Thế nào là đánh giá là học tập

Đổi mới kiểm tra đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh

Cỡ chữ Màu chữ:

1. Quan niệm về đánh giá theo định hướng tiếp cận năng lực học sinh

Hiện nay có nhiều quan niệm về năng lực, theo OECD: Năng lực là khả năng đáp ứng một cách hiệu quả những yêu cầu phức hợp trong một bối cảnh cụ thể; theo Chương trình giáo dục phổ thông mới năm 2018: Năng lực là thuộc tính cá nhân được hình thành, phát triển nhờ tố chất sẵn có và quá trình học tập, rèn luyện, cho phép con người huy động tổng hợp các kiến thức, kĩ năng và các thuộc tính cá nhân khác như hứng thú, niềm tin, ý chí,... thực hiện thành công một loại hoạt động nhất định, đạt kết quả mong muốn trong những điều kiện cụ thể.

Với những quan niệm trên, đánh giá kết quả học tập theo định hướng tiếp cận năng lực cần chú trọng vào khả năng vận dụng sáng tạo tri thức trong những tình huống ứng dụng khác nhau. Hay nói cách khác, đánh giá theo năng lực là đánh giá kiến thức, kĩ năng và thái độ trong những bối cảnh có ý nghĩa. Đánh giá kết quả học tập của học sinh đối với các môn học và hoạt động giáo dục theo quá trình hay ở mỗi giai đoạn học tập chính là biện pháp chủ yếu nhằm xác định mức độ thực hiện mục tiêu dạy học về kiến thức, kĩ năng, thái độ và năng lực, đồng thời có vai trò quan trọng trong việc cải thiện kết quả học tập của học sinh.

Xét về bản chất thì không có mâu thuẫn giữa đánh giá năng lực và đánh giá kiến thức, kĩ năng, đánh giá năng lực được coi là bước phát triển cao hơn so với đánh giá kiến thức, kĩ năng. Để chứng minh học sinh có năng lực ở một mức độ nào đó, phải tạo cơ hội cho học sinh được giải quyết vấn đề trong tình huống mang tính thực tiễn. Khi đó học sinh vừa phải vận dụng những kiến thức, kĩ năng đã được học ở nhà trường, vừa sử dụng những kinh nghiệm của bản thân thu được từ những trải nghiệm bên ngoài nhà trường (gia đình, cộng đồng và xã hội) để giải quyết vấn đề của thực tiễn. Như vậy, thông qua việc hoàn thành một nhiệm vụ trong bối cảnh thực, người ta có thể đồng thời đánh giá được cả khả năng nhận thức, kĩ năng thực hiện và những giá trị, tình cảm của người học. Mặt khác, đánh giá năng lực không hoàn toàn phải dựa vào chương trình giáo dục của từng môn học như đánh giá kiến thức, kĩ năng, bởi năng lực là tổng hóa, kết tinh kiến thức, kĩ năng, thái độ, tình cảm, giá trị, chuẩn mực đạo đức,… được hình thành từ nhiều môn học, lĩnh vực học tập khác nhau, và từ sự phát triển tự nhiên về mặt xã hội của một con người.

Có thể tổng hợp một số dấu hiệu khác biệt cơ bản giữa đánh giá năng lực người học và đánh giá kiến thức, kĩ năng của người học như sau:

Một số điểm khác biệt giữa đánh giá tiếp cận nội dung (kiến thức, kĩ năng) và đánh giá tiếp cận năng lực

STT

Đánh giá theo hướng

tiếp cận nội dung

Đánh giá theo hướng

tiếp cận năng lực

1

Các bài kiểm tra trên giấy được thực hiện vào cuối một chủ đề, một chương, một học kì,...

Nhiều bài kiểm tra đa dạng (giấy, thực hành, sản phẩm dự án, cá nhân, nhóm…) trong suốt quá trình học tập

2

Nhấn mạnh sự cạnh tranh

Nhấn mạnh sự hợp tác

3

Quan tâm đến mục tiêu cuối cùng của việc dạy học

Quan tâm đến đến phương pháp học tập, phương pháp rèn luyện của học sinh

4

Chú trọng vào điểm số

Chú trọng vào quá trình tạo ra sản phẩm, chú ý đến ý tưởng sáng tạo, đến các chi tiết của sản phẩm để nhận xét

5

Tập trung vào kiến thức hàn lâm

Tập trung vào năng lực thực tế và sáng tạo

6

Đánh giá được thực hiện bởi các cấp quản lí và do giáo viên là chủ yếu, còn tự đánh giá của học sinh không hoặc ít được công nhận

Giáo viên và học sinh chủ động trong đánh giá, khuyến khích tự đánh giá và đánh giá chéo của học sinh

7

Đánh giá đạo đức học sinh chú trọng đến việc chấp hành nội quy nhà trường, tham gia phong trào thi đua…

