Top 100 bài hát soul của thập niên 60 năm 2022
Chúc mừng bạn đã thêm playlist 100 Ca Khúc Hay Nhất Mọi Thời Đại (Vol. 1) thành công Show Album gồm 4 CD tuyển chọn 100 ca khúc hay nhất mọi thời đại do hãng ABC News bình chọn. Và dù ra đời vào thập niên 70 nhưng ca khúc đứng vị trí thứ nhất chính là bản Hotel California của The Eagles đã trở nên bất hủ. Còn chờ gì mà không thưởng thức 100 Hot Biggest Songs. rút gọn xem thêm Chúc mừng bạn đã thêm playlist Nhạc Âu Mỹ Bất Hủ Thập Niên 80s thành công Mời các bạn thưởng thức tuyển tập những bài hát hay nhất thập niên 80s qua sự thể hiện của những nghệ sĩ tên tuổi tại website nghe nhạc trực tuyến hàng đầu NhacCuaTui.Com. rút gọn xem thêm Phần 1 : Nhạc Việt-Nam Một phát-minh đã giúp vào sự thành-công của loại nhạc này là đàn điện, máy ampli, mi-crô để làm tăng thêm phần kích động và máy hát dĩa 45 tours để phổ biến rộng hơn.
Những bài đầu tiên vào ngay Top hits là Heartbreak Hotel và Love me tender năm 1956. Có ai lại không biết những bài này, cũng như sau đó, những bài Don’t be cruel, It’s now or never, Are you lonesome tonight? hay Can’t help falling in love? Chú
tôi dĩ nhiên là mê, cho nên tôi biết những bài này từ lâu lắm. Trong những bài nhạc phổ-thông khác (= pop music, chữ tắt của popular music: cũng nên nhắc là pop music không phải là một loại nhạc mà chỉ là nhạc phổ-thông của mỗi thời), tôi cũng được nghe ké Paul Anka và bài Diana, nữ tài tử - ca sĩ Doris Day và bài Que sera sera (What ever will be,
will be), Neil Sedaka (Oh Carol) và dĩ nhiên phải có Frank Sinatra trong thập-niên 60, với Strangers in the night và My way (phỏng theo bài Comme d’habitude của nhạc-sĩ Pháp Claude François). Trong thời-điểm này, nhất định không thể quên ban nhạc da đen The Platters với những bài tha thiết như Only you, My prayer, Smoke gets in your eyes, The great pretender,… Rock & Roll và âm-nhạc Mỹ lan tràn ra ngoài nước Mỹ, nhất là bên Anh vì dùng chung một ngôn-ngữ và có nhiều nét văn-hoá giống nhau. 2.2 Nhạc Anh-Mỹ 60-70 Thập-niên 60 trở thành mấu quan-trọng nhất trong lịch-sử âm-nhạc Âu-Mỹ. 2.2.1 Nhạc Anh 60-70 Bên Anh quốc, cuối thập-niên 50, vô số những ban nhạc được thành-lập chung quanh những tỉnh Manchester, Birmingham, London và nhất là Liverpool. Beat
music (thường bị gọi trại là nhạc Pop), kết hợp từ Rock&Roll và Midtempo beat sẽ là một thể-điệu chính cho những ban nhạc Anh. Nói chung, nhạc này "nhẹ" hơn Rock. Nổi tiếng nhất dĩ nhiên là The Beatles (tên này đến từ ban nhạc thần-tượng Mỹ Buddy Holly and the Crickets = dế, so với beetle= bọ). Beatlemania là hiện-tượng quan-trọng nhất của pop music thời đó và the Fab(ulous) Four đã để lại dấu ấn thật sâu đậm trong lòng người yêu nhạc (hơn 800 triệu đĩa bán trên khắp hoàn-cầu). Trong những bài nhạc đầu tiên, Please, please me, Love me do, From me to you, She loves you,… bắt đầu leo lên bậc Top hits. Đầu 1963, I want to hold your hand đứng đầu Billboard Hot 100 của Mỹ, đánh dấu cuộc “xâm lăng” ngược trở lại Mỹ (British invasion), khi sau đó The Beatles được mời tham-gia chương-trình Ed Sullivan show. Nói về Pop music 60-70, chắc hẳn chúng ta sẽ phải ghi nhớ mãi biết bao nhiêu bài nhạc của ban nhạc này? Một vài ban nhạc Anh nổi tiếng khác (đừng bắt tôi kể ra hết nhé) mà tôi sẽ không quên: - The Moody Blues: Thuở xưa đi "bùm" ở Sài-Gòn, mấy cậu, ai chẳng rình rình những nốt nhạc đầu tiên của bài Nights in white satin trổi lên để đi mời đào nhảy? - Procol Harum với A whiter shade of pale (cũng y như Nights in white satin nói trên), Homburg, … - Herman’s Hermits với No milk today và There’s a kind of hush, …; - Eric Burdon và The Animals với bài The house of the rising sun bất hủ mà người mới tập chơi ghi-ta cũng phải thử qua, Don’t let me be misunderstood, … Cái giọng khoẻ và khàn của Burdon thật hợp với nhạc Blues. Tôi rất thích album Before we were so rudely interrupted khi ban nhạc tụ lại một lần nữa để ra đĩa này; - The Hollies (Bus stop, He ain’t heavy, he’s my brother,…); - The Troggs với Wild thing,.. Trong thể loại này còn có vài ca sĩ như: - Cliff Richard (& The Shadows một dạo) đã là một trong những ca sĩ đầu tiên tôi mê với The young ones, Summer holiday, When the girl in your arms,… - Peter and Gordon với A world without love,…; - Petula Clark, mệnh danh là The First Lady of British Invasion, hát tiếng Anh và tiếng Pháp, với Downtown, Chariot, …; - Donovan với Mellow yellow,...; - Cat Stevens (Wild world, Lady d’Arbanville, Where do the children play,…); sau này, anh quay sang đạo Hồi; - Sir Tom Jones (She’s a lady, What’s new Pussycat, Delilah, Green green grass of home, Sex bomb, …) - Sir Elton John nhưng tôi không thích cho lắm; - … … Song song với Beat, thể loại British Blues cũng phát triển mạnh với
- The Yardbirds nổi danh với 3 tay đàn khét tiếng là Eric Clapton (mệnh danh Slowhand, sau này lập ban nhạc Cream, với những bài Sunshine of your love, White room, Badge,…), Jimmy Page sau này sáng lập Led Zeppelin (gọi tắt là Led Zep) mà tôi mê nhất là bài Stairways to heaven, và Jeff Beck mà tôi ít theo dõi. Psychedelic hơn có Pink Floyd (tôi mê nhất là Shine on your crazy diamond, Wish you were her, Dark dide of the moon,… và tôi nghĩ có lẽ nghe nhạc này một khi đã hít vài hơi Marijuana vào thì chắc phải phê lắm?, chưa thử nên tôi không biết. Ngoài ra, còn có Joe Cocker nổi tiếng với bài With a little help from my friends, nhạc của The Beatles mà lại đặc biệt hơn, “hay” hơn The Beatles mới chết chứ? Giọng anh này khàn đục (không biết có phải do rượu, thuốc lá, ma tuý không?) mà cách trình diễn trên sân khấu say mê như “lên đồng”, phê lắm. Nặng hơn là Hard Rock hay Heavy Metal (phân biệt hai loại này không dễ, có người nói Hard rock dựa trên Blues còn Heavy metal dựa trên nhạc cổ-điển?), với những ban nhạc như Led Zeppelin, The Who (tay ghi-ta nổi tiếng ở điểm mỗi lần lên sân khấu, anh lại đập gãy đàn), Black Sabbath, Queen hay Deep Purple (Smoke on the water, Black night,…). Progressive Rock Chuyển