Thế nào là người tài đức

Thế nào là người tài đức

Các thành viên Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân vào tháng 9/1945, trong đó có các nhân sĩ, trí thức ngoài Đảng Cộng sản như Dương Đức Hiền, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Văn Tố, Vũ Trọng Khánh, Vũ Đình Hòe, Đào Trọng Kim... (Ảnh tư liệu)

Người viết: “Sau 80 nǎm bị bọn Pháp thực dân giày vò, nước Việt Nam ta cái gì cũng kém cỏi, chỉ có lòng sốt sắng của dân là rất cao. Nay muốn giữ vững nền độc lập thì chúng ta phải đem hết lòng hǎng hái đó vào con đường kiến quốc. Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc. Kháng chiến có thắng lợi thì kiến quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi. Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều.

Chúng ta cần nhất bây giờ là:

Kiến thiết ngoại giao

Kiến thiết kinh tế

Kiến thiết quân sự

Kiến thiết giáo dục

Vậy chúng tôi mong rằng đồng bào ta ai có tài nǎng và sáng kiến về những công việc đó, lại sẵn lòng hǎng hái giúp ích nước nhà thì xin gửi kế hoạch rõ ràng cho Chính phủ. Chúng tôi sẽ nghiên cứu kế hoạch ấy một cách kỹ lưỡng có thể thực hành được thì sẽ thực hành ngay”.

Phải nói thêm rằng, lúc bấy giờ, nhân dân ta rất hăng hái, phấn khởi với nền độc lập, với nhà nước mới, với công cuộc kháng chiến đã bắt đầu ở Nam bộ, nhưng trình độ dân trí có hạn, lại có lúc có nơi còn tình trạng “tranh tối tranh sáng” do sự tác động của các thế lực chính trị khác. Đồng thời, điều kiện thông tin, liên lạc, thể hiện quan điểm, chính kiến cũng rất hạn chế. Do đó, những người có tài năng, có tâm huyết, có mong muốn xây dựng đất nước không phải dễ dàng biểu thị thái độ và năng lực của mình. Chính lời động viên mang tính hiệu triệu của người đứng đầu Chính phủ có ý nghĩa rất lớn trong việc thu hút sự tham gia đóng góp trí tuệ, tâm huyết của các tầng lớp nhân dân, trong đó có những người được coi là “nhân tài”.

Hơn 1 năm sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã công bố văn bản Tìm người tài đức đăng trên Báo Cứu quốc ngày 20/11/1946. Người viết: “Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có nhân tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp, đến nỗi những bậc tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa nhận.

Nay muốn sửa điều đó và trọng dụng những kẻ hiền năng, các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có thể làm được những việc ích nước lợi dân, thì phải báo cáo ngay cho Chính phủ biết. Báo cáo phải nói rõ tên tuổi, nghề nghiệp, tài năng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng, các cơ quan địa phương phải báo cáo cho đủ”.

Ngay sau đó, cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp đã nổ ra, chúng ta không rõ các địa phương đã tìm được bao nhiêu người tài đức, đã bố trí, sử dụng họ ra sao, những người nào đã thực sự phát huy và có đóng góp cho đất nước… Nhưng chính văn bản có tính chất như một “thư cầu hiền” (về ý nghĩa như là “chiếu cầu hiền” của các vua chúa dưới chế độ phong kiến) đã mang tính gợi mở, khích lệ những người có trí tuệ, có năng lực sẵn sàng tham gia các công việc của Chính phủ, từ hoạt động kháng chiến cho đến công tác kiến quốc.

Có một điều lý thú về công tác “cầu hiền” của Bác Hồ được nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Khoan kể lại trong cuốn Tấm gương Bác, ngọc quý của mọi nhà, Nhà xuất bản Công an nhân dân ấn hành năm 2007. Năm 1995, theo chỉ thị của Tổng Bí thư Đỗ Mười, Viện Mác - Lênin - Hồ Chí Minh đã cử đoàn cán bộ đi sưu tầm, tiếp cận tất cả các tư liệu, bài viết của Bác Hồ có được và được phép nghiên cứu tại tất cả các cơ quan trong cả nước. Một cán bộ đã phát hiện tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam có một mảnh giấy nhỏ, viết bằng chữ Hán theo lối chữ thảo, được ghi rõ là bút tích của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Mảnh giấy có 8 chữ, viết thành 2 hàng: Tập hợp nhân tài, Bất phân đảng phái. Nhiều người đã coi đây là “8 chữ thần kỳ của Bác Hồ”, bởi từ quan điểm này, hàng loạt nhân tài ở các đảng phái, có nhiều người ở nước ngoài, có nhiều người từng làm việc ở các chính quyền cũ… đã tham gia công việc của Chính phủ mới, có nhiều đóng góp cho nước nhà, bản thân họ cũng được vinh danh thành những nhân vật lỗi lạc của thời đại mới…