Đánh giá phẩm chất của học sinh toàn diện, chú trọng đến năng lực cá nhân, khuyến khích học sinh thể hiện cá tính và năng lực bản thân

2. Quan hệ giữa năng lực với kiến thức, kĩ năng thái độ

Với quan niệm về năng lực như đã nêu trên, trong quá trình học tập để hình thành và phát triển được các năng lực, người học cần chuyển hóa những kiến thức, kĩ năng, thái độ có được vào giải quyết những tình huống mới và xảy ra trong môi trường mới. Như vậy, có thể nói kiến thức là cơ sở để hình thành năng lực, là nguồn lực giúp cho người học tìm được các giải pháp tối ưu để thực hiện nhiệm vụ hoặc có cách ứng xử phù hợp trong bối cảnh phức tạp. Khả năng đáp ứng phù hợp với bối của thực tiễn cuộc sống là đặc trưng quan trọng nhất của năng lực, khả năng đó có được dựa trên sự đồng hóa và sử dụng có cân nhắc những kiến thức, kĩ năng cần thiết trong từng hoàn cảnh cụ thể.

Những kiến thức là cơ sở để hình thành và rèn luyện năng lực phải được tạo nên do chính người học chủ động nghiên cứu, tìm hiểu hoặc được hướng dẫn nghiên cứu tìm hiểu và từ đó kiến tạo nên. Việc hình thành và rèn luyện năng lực được diễn ra theo hình xoáy trôn ốc, trong đó các năng lực có trước được sử dụng để kiến tạo kiến thức mới; và đến lượt mình, kiến thức mới lại đặt cơ sở để hình thành những năng lực mới.

Kĩ năng theo nghĩa hẹp là những thao tác, những cách thức thực hành, vận dụng kiến thức, kinh nghiệm đã có để thực hiện một hoạt động nào đó trong một môi trường quen thuộc. Kĩ năng hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm những kiến thức, những hiểu biết và trải nghiệm,… giúp cá nhân có thể thích ứng khi hoàn cảnh thay đổi.

Kiến thức, kĩ năng là cơ sở cần thiết để hình thành năng lực trong một lĩnh vực hoạt động nào đó. Tuy nhiên, nếu chỉ có kiến thức, kĩ năng trong một lĩnh vực nào đó thì chưa chắc đã được coi là có năng lực, mà còn cần đến việc sử dụng hiệu quả các nguồn kiến thức, kĩ năng cùng với thái độ, giá trị, trách nhiệm bản thân để thực hiện thành công các nhiệm vụ và giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn khi điều kiện và bối cảnh thay đổi.

3. Định hướng kiểm tra, đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh

Kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh theo hướng tiếp cận năng lực tập trung vào các định hướng sau:

(i) Chuyển từ chủ yếu đánh giá kết quả học tập cuối môn học, khóa học (đánh giá tổng kết) nhằm mục đích xếp hạng, phân loại sang sử dụng các loại hình thức đánh giá thường xuyên, đánh giá định kỳ sau từng chủ đề, từng chương nhằm mục đích phản hồi điều chỉnh quá trình dạy học (đánh giá quá trình);

(ii) Chuyển từ chủ yếu đánh giá kiến thức, kĩ năng sang đánh giá năng lực của người học. Tức là chuyển trọng tâm đánh giá chủ yếu từ ghi nhớ, hiểu kiến thức, … sang đánh giá năng lực vận dụng, giải quyết những vấn đề của thực tiễn, đặc biệt chú trọng đánh giá các năng lực tư duy bậc cao như tư duy sáng tạo;

(iii) Chuyển đánh giá từ một hoạt động gần như độc lập với quá trình dạy học sang việc tích hợp đánh giá vào quá trình dạy học, xem đánh giá như là một phương pháp dạy học;

(iv) Tăng cường sử dụng công nghệ thông tin trong kiểm tra, đánh giá: sử dụng các phần mềm thẩm định các đặc tính đo lường của công cụ (độ tin cậy, độ khó, độ phân biệt, độ giá trị) và sử dụng các mô hình thống kê vào xử lý phân tích, lý giải kết quả đánh giá.

Với những định hướng trên, đánh giá kết quả học tập các môn học, hoạt động giáo dục của học sinh ở mỗi lớp và sau cấp học trong bối cảnh hiện nay cần phải:

- Dựa vào cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng (theo định hướng tiếp cận năng lực) từng môn học, hoạt động giáo dục từng môn, từng lớp; yêu cầu cơ bản cần đạt về kiến thức, kĩ năng, thái độ (theo định hướng tiếp cận năng lực) của học sinh của cấp học.

- Phối hợp giữa đánh giá thường xuyên và đánh giá định kì, giữa đánh giá của giáo viên và tự đánh giá của học sinh, giữa đánh giá của nhà trường và đánh giá của gia đình, cộng đồng.

- Kết hợp giữa hình thức đánh giá bằng trắc nghiệm khách quan và tự luận nhằm phát huy những ưu điểm của mỗi hình thức đánh giá này.