biến từ Blues Rock và Psychedelic Rock, thể loại này là sở-trường các ban nhạc Anh như King Crimson; Genesis (ca sĩ Peter Gabriel sau được thay thế bởi tay trống Phil Collins); Jethro Tull; Emerson Lake and Palmer; Pink Floyd, … 2.1.2 Nhạc Mỹ 60-70 Những thể-loại nhạc Pop music Mỹ vẫn tiếp tục phát huy, nhất là với sự bổ-túc ảnh-hưởng các ban nhạc Anh (British invasion). Năm 1964, tổng thống Johnson gửi quân đội Mỹ đến Việt Nam trực tiếp tham chiến, đem sang cả âm-nhạc của họ qua những đài phát thanh và truyền-hình. Giới trẻ Sài-Gòn (trong đó có tôi) say mê với nhạc Mỹ, và những ban nhạc Việt (gọi là nhạc trẻ) mọc lên như nấm sau cơn mưa để chơi trong những phòng trà hay câu lạc bộ Mỹ, mỗi ban nhạc với một thể loại, một phong cách riêng. Cuối thập-niên 60, vài đại nhạc hội đã giúp cho phong trào phát-triển thật mạnh: - Monterey International Pop Music Festival, tổ-chức tại Monterey (California) tháng 6, 1967; - Summer of love, mùa hè 1967 tại San Francisco (California), quy tụ một trăm ngàn người trong giữa phong trào Hippie; - Woodstock Music & Art Fair tổ chức vùng Nam tiểu-bang New York, tháng 8, 1969, có bốn trăm ngàn người tham dự; cuốn phim này tôi đã xem đi, xem lại biết bao nhiêu lần?; - Isle of Wight Festival (Anh Quốc) tháng 8, 1970 là vĩ đại nhất (kỷ-lục Guinness với 600-700 trăm ngàn người) Đó là không kể những đại-hội nhỏ hơn khắp nơi: Newport Folk festival, Altamont Speedway free festival, … Những thể-loại nhạc Nhạc Folk Tiếp nối Pete Seeger và Woody Guthrie có Nữ hoàng Folk Joan Baez và người
yêu-protégé Bob Dylan (ai lại không biết Blowin’ in the wind hay The times they are a-changin’ ?). Năm 2016, ông Hoàng đế Folk này được trao giải Nobel Văn-chương qua lời những bài hát của ông. Một “chi-nhánh” của Folk là Folk Rock với - The Mamas and the Papas (California dreamin’, Monday Monday, …); - The Monkeys (I’m a believer, Last train to Clarksville, …); - The Lovin’ Spoonful (Summer in the city, Daydream, …); - Lobo (I’d love you to want me, How can I tell her,…); - Crosby, Stills and Nash (tôi thích khi có thêm Neil Young hơn); … … Một số thành công với phong cách Duo: - Simon and Garfunkel (The sound of silence, Bridge over troubled water, Mrs Robinson,…); - Sonny and Cher với I got you baby, The beat goes on, … (Sau này Sonny quay sang đóng phim và làm chính trị trong khi Cher vẫn tiếp tục hát); - The Carpenters (hai anh em Karen và Richard Carpenter) với Please, Mr Postman,… Loại nhạc này đã là thể loại chính của Đức Huy-Thanh Tuyền một dạo, với phong cách mỗi người một cây đàn thùng. Chơi loại nhạc này với toàn đàn thùng còn có ban nhạc Mây Trắng với bài tủ Đồng xanh-Green fields. Blues Rock - Canned Heat (Tôi chỉ biết có bài On the road again); - Jefferson Airplane (Somebody to love, White rabbit,…), sau này thay đổi nội bộ trở thành Jefferson Starship; - Janis Joplin: cô này thì có lẽ xì-ke-đê-lích nhất, giọng rất đặc biệt, với những bài Me and Bobby McGee, Cry baby, Summertime,… nghe