Dĩ nhiên, trong việc thu hút người tài đức tham gia xây dựng đất nước, chúng ta không quên yếu tố tài và đức đi liền với nhau, như trong văn bản của Hồ Chí Minh đã công bố. Người luôn chú trọng chọn người tài đức vẹn toàn, như chính Người đã nói: "Có tài không có đức là người vô dụng. Có đức mà không có tài làm việc gì cũng khó".

Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách thu hút người tài tham gia vào các cơ quan của Đảng, của Chính phủ. Bên cạnh việc tuyển chọn từ trên ghế nhà trường, đưa đi đào tạo ở nước ngoài, có chế độ đãi ngộ phù hợp, thời gian qua, nhiều người Việt Nam thành danh ở nước ngoài cũng được mời về nước tham gia vào các viện nghiên cứu, các trường đại học hoặc trực tiếp đóng góp vào các công trình, dự án… Nhiều cơ quan, địa phương đã tổ chức thi tuyển để chọn người lãnh đạo thay vì chỉ thực hiện cách thức truyền thống là xét chọn, bổ nhiệm, đề bạt. Hay ở TPHCM, thời gian qua, Thành ủy, UBND Thành phố đã thực hiện việc tiếp nhận ý kiến của các tầng lớp nhân dân về tất cả các lĩnh vực, đồng thời tổ chức Giải thưởng Sáng tạo Thành phố để thu hút và khích lệ các sáng kiến, sáng tạo có thể đóng góp tích cực vào sự phát triển của Thành phố.

Tuy nhiên, học tập quan điểm của Bác Hồ về tìm người tài đức, chúng ta phải thực sự tìm đúng người có tài và có đức. Người có tài không chỉ dựa trên bằng cấp mà còn phải chú ý đến hoạt động thực tiễn, như có đáp ứng được yêu cầu công việc hay không, làm việc có hiệu quả không, có phối hợp hay động viên người khác làm việc tốt hơn hay không… Người có đức không phải thể hiện qua lời nói, qua thái độ ở nơi làm việc mà phải nhất quán trong sinh hoạt, trong ứng xử với mọi người, nhất là với nhân dân, phải thực hiện tích cực “cần”, “kiệm”, “liêm”, “chính”, “chí công vô tư” trong công tác, phải “nhân”, “nghĩa”, “trí”, “dũng”, “liêm” trong sinh hoạt hàng ngày. Đồng thời, phải tạo ra cơ chế phù hợp để người có tài đức thực sự phát huy được năng lực của mình, cũng như cần có chính sách đãi ngộ tương xứng với đóng góp của họ…

Tìm người tài đức phải là công việc thường xuyên, liên tục chứ không phải hô hào cho có hoặc lúc làm lúc nghỉ. Cả hệ thống chính trị phải xem đây là công việc quan trọng và thực sự quan tâm thực hiện, để thu hút người có tài, có đức tham gia công tác trong hệ thống chính trị, tránh để “chảy máu chất xám” ra nước ngoài!.

Theo https://www.hcmcpv.org.vn

“Đức” với “tài” là phẩm chất, năng lực của mỗi con người cần phải có để sống, trưởng thành, góp phần cho xã hội tồn tại và phát triển. Đức là phẩm chất tốt đẹp do con người tu dưỡng, rèn luyện theo những tiêu chuẩn được xã hội thừa nhận, còn tài thể hiện ở năng lực xuất sắc, khả năng làm việc sáng tạo của mỗi con người trong công việc của mình đảm nhiệm đem lại lợi ích cao cho xã hội.

Thế nào là người tài đức

Sinh thời Hồ Chí Minh nói rất nhiều về việc rèn luyện đức với tài của cán bộ đảng viên, bộ đội, công an và thanh, thiếu niên - những chủ nhân hiện tại và tương lai của sự nghiệp cách mạng, của Tổ quốc. Vì vậy, khi đánh giá về vai trò của đạo đức trong đời sống, Hồ Chí Minh đã khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển của con người, như gốc của cây, như ngọn nguồn của của sông, suối. Người nói: "Cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn, cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù có tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân". Người cho rằng: "Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang".

Do đó, tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức trong hành động, lấy hiệu quả thực tế làm thước đo. Chính vì vậy, Người luôn đặt đạo đức bên cạnh tài năng, gắn đức với tài, lời nói đi đôi với hành động và hiệu quả trên thực tế. Theo Bác: "Có tài mà không có đức ví như một anh là kinh tế tài chính giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những không làm được gì ích lợi cho xã hội, mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà không có tài ví như ông Bụt không làm hại gì, nhưng cũng không có lợi gì cho loài người”. Đồng thời Người yêu cầu: "phải lấy kết quả thiết thực đã góp sức bao nhiêu cho sản xuất và lãnh đạo sản xuất mà đo ý chí cách mạng của mình. Hãy kiên quyết chống bệnh nói suông, thói phô trương hình thức, lối làm việc không nhằm mục đích nâng cao sản xuất".

Như vậy, tầm quan trọng của đạo đức bao giờ cũng được Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu. Người cho rằng, cách mạng muốn thắng lợi, cùng với giác ngộ chính trị, tăng cường sức mạnh tổ chức, thì phải có sức mạnh về đạo đức bằng sự tu dưỡng, rèn luyện. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, từ bài giảng đầu tiên cho thế hệ thanh niên yêu nước, cho đến tác phẩm đỉnh cao cuối cùng của cuộc đời là bản Di chúc, Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến vấn đề đạo đức và tu dưỡng đạo đức, coi đạo đức là gốc của người cách mạng.

Hồ Chí Minh rất coi trọng đạo đức, nhưng Người cũng rất quan tâm đến tài năng, trí tuệ và luôn tạo điều kiện để cho mỗi người rèn luyện tài năng, đem tài năng cống hiến cho xã hội, vì đạo đức là nền tảng cho tài năng phát huy và tài năng là thể hiện cụ thể của đạo đức trong hiệu quả hành động. Vì vậy, hai mặt đức với tài thống nhất không tách rời nhau, tạo điều kiện cho nhau, giúp cho con người hoàn thành được nhiệm vụ của mình.

Theo đó, với sự nghiệp "trồng người" thì Hồ Chí Minh luôn bắt đầu từ xây dựng nền tảng đạo đức; Bác thường xuyên bồi đắp cái nền tảng ấy cho con người. Bởi vì theo Bác: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa suống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong. Có gì sung sướng vẻ vang hơn là trau dồi đạo đức cách mạng để góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và giải phóng loài người". Do đó, việc rèn luyện đức tài là nhiệm vụ của mỗi công dân Việt Nam để đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp cách mạng ngày càng cao. Trong quá trình rèn luyện đức tài thì Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy chúng ta cần chú ý: đức trước tài sau; chính trị với chuyên môn thì chính trị trước chuyên môn sau. Trong bản Di chúc chỉnh sửa lần cuối (năm 1969) để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, mặc dù chỉ vẻn vẹn 1.100 từ, nhưng Bác vẫn không quên căn dặn Đảng ta chăm lo bồi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước, Người yêu cầu Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, giáo dục thanh niên trở thành người vừa "hồng" vừa "chuyên", trong đó "hồng" là đức “chuyên” là tài, hồng trước chuyên sau. Bởi vì theo Người, muốn xây dựng CNXH trước hết phải có con người mới XHCN với đặc trưng cơ bản là vừa "hồng" vừa "chuyên".

Hồng với chuyên là quan điểm nổi bật có tính bao quát trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất con người mới XHCN. Hồng là phẩm chất, là đạo đức của người cách mạng: yêu nước, trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người, sống có nghĩa, có tình; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; chống chủ nghĩa cá nhân và có tinh thần quốc tế trong sáng. Chuyên là sự thể hiện trí tuệ, tài năng, năng lực của cá nhân con người gắn liền với sự khổ công học tập, rèn luyện để có tri thức, nâng cao tri thức và dùng chính những tri thức mình có được mà phục vụ cho sự phát triển của cộng đồng, của CNXH. Chính vì vậy, bên cạnh việc giáo dục lý tưởng cách mạng, Hồ Chí Minh còn chú trọng giáo dục kiến thức văn hóa, khoa học - kỹ thuật nhằm phát triển trí tuệ cho con người Việt Nam. Người viết: "Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn. Trong thời gian không xa, đạt tới đỉnh cao của khoa học, kỹ thuật".

Như vậy, có thể nói, đức với tài trong tư tưởng Hồ Chí Minh có mối quan hệ khăng khít với nhau, là hai mặt cơ bản của con người mới nói riêng và được xem như nội hàm của con người mới XHCN. Trong đó đức là gốc, nhưng tài là quan trọng và Bác luôn nhắc nhở chúng ta không được xem nhẹ mặt nào, Người ví: có đức mà không có tài thì không khác ông Bụt, không làm gì hại ai, nhưng cũng không làm được gì có ích cho mọi người. Ngược lại có tài mà không có đức thì sẽ trở thành kẻ phá hoại.

Ngày nay, sự nghiệp đổi mới đất nước toàn diện theo định hướng XHCN, nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam đã có những thay đổi, song những tiêu chuẩn cơ bản nhất của người cán bộ cách mạng "vừa hồng vừa chuyên" vẫn còn nguyên giá trị. Hồng là có đạo đức cách mạng: yêu nước, trung với nước, hiếu với dân, là cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Chuyên là giỏi về công việc đang làm, đang đảm nhiệm, phải tỏ rõ năng lực sáng tạo, có tinh thần đổi mới, thích ứng với cái hiện đại, không được bằng lòng với những gì mình đang có...

Với ý nghĩa sâu sắc cả về thực tiễn và lý luận đối với việc rèn luyện đức tài với tất cả mọi người dân Việt Nam nói chung, với cán bộ, đảng viên nói riêng, những người đang trực tiếp làm nhiệm vụ phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân, đưa mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đến toàn thể nhân dân thì việc rèn luyện đức tài trong giai đoạn hiện nay - giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, chủ động và tích hội nhập quốc tế càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.

Với tư cách là vừa người lãnh đạo, vừa là đầy tớ thật trung thành, là công bộc của nhân dân thì mỗi cán bộ đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, rèn luyện đức tài để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng mới. Về đức cần rèn luyện không mệt mỏi những đức tính: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, lòng yêu nước nồng nàn, tận trung với nước, tận hiếu với dân, tận hiến cho Tổ quốc, rèn luyện ý chí cách mạng, bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất tốt đẹp để xứng đáng với niềm tin của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Về tài cần phải phấn đấu học, học nữa, học mãi, học tập suốt đời, học không mệt mỏi, phải xác định “học tập là quyển vở không có trang cuối cùng” để không ngừng phát triển trí tuệ, làm giàu tri thức cho mình trong kho tàng tri thức của nhân loại; phải hiểu rằng những gì mình biết về thế giới này chỉ là giọt nước trong biển cả, còn những điều mình chưa biết mới là đại dương bao la. Do vậy, không được bằng lòng về sự học tập, mà ngược lại phải tiên phong trong học tập, trong tu dưỡng, rèn luyện đức tài, nhằm ngày càng hoàn thiện bản thân mình hơn nữa, để thực hiện nhiệm vụ chính trị của mình một cách vững tin nhất, hiệu quả nhất, từ đó mà có ý thức cao về vị trí, nghĩa vụ, bổn phận của mình đối với xã hội, đối với sự nghiệp cách mạng, đối với con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.


Hoàng Bằng Giang
Trường Chính trị tỉnh Tuyên Quang

Các bài khác

  • Đưa việc “làm theo” lan tỏa trong hội viên (25/02/2016)
  • Đảng bộ Công ty Xăng dầu Tuyên Quang học tập và làm theo tấm gương đạo đức Bác Hồ (17/02/2016)
  • Hội Phụ nữ Bộ CHQS tỉnh làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh (02/12/2015)
Xem thêm »

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17 18 19 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 Tháng 1 Tháng 2 Tháng 3 Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7 Tháng 8 Tháng 9 Tháng 10 Tháng 11 Tháng 12 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 2018 2019 2020 2021 2022