- Có công cụ đánh giá thích hợp nhằm đánh giá toàn diện, công bằng, trung thực, có khả năng phân loại, giúp giáo viên và học sinh điều chỉnh kịp thời việc dạy và học.

Việc đổi mới công tác đánh giá kết quả học tập môn học của giáo viên được thể hiện qua một số đặc trưng cơ bản sau:

a) Xác định được mục đích chủ yếu của đánh giá kết quả học tập là so sánh năng lực của học sinh với mức độ yêu cầu của chuẩn kiến thức và kĩ năng (năng lực) môn học ở từng chủ đề, từng lớp học, để từ đó cải thiện kịp thời hoạt động dạy và hoạt động học.

b) Tiến hành đánh giá kết quả học tập môn học theo ba công đoạn cơ bản là thu thập thông tin, phân tích và xử lý thông tin, xác nhận kết quả học tập và ra quyết định điều chỉnh hoạt động dạy, hoạt động học. Yếu tố đổi mới ở mỗi công đoạn này là:

(i) Thu thập thông tin: thông tin được thu thập từ nhiều nguồn, nhiều hình thức và bằng nhiều phương pháp khác nhau (quan sát trên lớp, làm bài kiểm tra, sản phẩm học tập, tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau,...); lựa chọn được những nội dung đánh giá cơ bản và trọng tâm, trong đó chú ý nhiều hơn đến nội dung kĩ năng; xác định đúng mức độ yêu cầu mỗi nội dung (nhận biết, thông hiểu, vận dụng,...) căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng; sử dụng đa dạng các loại công cụ khác nhau (đề kiểm tra viết, câu hỏi trên lớp, phiếu học tập, bài tập về nhà,...); thiết kế các công cụ đánh giá đúng kĩ thuật (câu hỏi và bài tập phải đo lường được mức độ của chuẩn, đáp ứng các yêu cầu dạng trắc nghiệm khách quan hay tự luận, cấu trúc đề kiểm tra khoa học và phù hợp,...); tổ chức thu thập được các thông tin chính xác, trung thực. Cần bồi dưỡng cho học sinh những kĩ thuật thông tin phản hồi nhằm tạo điều kiện cho học sinh tham gia đánh giá và cải tiến quá trình dạy học.

(ii) Phân tích và xử lý thông tin: các thông tin định tính về thái độ và năng lực học tập thu được qua quan sát, trả lời miệng, trình diễn,... được phân tích theo nhiều mức độ với tiêu chí rõ ràng và được lưu trữ thông qua sổ theo dõi hàng ngày; các thông tin định lượng qua bài kiểm tra được chấm điểm theo đáp án/hướng dẫn chấm – hướng dẫn đảm bảo đúng, chính xác và đáp ứng các yêu cầu kĩ thuật; số lần kiểm tra, thống kê điểm trung bình, xếp loại học lực,… theo đúng quy chế đánh giá, xếp loại ban hành.

(iii) Xác nhận kết quả học tập: xác nhận học sinh đạt hay không mục tiêu từng chủ đề, cuối lớp học, cuối cấp học dựa vào các kết quả định lượng và định tính với chứng cứ cụ thể, rõ ràng; phân tích, giải thích sự tiến bộ học tập vừa căn cứ vào kết quả đánh giá quá trình và kết quả đánh giá tổng kết, vừa căn cứ vào thái độ học tập và hoàn cảnh gia đình cụ thể. Ra quyết định cải thiện kịp thời hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động học của học sinh trên lớp học; ra các quyết định quan trọng với học sinh (lên lớp, thi lại, ở lại lớp, khen thưởng,…); thông báo kết quả học tập của học sinh cho các bên có liên quan (Học sinh, cha mẹ học sinh, hội đồng giáo dục nhà trường, quản lý cấp trên,…). Góp ý và kiến nghị với cấp trên về chất lượng chương trình, sách giáo khoa, cách tổ chức thực hiện kế hoạch giáo dục,...

Trong đánh giá thành tích học tập của học sinh không chỉ đánh giá kết quả mà chú ý cả quá trình học tập. Đánh giá thành tích học tập theo quan điểm phát triển năng lực, không giới hạn vào khả năng tái hiện tri thức mà chú trọng khả năng vận dụng tri thức trong việc giải quyết các nhiệm vụ phức hợp.

Cần sử dụng phối hợp các hình thức, phương pháp kiểm tra, đánh giá khác nhau. Kết hợp giữa kiểm tra miệng, kiểm tra viết, bài tập thực hành; kết hợp giữa trắc nghiệm tự luận và trắc nghiệm khách quan. Kiểm tự luận thường đòi hỏi cao về tư duy, óc sáng tạo và tính lôgic của vấn đề, đặc biệt là sự thể hiện những ý kiến cá nhân trong cách trình bày, tuy nhiên không bao quát được hết kiến thức chương trình giáo dục phổ thôngc và kết quả kiểm tra nhiều khi còn phụ thuộc vào năng lực của người chấm bài. Kiểm tra trắc nghiệm khách quan với ưu là thích hợp với quy mô lớn, học sinh không phải trình bày cách làm, số lượng câu hỏi lớn nên có thể bao quát được kiến thức toàn diện của học sinh, việc chấm điểm trở nên rất đơn giản dựa trên mẫu đã có sẵn, có thể sử dụng máy để chấm cho kết quả rất nhanh, đảm bảo được tính công bằng, độ tin cậy cao. tuy nhiên nhược điểm của hình thức này là không thể hiện được tính sáng tạo, lôgic của khoa học và khả năng biểu cảm trước các vấn đề chính trị, xã hội, con người của đất nước, nhiều khi sự lựa chọn còn mang tính may mắn. Do đó việc kết hợp hai hình thức kiểm tra này sẽ phát huy được những ưu điểm và hạn chế bớt những nhược điểm của mỗi hình thức kiểm tra.

Tài liệu tham khảo

1. Chương trình giáo dục phổ thông năm 2018, Bộ Giáo dục và Đào tạo.

2. Tài liệu tập huấn đổi mới kiểm tra đánh giá theo hướng tiếp cận năng lực học sinh các môn học, Vụ Giáo dục Trung học, Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2014.

3. Website: https://tusach.thuvienkhoahoc.com.

Thế nào là đánh giá là học tập
Gửi email
Thế nào là đánh giá là học tập
In trang

Đánh giá và đo lường kết quả học tập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (108.12 KB, 7 trang )

Đánh giá và đo lường kết quả học tập
Câu hỏi 1: Tại sao nói: điểm số đánh giá trong kết quả học tập của sinh
viên trong một bài kiểm tra chỉ có ý nghĩa định tính, định hạng mà không
có ý nghĩa về mặt định lượng. Cho ví dụ minh họa, rút ra kết luận sư phạm.
Trả lời:
Khái niệm và mục đích của việc đánh giá kết quả học tập
Đánh giá kết quả học tập là quá trình thu thập, xử lý thông tin về trình
độ, khả năng mà người học thực hiện các mục tiêu học tập đã xác định.
Như vậy, đánh giá kết quả học tập của sinh viên là đánh giá mức độ hoàn
thành các mục tiêu đề ra cho sinh viên sau một giai đoạn học tập. Các mục
tiêu này thể hiện ở từng môn học cụ thể.
Đánh giá kết quả học tập đòi hỏi phải xác định mức độ nắm được kiến
thức, kỹ năng, kỹ xảo của sinh viên so với yêu cầu của chương trình đề ra.
Nội dung đánh giá là những kết quả học tập hằng ngày, cũng như những kết
quả phản ánh trong kiểm tra định kỳ, các kỳ thi. Kết quả của việc đánh giá
được thể hiện chủ yếu bằng điểm số theo thang điểm đã được quy định.
Ngoài ra, việc đánh giá được thể hiện bằng lời nhận xét của giảng viên.
Đánh giá kết quả học tập phải đưa ra được những kết luận tin cậy về kết
quả học tập của sinh viên, phải giúp cho giảng viên có những quyết định
phù hợp trong quá trình dạy học, đồng thời thúc đẩy động cơ học tập và
nâng cao trách nhiệm của sinh viên trong học tập. Để đạt được điều này,
đánh giá phải thực hiện được các chức năng của mình, phải dựa vào các
bằng chứng được thu thập từ nhiều hoạt động khác nhau.
Các hình thức đánh giá
a) Đánh giá thường xuyên
Đánh giá thường xuyên được giảng viên tiến hành hằng ngày, nhằm kịp
thời điều chỉnh hoạt động của cả giảng viên và sinh viên, thúc đẩy sinh viên
cố gắng, tích cực làm học tập một cách liên tục, có hệ thống đồng thời tạo
điều kiện để quá trình dạy học chuyển sang bước phát triển cao hơn.
Đánh giá thường xuyên được thực hiện thông qua các bài kiểm tra 15
phút, các câu hỏi trong quá trình giảng bài, các chủ để được đưa ra để sinh


viên thảo luận. Đánh giá này được tiến hành rất linh hoạt đối với giảng
viên.
b) Đánh giá định kỳ
Việc đánh giá định kỳ kết quả học tập của sinh viên được tiến hành sau
từng giai đoạn học tập. Đây là dạng đánh giá thường được thực hiện sau khi
học một phần chương trình hoặc giữa kỳ, cuối một học kỳ để xác định kết
quả học tập của sinh viên. Đánh giá định kỳ có tác dụng giúp giảng viên và
sinh viên nhìn lại kết quả làm việc sau một thời gian nhất định, củng cố và
mở rộng những nội dung đã học, tạo cơ sở để từ đó định hướng tiếp tục cho
quá trình dạy học tiếp theo. Việc đánh giá định kỳ sử dụng các phương
pháp như: kiểm tra vấn đáp, quan sát sinh viên học tập hoặc hoạt động, bài


