biết tới rộng rãi hơn trong vài thế kỷ gần đây, như nguyệt cầm và tần cầm, nguyệt cầm, không sở hữu lỗ âm thanh, hiện được dùng chủ yếu trong nhạc đệm Bắc Kinh. Tần cầm và đàn nguyệt lúc bấy giờ là hai cái nhạc cụ trong nhóm đàn nguyễn phồn thịnh hành ở Quảng Đông (廣東) và Triều Châu (潮州).

Cấu tạo

Đàn nguyệt mang các bộ phận chính như sau:

  • Bầu vang: Bộ phận hình tròn ống dẹt, đường kính mặt bầu 30 cm, thành bầu 6 cm. Nền mặt bầu vang có bộ phận nằm phía dưới gọi là ngựa đàn (cái thú) dùng để mắc dây. Bầu vang không với lỗ thoát âm.
  • Cần đàn (hay dọc đàn): làm bằng gỗ cứng, dài thon mảnh, bên trên gắn 8-11 phím đàn, trước đây chỉ gắn 8 phím (nay các người chơi nhạc tài tử Nam bộ vẫn thường dùng đàn 8 phím). Những phím này hơi cao, nằm xa nhau sở hữu khoảng cách không đều nhau.
  • Đầu đàn: hình lá đề, gắn phía trên nên đàn, nó có 4 hóc luồn dây và 4 trục dây, mỗi bên hai trục.
  • Dây đàn: với 2 dây, trước đây được làm bằng dây tơ, ngày nay thường làm cho bằng dây nylon. Tuy mang 4 trục đàn nhưng người ta chỉ mắc 2 dây (một dây lớn, 1 dây nhỏ). Cách chỉnh dây thay đổi tùy theo người sử dụng. Có lúc 2 dây cách nhau quãng 4 đúng, với lúc cách quãng năm đúng hoặc quãng bảy hay quãng tám đúng. Song cách thông dụng nhất vẫn là lên dây theo quãng năm đúng. Đàn nguyệt là nhạc cụ khảy dây, được dùng thường xuyên trong ban nhạc chầu văn, tài tử, phường bát âm và trong nhiều dàn nhạc dân tộc khác.

Đàn nguyệt ở Trung Quốc mang bốn dây, điều chỉnh trong hai tone D và A (thấp đến cao). Yueqin được dùng cho opera Bắc Kinh, tuy nhiên, với hai dây duy nhất, chỉ một trong số ấy là được sử dụng, dây dưới đây là mang hoàn toàn cho sự cùng hưởng cảm thông. Trong vở opera Bắc Kinh (kinh kịch), người chơi dùng một dòng chốt gỗ nhỏ thay vì một tấm lót để biểu diễn, và chỉ chơi ở vị trí đầu; Điều này đòi hỏi người biểu diễn cần dùng quãng tám oát để chơi hầu hết các âm thanh trong một nhạc điệu nhất định.

Các dây trên cái truyền thống của nhạc cụ được làm bằng lụa (mặc dù nylon thường được dùng ngày nay) và được nhét bằng một cái lọ dài tương đối, đôi lúc gắn bằng một miếng dây.

Không mang lỗ âm thanh, nhưng bên trong hộp âm thanh là một hoặc nhiều sợi dây chỉ được gắn ở một đầu, để chúng rung, tạo cho nhạc cụ vẻ đẹp và cộng hưởng đặc biệt.

Không có cây cầu hoặc ngựa đàn; Các dây chỉ đơn giản là gắn liền với neo tại cơ sở của nhạc cụ.

Khả năng trình diễn.

Nhìn chung đàn nguyệt với âm thanh sắc trong sáng, ở khoảng âm thấp thì hơi đục. Nó có thể trình bày phong phú sắc thái tình cảm khác nhau, từ dịu dàng, mềm mại đến rắn rỏi, rộn ràng.

Ngày xưa người biểu diễn nuôi móng tay dài để khảy đàn nguyệt, ngày nay miếng khảy đàn đã giữ nhiệm vụ này. Một số kỹ thuật dùng tay buộc phải trong đàn nguyệt như sau:

  • Ngón phi: lối đánh cổ truyền, không dùng miếng khảy mà dùng các ngón tay vẩy liên tục nhanh trên dây đàn, hiện quả âm thanh sắp giống như ngón vê. Ngón phi có hai bí quyết diễn:
  • Phi lên: thường dùng trên một dây đàn, bắt đầu từ ngón út rồi tuần tự các ngón khác hất vào dây đàn.
  • Phi xuống: dùng trên cả một dây đàn hoặc trên cả hai dây. Phi xuống là vẫy nhanh các ngón tay vào dây đàn, bắt đầu từ ngón út (có khi bắt đầu từ ngón trỏ) rồi lần lượt những ngón khác khảy dây đàn.

Khi biểu diễn ngón phi người ta dùng 4 ngón tay (không dùng ngón tay cái). Nếu đánh bằng miếng khảy đàn họ chỉ dùng 3 ngón vì ngón cái và ngón trỏ cần giữ miếng khảy.

  • Ngón vê: khảy liên tiếp trên dây đàn. Kỹ thuật này thường dùng trong nhạc hát văn. Cách vê sở hữu thể bằng móng tay hay miếng khảy, vê một dây hoặc 2 dây đều được.
  • Ngón gõ: dùng các ngón tay buộc phải gõ vào mặt đàn, mục tiêu để báo hiệu cho hát, cho các nhạc khí khác hòa tấu hoặc điểm giữa những nhạc cụ, đoạn nhạc hay các lúc những nhạc cụ khác ngưng hoạt động.
  • Bịt: làm cho âm thanh vừa vang lên ngay lập tức tắt đột ngột. Kỹ thuật dùng tay trái trong đàn nguyệt gồm mang 12 cách: ngón rung, ngón nhấn, ngón nhấn luyến, nhấn luyến, ngón láy, ngón láy rền và ngón láy giật. Trước đây người ta ít sử dụng ngón vuốt, nhưng hiện nay sở hữu thể xem nó là kỹ thuật số 9 của tay trái. Kế tiếp là ngón bật dây, âm bội và đánh chồng âm (hợp âm).

Nguyệt cầm của Trung Quốc thường sử dụng trong kinh kịch, hòa âm trong dàn nhạc bát địa phủ đình, các bài hát dân ca, nhạc cổ phong Trung Quốc, C-pop, EDM,...

Vai trò của đàn nguyệt trong dân ca Việt Nam

Đàn nguyệt được dùng để biểu diễn những thể nhạc dân ca của Việt Nam. Trong ban nhạc "Ngũ tuyệt" của nhạc thính phòng cổ truyền thì đàn nguyệt đóng vai trò điều khiển. Bốn nhạc cụ kia trong dàn nhạc gồm đàn tranh, đàn tỳ bà, đàn nhị, đàn tam và ống sáo.

Đàn nguyệt cũng giữ vai trò tối trọng yếu trong nhạc chầu văn-một thể mẫu hát đặc sắc của đồng bào Bắc Bộ

Bài thơ “Nguyệt Cầm” của Xuân Diệu:

Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh,

Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần.

Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm!

Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân.

Mây vắng, trời trong, đêm thuỷ tinh;

Lung linh bóng sáng bỗng rung mình

Vì nghe nương tử trong câu hát

Đã chết đêm rằm theo nước xanh.

Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời,

Đàn ghê như nước, lạnh, trời ơi…

Long lanh tiếng sỏi vang vang hận:

Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người…

Bốn bề ánh nhạc: biển pha lê.

Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề

Sương bạc làm thinh, khuya nín thở

Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê.