Trần Quốc Khái học nghề thêu ở đâu

Ông tổ nghề thêu là câu chuyện ca ngợi sứ thần Trần Quốc Khái là một người thông minh, đã học được nghề thêu của người Trung Quốc và dạy lại cho dân ta.

1. Hồi còn nhỏ, cậu bé Trần Quốc Khái rất ham học. Cậu học khi đi đốn củi, lúc kéo vó tôm. Tối đến, nhà không có đèn, cậu bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng, lấy ánh sáng đọc sách. Chẳng bao lâu, Trần Quốc Khái đỗ tiến sĩ, rồi làm quan to trong triều đình nhà Lê.

2. Một lần, Trần Quốc Khái được triều đình cử đi sứ [1] bên Trung Quốc. Vua Trung Quốc muốn thử tài sứ thần, sai dựng một cái lều cao, mời ông lên chơi rồi cất thang đi. Không còn lối xuống, ông đành ở lại trên lầu. Lầu chỉ có chỉ có hai pho tượng Phật, hai cái lọng [2], một bức trướng [3] thêu ba chữ “Phật trong lòng” và một vò nước.

3. Bụng đói mà không có cơm ăn, Trần Quốc Khái lẩm nhẩm đọc ba chữ trên bức trướng, rồi mỉm cười. Ông bẻ tay pho tượng nếm thử. Thì ra hai pho tượng ấy nặn bằng chè lam [4]. Từ đó, ngày hai bữa, ông cứ ung dung bẻ dần tượng mà ăn. Nhân được nhàn rỗi, ông mày mò quan sát, nhớ nhập tâm [5] cách thêu và làm lọng.

4. Học được cách thêu và làm lọng rồi, ông tìm đường xuống. Thấy những con dơi xòe cánh chao đi chao lại như chiếc lá bay, ông liền ôm lọng nhảy xuống đất bình an vô sự [6]. Vua Trung Quốc khen ông là người tài, đặt tiệc to tiễn về nước.

5. Về đến nước nhà, Trần Quốc Khái truyền dạy cho dân nghề thêu và nghề làm lọng. Dần dần, nghề thêu lan rộng ra khắp nơi. Nhân dân vùng Thường Tín [7], quê ông, lập đền thờ và tôn ông là ông tổ nghề thêu.

Truyện ông tổ nghề thêu – Theo Ngọc Vũ
Nguồn: Tiếng Việt 3, tập 2, trang 22, NXB Giáo dục Việt Nam – 2019

Trần Quốc Khái học nghề thêu ở đâu
Nghệ nhân thêu tay

Chú giải trong bài Ông tổ nghề thêu

[1] Đi sứ : đi giao thiệp với nước nhà theo lệnh vua. [2] Lọng : vật làm bằng vải hoặc lụa căng trên khung tre, gỗ hay kim loại, thường dùng để che đầu tượng thần, tượng Phật hay vua, quan trong nghi lễ long trọng. [3] Bức trướng : bức lụa, vải, trên có thêu chữ hoặc hình, dùng làm lễ vật, tặng phẩm. [4] Chè lam : bánh ngọt làm từ bột nếp và mật, pha nước gừng. [5] Nhập tâm : nhớ kĩ, như thuộc lòng. [6] Bình an vô sự : bình yên, không có chuyện gì xấu xảy ra.

[7] Thường Tín : một huyện thuộc tỉnh Hà Nội.

Câu hỏi thử thách

  1. Hồi nhỏ, Trần Quốc Khái ham học như thế nào?
  2. Vua Trung Quốc nghĩ ra cách gì để thử tài sứ thần Việt Nam?
  3. Trần Quốc Khái đã làm thế nào: a. Để sống? b. Để không bỏ phí thời gian?

    c. Để xuống đất bình yên vô sự?

  4. Vì sao Trần Quốc Khái được suy tôn là ông tổ nghề thêu?

Trần Quốc Khái là ai?

Trần Quốc Khái sinh 18 – 01 – 1606, tại làng Quất Động, huyện Thượng Phúc, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam (nay là thôn Quất Động, xã Quất Động, huyện Thường Tín, Hà Nội).

Lớn lên, ông thi đỗ Tiến sĩ (vào khoảng triều vua Lê Thần Tông hoặc Lê Chân Tông). Sau khi ra làm quan, ông được triều đình bổ dụng vào các chức vụ từ biên quận đến triều đình, thăng dần lên hàng Thượng thư, từng được cử đi sứ nhà Minh.