Đánh giá và đo lường kết quả học tập
tập thực hành (đối với môn đánh giá bằng nhận xét); kiểm tra viết tự luận
hay trắc nghiệm khách quan.
c) Đánh giá tổng kết
Đánh giá tổng kết được thực hiện vào cuối mỗi năm học, cuối khóa học
hoặc vào cuối mỗi giáo trình nhằm đánh giá kết quả chung, củng cố và mở
rộng toàn bộ những điều đã học từ đầu năm học hoặc từ đầu giáo trình,
đồng thời tạo điều kiện để chuyển sang năm học mới hoặc môn học mới.
Đánh giá này xác định mức độ mà sinh viên đạt được các mục tiêu học
tập đã đặt ra, hay xếp loại mục đích nào đó. Các mẫu đánh giá phải căn cứ
vào những gì mà sinh viên đã học, do đó nó có tính đặc trưng cho toàn bộ
kiến thức mà sinh viên đã tiếp thu được. Đây là đánh giá mang tính tổng
hợp, có ý nghĩa quan trọng trong việc cung cấp thông tin công bằng về kết
quả học tập của sinh viên. Các kết quả đánh giá này rất quan trọng đối với
sinh viên vì nó tác động trực tiếp tới việc xếp loại, công nhận đạt hay không
đạt sau một quá trình học, khen thưởng.
Đánh giá kết quả học tập phải đảm bảo được các yêu cầu khác nhau.


Để việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên có ý nghĩa định lượng thì
phải đảm bảo được 2 yêu cầu sau đây: yêu cầu đảm bảo tính giá trị và yêu
cầu đảm bảo tính tin cậy.
a) Tính giá trị
Tính giá trị đòi hỏi phải đánh giá và đo lường được đúng các mục tiêu
định đo. Như vậy, trong đánh giá, những thông tin thu được phải là những
bằng chứng để đi đến những kết luận phù hợp, thể hiện ở việc thiết kế công
cụ đánh giá. Chẳng hạn, một bài kiểm tra có thể có giá trị cao khi muốn đo
lường khả năng nhớ lại các sự kiện, nhưng lại không có giá trị cao khi đo
lường khả năng phê phán hay lập luận và không có giá trị khi đo lường khả
năng tính toán. Để đánh giá có giá trị, cần phải có sự phân tích về mặt
chuyên môn nhằm xác định một công cụ được xây dựng là thích hợp cho
việc đo lường các mục tiêu.
Việc xác định giá trị của công cụ đánh giá kết quả học tập chủ yếu là
xác định được những bằng chứng liên quan tới nội dung. Trước hết phải đi
từ các mục tiêu học tập, đồng thời nội dung đánh giá phải xuất phát từ nội
dung trong chương trình quy định và tương ứng với trình độ nhận thức của
sinh viên, phải có một danh mục các mục tiêu được thiết kế một cách chi
tiết, cụ thể, rõ ràng mà sinh viên cần đạt được, trong đó bao gồm cả những
mục tiêu nhỏ sẽ đưa vào kiểm tra đánh giá. Đồng thời, cần xây dựng được
bản kế hoạch để mô tả chi tiết các nội dung cần đánh giá, từ đó xem xét nội
dung nào sẽ được lấy mẫu cho các mục tiêu.
b) Tính tin cậy
Tính tin cậy chỉ sự chính xác của đánh giá tức là phản ánh đúng kết quả
học tập của người học như nó tồn tại trên cơ sở đối chiếu với mục tiêu đã
đề ra. Tính tin cậy cho biết những kết quả đánh giá ở những thời điểm khác
nhau đều cho những kết quả tương tự.