phê ơi là phê. Tôi có xem phim The rose, Bette Middler đóng, dựa trên cuộc đời của cô; - Johnny Winter, chàng nhạc sĩ “bạch tạng” (albinos= da, tóc, mắt trắng nhạt); - The J.Geils Band, Allman Brothers Band, Lynyrd Skynyrd, ZZ Top,… tôi ít nghe hơn. Psychedelic Rock Kỹ-nghệ âm-nhạc lúc đó lên như diều. Tiền và danh tiếng khiến ca-nhạc sĩ muốn “sống vội” để tận hưởng sự thành-công của mình và một số sa vào những thú vui “ảo tưởng” với ma tuý (marijuana, LSD,…) và âm-nhạc họ trở thành “phê” hơn. Điển-hình nhất là:
- Jim Morrison và The Doors với Light my fire, Hello I love you, L.A. woman, Riders on the storm,… Thật đáng tiếc cả ba nhạc sĩ đầy tài năng là Janis Joplin, Jimi Hendrix và Jim Morrison (chôn ở nghĩa-trang Père Lachaise, Paris) đều phải trả giá đắt cho ma tuý khi ra đi năm 27 tuổi. Ba người này mất đi, thể-loại này cũng suy giảm. Hard Rock / Heavy Metal Mỹ có Steppenwolf (Born to be wild, Magic carpet ride,…), Aerosmith, Alice Cooper, Blue Oyster Cult, Kiss, Van Halen, Foreigner, … Soft Rock Soft là nhẹ nên nhạc này dùng ít nhạc khí, thường là ghi-ta thùng, piano,… Biểu tượng là Carole King (It’s too late, You’ve got a friend,…), James Taylor, Billy Joel (biệt-danh Piano Man, với những bài Honesty, New York state of mind, …), Barry Manilow (Memory,…), Barbara Streisand (Woman in love,…). Jazz Rock Loại nhạc này thì thuở đó, Việt-Nam ta ít nghe lắm (riêng tôi, sau này tôi mới thích thôi) nhưng cũng có vài ban nhạc như Blood, Sweat and Tears; Frank Zappa; Chicago, … Surf Rock Loại này dùng nhạc khí, thêm vào thật nhiều reverb trên ghi-ta qua những ampli Fender, âm thanh gợi tiếng sóng ngoài biển và hình ảnh lướt sóng (surf). Nổi tiếng là The Ventures (Mỹ) hay the Shadows (Anh). Surf Rock còn là một điệu nhạc mà điển hình là The Beach Boys (Surfin’ USA, Sloop John B, Do you wanna dance,…). Country Rock - Roots Rock Nhạc Country thuần-tuý Mỹ thì Việt-Nam mình ít biết (tôi chỉ biết bà Dolly Parton vì một đặc-điểm to lớn của bà) nhưng pha với Pop, Rock thì có lẽ mình quen hơn. Có những ban nhạc trở về nguyên-thuỷ của nhạc Mỹ và chơi một loại Rock “Country” hơn, giản dị hơn: - Creedence Clearwater Revival (CCR), John Fogerty thủ vai chính: nhạc này lôi cuốn lắm, với rất nhiều hits như Susie Q., Proud Mary, I put a spell on you, Have you ever seen the rain, Who’ll stop the rain,… nhiều lắm, kể sao cho hết? - Neil Young, gốc Canada, với những lời nhạc rất ý nghĩa, rất “cá nhân tính”; tôi thích nhất tập album Harvest (Harvest, Heart of gold, The needle and the damage done để tưởng nhớ người bạn chết vì ma tuý,…); - The Eagles, một ban nhạc mà vợ tôi mê lắm, nhạc sĩ nào cũng đàn giỏi, hát hay: bất hủ nhất là bài Hotel California nhưng còn bao nhiêu bài khác thật hay như Take it easy, Witchy woman, New kid in town, One of these nights,…; đối với tôi, gần như bài nào cũng là hit được; - Linda Rondstadt (Blue bayou, You’re no good, It’s so easy,…); - Emmylou Harris với Diamonds are a girl’s best friend (bài