Đánh giá và đo lường kết quả học tập


Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến tính tin cậy của đánh giá. Những yếu tố
bên trong như: sức khỏe, tâm trạng, động cơ, nhận thức, kỹ năng thực hiện
của đối tượng đánh giá. Những yếu tố từ bên ngoài như: chất lượng của
công cụ đánh giá, hướng dẫn làm bài, điều kiện môi trường diễn ra quá
trình thực hiện đo lường và đánh giá.
Ví dụ: anh (chị) tự cho dựa vào trường hợp của đơn vị mình công tác
Câu 2: Thế nào là đánh giá giáo dục, chất lượng giáo dục, tiêu chí, tiêu
chuẩn, chỉ báo. Cho ví dụ xác định các tiêu chuẩn, tiêu chí, chỉ báo đánh
giá chất lượng giáo dục của một trường, một giờ dạy của giảng viên theo
hướng đổi mới.
Trả lời:
Đánh giá trong giáo dục là quá trình tiến hành có hệ thống để xác định
mức độ mà đối tượng đạt được các mục tiêu giáo dục nhất định. Nó bao
gồm sự mô tả về định tính hay định lượng những kết quả đạt được và so
sánh với mục tiêu giáo dục đã xác định.
Chất lượng giáo dục là tổng hòa những phẩm chất, năng lực của người
học được tạo nên trong quá trình giáo dục – đào tạo, bồi dưỡng cho người
học so với thang giá trị của nhà nước và xã hội nhất định.
Tiêu chí: là mức độ yêu cầu và điều kiện cần đạt được ở mỗi nội dung
cụ thể ở mỗi tiêu chuẩn.
Tiêu chuẩn: là mức độ yêu cầu và điều kiện mà đối tượng phải đáp ứng.
Chỉ báo: là những dấu hiệu, đặc điểm đặc trưng biểu hiện hành vi cụ thể
của mỗi tiêu chí.
Ví dụ: anh (chị) tự cho dựa vào trường hợp của đơn vị mình công tác
Câu 3: Trong các nguyên tắc đánh giá giáo dục, nguyên tắc nào trong
thực tế khó thực hiện nhất, vì sao.
Trả lời:
Các nguyên tắc đánh giá trong giáo dục:
- Tính quy chuẩn: tuân theo những chuẩn mực nhất định để đạt
được mục tiêu phát triển hoạt động dạy – học và đảm bảo lợi ích


người được đánh giá. Các chuẩn đánh giá được ghi rõ trong văn bản
pháp quy và được công bố công khai đối với người được đánh giá.
Các văn bản này phải được đầy đủ, chi tiết, rõ ràng từ mục tiêu, hình
thức đánh giá, cấu trúc đề,…
- Tính khách quan: chỉ có đánh giá khách quan mới có thể kích
thích, tạo động lực người được đánh giá và cho những kết quả đáng
tin cậy làm cơ sở cho các quyết định quản lý khác.


Đánh giá và đo lường kết quả học tập
- Tính toàn diện: yêu cầu phát triển nhân cách toàn diện. Kiểm
tra đánh giá phải đáp ứng được toàn bộ mục đích của đánh giá, các
tiêu chuẩn, tiêu chí đánh giá.
- Tính thường xuyên, liên tục, hệ thống: việc kiểm tra, đánh giá
phải đảm bảo được tính thường xuyên, liên tục, hệ thống. Điều này
được thể hiện ở các điểm sau:
+ Đánh giá trước, trong, sau khi học xong một phần, một chương,
một môn học.
+ Kết hợp kiểm tra, đánh giá thường xuyên, kiểm tra đánh giá
định kỳ, tổng kết cuối năm, cuối khóa học.
+ Số lần kiểm tra phải đủ mức để có thể đánh giá được chính xác.
- Tính công khai: việc kiểm tra, đánh giá phải được tiến hành
công khai. Kết quả kiểm tra, đánh giá phải được công bố kịp thời để
học sinh có thể:
+ Tự xếp hạng trong tập thể
+ Tập thể học sinh hiểu biết, học tập giúp đỡ lẫn nhau
Kết quả kiểm tra, đánh giá phải được ghi vào hồ sơ, sổ sách.
- Tính phát triển: chỉ ra những kết quả đáng tin cậy khẳng định
hiện trạng của đối tượng so với mục tiêu. Tìm ra nguyên nhân của
các sai lệch và có biện pháp khắc phục. Đánh giá không chỉ giúp


người được đánh giá nhận ra hiện trạng cái mình đạt mà còn có niềm
tin, động lực để phấn đấu, khắc phục những điểm chưa phù hợp để
đạt tới trình độ cao hơn.
Nguyên tắc khó thực hiện trong thực tế nhất là: nguyên tắc đảm bảo
tính phát triển.

Câu 4: Phân tích những định hướng đổi mới, hoàn thiện đánh giá giáo
dục hiện nay và đề xuất các biện pháp thực hiện tại cơ sở giáo dục của anh
(chị).
Trả lời:
Kiểm tra, đánh giá là một hoạt động không thể thiếu trong quá trình dạy
học. Hay nói cách khác, kiểm tra, đánh giá là một trong những yếu tố cấu
thành của hệ thống, quá trình giáo dục. Do đó, yêu cầu đổi mới căn bản và
toàn diện nền giáo dục đang được đặt ra một cách cấp thiết hiện nay tất yếu
bao gồm cả yêu cầu đổi mới kiểm tra, đánh giá.
Trong một xã hội liên tục thay đổi, phát triển, muốn đổi mới giáo dục,
vai trò của kiểm tra, đánh giá rất quan trọng. Qua đó, có thể xác định được
mức độ thực hiện mục tiêu dạy học, từ đó đánh giá được hiệu quả hoạt


Đánh giá và đo lường kết quả học tập
động dạy học và giáo dục. Sự phát triển của đất nước đòi hỏi GD&ĐT tạo
phải đổi mới căn bản, toàn diện, trong đó có đổi mới kiểm tra, đánh giá.
a) Sự yếu kém trong kiểm tra, đánh giá
Điểm yếu nhất là chưa xác định rõ triết lý đánh giá: Đánh giá để làm gì,
tại sao phải đánh giá, đánh giá nhằm thúc đẩy, hình thành khả năng gì ở
người học?...
- Đánh giá trước hết phải vì sự tiến bộ của học sinh, giúp học
sinh nhận ra mình đang ở đâu trên con đường đạt đến mục tiêu bài
học, chuẩn kiến thức, kỹ năng…


- Đánh giá không làm học sinh lo sợ, bị thương tổn, mất tự tin.
- Đánh giá phải diễn ra trong suốt quá trình dạy học, giúp các
em liên tục được phản hồi để biết mình mắc lỗi, thiếu hoặc yếu ở
điểm nào để cả giáo viên và học sinh cùng điều chỉnh hoạt động dạy
và học.
- Đánh giá phải tạo ra sự phát triển, phải nâng cao năng lực của
người học, tức là giúp các em hình thành khả năng tự đánh giá, đánh
giá lẫn nhau,… để phát triển năng lực tự học. Hiện nay rất nhiều giáo
viên, các cán bộ quản lý giáo dục chưa thấu hiểu triết lý đánh giá,
chủ yếu mới chỉ tập trung vào đánh giá kết quả học tập, để xếp loại
học sinh,…
Giáo viên cũng gặp rất nhiều khó khăn khi phải đánh giá các hoạt động
giáo dục (đánh giá các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, đánh giá đạo
đức, giá trị sống, kỹ năng sống…). Nếu đánh giá chỉ là sự học thuộc bài,
làm lại theo các kiểu, dạng bài mẫu thầy đã cho sẽ triệt tiêu sự phát triển,
sự nỗ lực vươn lên ở người học.
Thứ hai, là đánh giá (chấm điểm) mà không có sự phản hồi cho người
học. Cô chấm bài kiểm tra thì thường chỉ cho điểm hoặc chỉ phê “sai”,
“làm lại” hay đánh ký hiệu đúng chứ chưa giải thích được rõ cho học sinh
biết tại sao sai, sai như thế nào. Bên cạnh đó, nếu giáo viên có phản hồi
(chữa bài) lại thường đưa ra lời giải đúng theo cách tư duy của giáo viên,
mà không giúp phân tích mổ xẻ những cách tư duy của học sinh dẫn đến sự
sai sót.
Nhiều giáo viên còn đưa ra những nhận xét âm tính, tiêu cực, làm học
sinh mất niềm tin. Đánh giá lại khuôn vào một số kiểu loại bài toán, dạng
bài văn, không nhằm bộc lộ năng lực suy nghĩ, sự trải nghiệm đa dạng,
phong phú của người học, tức tập trung vào một số kiểu đề thi và chỉ để
đáp ứng các kỳ thi, điều này làm cho quá trình dạy học bị bó méo chỉ để
phục vụ mục đích thi cử, nên mới xảy ra hiện tượng mọi học sinh muốn thi
đỗ phải đến lớp luyện thi.


Thứ ba, là hiện nay, giáo viên sử dụng hầu như rất hạn chế các hình
thức đánh giá. Phần lớn những đánh giá dựa vào viết tiểu luận, làm bài tập
như: kiểm tra 15 phút, kiểm tra 1 tiết,… và thông qua một số câu hỏi trắc
nghiệm hoặc tự luận mà chính giáo viên cũng không rõ mình định đánh giá


Đánh giá và đo lường kết quả học tập
kỹ năng hay năng lực gì ở học sinh. Khi giáo viên chưa đa dạng hóa các
kiểu đánh giá sẽ làm cho hoạt động học tập nhàm chán, sẽ khó phát triển
các năng lực bậc cao ở người học (như năng lực giải quyết vấn đề, năng lực
tư duy sáng tạo,…). Trong khi đó, yêu cầu của đổi mới kiểm tra đánh giá là
phải áp dụng đa dạng các hình thức đánh giá: đánh giá bằng trắc nghiệm,
bằng kiểm tra viết tự luận, đánh giá thông qua sản phẩm, thông qua hồ sơ
học sinh, qua thuyết trình, trình bày, thông qua tương tác nhóm, thông qua
các sản phẩm của nhóm,… đánh giá bằng các tình huống bài tập, các hình
thức tiểu luận,… thì giáo viên chưa làm được vì chưa được đào tạo.
b) Cách thức đổi mới kiểm tra, đánh giá
Đổi mới kiểm tra đánh giá, trước hết phải bắt đầu từ chính trong ý thức
của giáo viên và cán bộ quản lý. Nếu người ta hiểu đó là vấn đề sống còn,
vì lợi ích của học sinh, vì tương lai của nhà trường thì người ta mới nỗ lực
để đổi mới kiểm tra đánh giá theo cách tiếp cận năng lực. Đây là vấn đề
khó, đòi hỏi phải có thời gian. Giáo viên phải được tập huấn về đổi mới
kiểm tra đánh giá theo cách tiếp cận năng lực là thế nào? Tập trung đánh
giá những năng lực cốt lõi nào? Chẳng hạn các bài kiểm tra thiết kế thế nào
để đánh giá được các năng lực tư duy bậc cao của học sinh (tư duy sáng
tạo, năng lực giải quyết vấn đề…). Giáo viên đang thiếu động lực để đổi
mới kiểm tra đánh giá. Các nhà quản lý giáo dục phải nỗ lực bằng những
chính sách, chế tài,… để thúc để giáo viên đổi mới kiểm tra đánh giá.
Thứ hai là bắt đầu từ học sinh, ở chỗ phải tổ chức, hướng dẫn để học
sinh biết cách tự đánh giá, học sinh được đánh giá lẫn nhau, mọi sự đổi mới