này "nguy hiểm" lắm, tôi đã phải “cấm” vợ tôi nghe); - … … Rhythm & Blues và Soul music Từ đầu bài đến giờ, chúng ta chỉ thấy độc là ca-nhạc sĩ da trắng, ngoài trừ vài nhạc-sĩ da “nâu” như Chuck Berry, Jimi Hendrix... Hình như người da đen vẫn đi theo truyền-thống nhạc của họ: Ragtime, Jazz, Blues, Gospel Blues, Rhythm and Blues và Soul. Thuở đó, tôi chưa biết nghe nhạc Jazz, Blues và chỉ biết hai thể loại sau, phổ thông hơn do hãng đĩa Motown phổ biến, qua những ban nhạc da đen, rất đặc biệt với lối trình-diễn trên sân khấu: - Đầu tiên là Diana Ross và the Supremes với những hits như Where did our love go, Baby love, Stop! In the name of love, … Sau đó, Diana Ross tách ra hát riêng; - Roberta Flack (The first time ever I saw your face, Killing me softly with his song,…); - The Temptations và bài My girl độc đáo với đường Bass dạo đầu, Get ready, Papa was a rolling stone,…; - The Four Tops: I can’t help myself, Reach out, I’ll be there,…; - The 5th Dimension (Aquarius/Let the sunshine in); - Marvin Gaye: Let’s get it on, You are everything (hát duet với Diana Ross),…; - Năm anh em Jackson 5 với I’ll be there, Who’s lovin’you,… Michael Jackson sau này sẽ là người em được tôn vinh là King of Pop với phong cách hát, nhảy, ăn mặc,… và cuốn album Thriller rất nổi tiếng; Nói đến Soul, nhất định không thể quên - Wilson Pickett: In the midnight hour, Mustang Sally,…; - Percy Sledge với bài Slow bất hủ When a man loves a woman,…; - Stevie Wonder (Uptight, My cherie amour, You are the sunshine of my life, Superstition,…); - Ray Charles (Hit the road Jack, Georgia on my mind, I can’t stop loving you,…); - James Brown, Godfather of Soul, nổi tiếng với lối trình diễn trên sân-khấu và nhịp-điệu nhạc qua những bài It’s a man’s man’s man’s world, I feel good, Sex machine, …); - Otis Redding, the King of Soul với những bài hát thật da diết như I’ve been loving you too long, These arms of mine, (Sittin’ on) the dock of bay,…; - … …
Latin Rock Song song với nhạc Soul của người da màu, người Mỹ gốc Nam Mỹ cũng đóng góp vào nhạc Pop Mỹ với nhãn-hiệu Latin Rock. Năm 1958, ca sĩ gốc Mễ Richie Valens đã có bài La bamba nổi tiếng nhưng ban nhạc gốc Mễ thành-công nhất chắc hẳn là Santana với một loại nhạc thật “bốc” của nhạc cụ gõ (trống, bongo, conga, ...) và ngón đàn thật “ngọt”: điệu Chacha/Samba với Black magic woman, Corazon espinado, Oye como va, Evil ways, …, Slow “mùi” với Samba Pa Ti, Europa, Moonflower,… Ôi chao ôi, phê quá là phê! Disco Bước sang thập-niên 70, hiện-tượng này làm nổ tung sân-khấu Pop và khuấy động sàn nhảy những hộp đêm. Từ chữ Pháp Discothèque (nơi chứa đĩa hát, còn có
nghĩa là hộp đêm), Disco là một loại nhạc và một loại nhảy xuất hiện từ môi-trường khiêu vũ. Nổi tiếng với loại nhạc này có Donna Summer (Hot stuff, Try me I know we can make it, On the radio,…); The Bee Gees của ba anh em Gibb với nhiều bài độc đáo như I started a joke mà không ai không biết, How can you mend a broken heart, Massachusetts, Night fever, …; Gloria Gaynor (I will survive, Can’t take my eyes off you,…); The Village People (YMCA,…); Chic (Le Freak,…); Thelma Houston; … Disco rốt cuộc chỉ là một phong trào không bền bĩ lắm nhưng điệu nhạc này “bốc” lắm, đi hát mà chứ trổi lên là sàn nhảy đầy ngay. 2.1.3 Những nhạc tiếng Anh khác Tiếng Anh đã trở thành ngôn-ngữ thông-dụng nhất hoàn cầu và hát tiếng Anh những loại nhạc này cũng có nhiều ban nhạc nước khác như: - Úc: Nổi nhất là The Bee Gees; AC/DC (Hard Rock), Olivia Newton-John (Country, Disco),… ; - Về phía Jamaica, cũng nên nói phớt qua về dòng nhạc Reggae với bộ ba Bunny Wailer, Peter Tosh và nhất là Bob Marley (Exodus, Is this love, I shot the sheriff, …). Bạn nào đi cruise về phía những đảo Caribbean thì trên tàu, thế nào cũng được nghe loại nhạc này. - Âu-Châu: Ngoài Anh ra, còn có Hoà Lan (Shocking Blue với Venus); Thuỵ-Điển có ABBA; Hy lạp với Demis Roussos-Aphrodite’s Child (Rain and tears); Đức với Scorpions, Tangerine Dream, Boney M (Disco)…; … Viết đến đây, đánh trên bảng gõ gần gãy ngón tay, tôi chợt tự hỏi sao lúc đó, nhạc Anh-Mỹ này nhiều khủng khiếp thế nhỉ? Tôi nhớ thuở đó, cứ đến cuối năm, ôm cái radio, nghe Billboard 100 Top Hits, tha hồ là sướng lắm. Đọc đến đây, chắc những thành-viên Medicare như tôi không khỏi bùi ngùi, tưởng nhớ lại một thời xa xưa? Vợ tôi thì khỏi nói, rành hơn tôi nhiều, bài gì cũng biết, mà còn thuộc lời nữa, bài này nếu là nàng viết thì chắc phải dài gấp đôi là ít. Yên Hà tháng , tháng 10, 2018 Tài-liệu nguồn: Wikipedia 1. Respect - Aretha Franklin 101. Just One Look - Doris Troy Bài hát linh hồn số một năm 1970 là gì?Biểu đồ lịch sử Những khoảnh khắc đứng đầu bảng xếp hạng lần đầu tiên với "Tình yêu trên một con đường hai chiều". Aretha Franklin có hai số người vào năm 1970.Love on a Two-Way Street". Aretha Franklin had two number ones in 1970.
Nhạc linh hồn thập niên 60 là gì?Âm nhạc linh hồn (thường được gọi đơn giản là Soul) là một thể loại âm nhạc nổi tiếng có nguồn gốc từ cộng đồng người Mỹ gốc Phi trên khắp Hoa Kỳ vào cuối những năm 1950 và đầu những năm 1960.Nó có nguồn gốc từ âm nhạc, nhịp điệu và nhạc blues của người Mỹ gốc Phi.a popular music genre that originated in the African American community throughout the United States in the late 1950s and early 1960s. It has its roots in African-American gospel music, rhythm and blues.
Bài hát R & B số một vào năm 1960 là gì?Brook Benton và Dinah Washington đã hợp tác trên hai người đứng đầu bảng xếp hạng, bao gồm cả số một chạy dài nhất trong năm, "Baby (bạn đã có những gì nó cần)".Baby (You've Got What It Takes)".
Kỷ lục tâm hồn phương Bắc phổ biến nhất là gì?100 tác phẩm kinh điển linh hồn miền Bắc vĩ đại nhất.. Bây giờ bạn đã sẵn sàng Gửi cho anh ấy Backthe Chị em trai .. Một số loại anh em linh hồn tuyệt vời sáu .. Soul Soul Musicarthur Conley .. Tình yêu bị nhiễm độc Jones .. Bảy ngày gỗ quá longchuck .. Big Birdeddie Floyd .. Ai đó (ở đâu đó) cần Meike & Tina Turner .. |