kiểm tra đánh giá phải làm cho học sinh tích cực hơn, nỗ lực hơn và phải
dẫn đến sự biến đổi ở người học (không chỉ là làm chủ kiến thức, kỹ
năng… mà thay đổi cả thái độ, niềm tin) hình thành ở học sinh khả năng tự
kiểm tra, tự đánh giá.
Khi xây dựng bài kiểm tra đánh giá, bao giờ cũng cần phải xác định
mục tiêu của kiểm tra đánh giá là gì? Những kiến thức, kỹ năng hay năng
lực nào cần đánh giá. Có những phương pháp, kỹ thuật nào trong kiểm tra,
đánh giá? và sử dụng kết quả kiểm tra đó như thế nào?... Kiểm tra đánh giá
là một phần không thể thiếu được của quá trình dạy học, do đó, ít nhất nó
phải vì sự tiến bộ của học sinh. Có nghĩa là phải cung cấp những
thông tin phản hồi để mỗi học sinh biết mình tiến bộ đến đâu? Biết mình
làm chủ được kiến thức, kỹ năng này ở mức nào và phần nào còn hổng…
những sai sót nào trong nhận thức học sinh thường mắc,… qua đó điều
chỉnh quá trình dạy và học; đánh giá phải làm sao để học sinh không sợ hãi,
không bị thương tổn, từ đó thúc đẩy học sinh nỗ lực, hình thành sự tự tin…
Đánh giá phải diễn ra trong suốt quá trình dạy học; học sinh phải được
giáo viên phản hồi sau mỗi lần đánh giá, được hướng dẫn cách thức tự đánh
giá, đánh giá lẫn nhau. Có như vậy, học sinh mới tự phản hồi với bản thân
xem kết quả học tập của mình đến đâu, tốt hay chưa tốt như thế nào. Đánh


Đánh giá và đo lường kết quả học tập
giá đó mới hình thành năng lực của học sinh, cái mà chúng ta đang rất
mong muốn.
Phải làm cho giáo viên thấu hiểu được triết lý đánh giá, giáo viên phải
được đào tạo để có kiến thức, kỹ năng, làm chủ được quá trình đánh giá và
phải biết nhiều phương pháp, kỹ thuật đánh giá. Phương pháp, kỹ thuật
đánh giá càng đa dạng, thì mức độ chính xác trong đánh giá càng cao, làm
bộc lộ các khả năng khá nhau của học sinh
Để thực hiện được những điều trên, quan trọng nhất là sự thay đổi nhận


thức của giáo viên, của lãnh đạo; sự hỗ trợ của các nhóm chuyên gia và dư
luận xã hội ủng hộ. Chừng nào còn giữ nguyên thói quen đánh giá theo
kiểu cũ, đánh giá dựa trên sự học thuộc, bài làm của học sinh viết theo
khuôn mẫu thì chừng đó dạy học khó tích cực hóa người học, giáo dục theo
kiểu áp đặt từ giáo viên khó mà hình thành năng lực ở người học.
Còn trước mắt, có thể chọn những vấn đề cần tập trung ngay như khâu
bồi dưỡng cho giáo viên, CBQL về kiểm tra, đánh giá; bày cho giáo viên
một số phương pháp kiểm tra đánh giá mà họ có thể thực hiện được, chẳng
hạn giúp giáo viên biết phương pháp thiết kế các câu hỏi thi tự luận ngắn
theo kiểu đề mở.
Nếu thực hiện được việc kiểm tra đánh giá hướng vào đánh giá quá
trình, giúp phát triển năng lực người học thì lúc đó quá trình dạy học trở
nên tích cực hơn rất nhiều. Qúa trình đó sẽ nhắm đến mục tiêu xa hơn, đó là
nuôi dưỡng hứng thú học đường, tạo sự tự giác trong học tập và quan trọng
hơn là gieo vào lòng học sinh sự tự tin, niềm tin “người khác làm được thì
mình cũng sẽ làm được”. Điều này vô cùng quan trọng để tạo ra mã số
thành công của mỗi học sinh trong tương lai.
Ví dụ: anh (chị) tự cho dựa vào trường hợp của đơn vị mình công tác