Do lập được nhiều công trạng, ông được triều đình ban cho Kim tử Vinh Lộc Đại phu, chức Tả thị lang bộ Công, tước Thanh Lương hầu, được vua ban quốc tính. Do đó mà ông có tên Lê Công Hành.

Ông mất 12 – 06 – 1661, được triều đình truy tặng hàm Thượng thư Thái bảo Lương Quận công. Ngày giỗ hàng năm của ông được xem là lễ giỗ tổ nghề của những làng sinh sống bằng nghề thêu tại Việt Nam.

2. Thảo luận để chọn ý trả lời đúng:

Câu 1: Vì sao Trần Quốc Khái được gọi là ông tổ nghề thêu?

a. Vì ông đã thêu bức trướng có ba chữ “Phật trong lòng”.

b. Vì ông đã nhập tâm cách thêu và làm lọng của Trung Quốc truyền dạy cho dân ta đầu tiên.

c. Vì ông được vua Trung Quốc khen là người có tài, ban cho bức trướng thêu.

Câu 2: Dòng nào dưới đây nêu đủ những đức tính của Trần Quốc Khải?

a. Rất ham học, học ở mọi lúc, mọi nơi.

b. Rất thông minh, đã ứng phó được mọi tình huống.

c. Rất ham học và thông minh, đã tự học được nghề thêu và làm lọng đem về truyền dạy cho dân.


Câu 1: Vì sao Trần Quốc Khái được gọi là ông tổ nghề thêu?

Đáp án: b. Vì ông đã nhập tâm cách thêu và làm lọng của Trung Quốc truyền dạy cho dân ta đầu tiên.

Câu 2: Dòng nào dưới đây nêu đủ những đức tính của Trần Quốc Khải?

Đáp án: c. Rất ham học và thông minh, đã tự học được nghề thêu và làm lọng đem về truyền dạy cho dân.

Theo thần phả của họ Bùi Trần (裴陳) gốc Mạc ở Quất Động thì Lê Công Hành vốn thuộc dòng dõi nhà Mạc. Năm 1546, Mạc Hiến Tông băng hà, triều đình nhà Mạc nổ ra biến loạn. Quân Nam triều nhân cơ hội nhà Mạc suy yếu, nhiều lần tiến quân ra Bắc đánh phá. Hoàng thất nhà Mạc tan tát khắp nơi, Quý phi Bùi Thị Ban đưa Mạc Phúc Đăng (con thứ của Mạc Hiến Tông) chạy tránh loạn về định cư ở thôn Quất Động, về sau đổi thành họ Bùi và họ Trần, lập nên chi họ Bùi Trần ở Quất Động.

Tương truyền vào một lần đi sứ và bị triều đình phương Bắc dồn vào thế khó để thử tài, Lê Công Hành đã học được cách làm lọng, kỹ thuật thêu rồi về truyền dạy cho dân chúng.

Lê Công Hành tên khai sinh là Trần Quốc Khái. Ông sinh năm Bính Ngọ (1606) tại xã Quất Động, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Đông (nay là huyện Thường Tín, Hà Nội).

Trần Quốc Khái học nghề thêu ở đâu
Lê Công Hành (1606-1661)

Chuyện kể rằng hồi còn nhỏ, cậu bé Khái đã rất ham học. Cậu học cả khi đốn củi, lúc kéo vó tôm. Tối đến, nhà không có đèn, cậu bắt đom đóm bỏ vào vỏ trứng lấy ánh sáng đọc sách. Khái học đến đâu thuộc đến đấy và nổi tiếng hay chữ một vùng.

Năm 18 tuổi, thanh niên trai tráng trong làng đều bị lý dịch bắt đi phu đắp đê sông Hồng. Vì sức yếu không vác nổi những hòn đất to, Khái bị phạt, phải chôn chân ở mặt đê từ sáng đến trưa.

Giữa lúc đó, viên quan coi đê đi qua thấy một thanh niên mặt mũi khôi ngô, lấy làm lạ nên dừng chân hỏi: “Ngươi bị tội gì mà phải chôn chân?”.

Khái lễ phép thưa: “Tôi là học trò, không vác nổi những hòn đất đá to nên bị phạt”.

Viên quan cũng có chút chữ nghĩa, liền cười nói: “Ngươi là học trò à? Ta ra một vế đối, đối được thì ta tha cho”. Khái gật đầu xin vâng.

Viên quan liền đọc: “Ông quan thị, cắm đường cái tiêu, trị hồng thủy, cho dân được cậy”.

Vế ra khá oái oăm, có tên bốn thứ quả gồm thị, chuối tiêu, hồng và quả cậy. Khái ứng khẩu đối lại ngay: “Trai Quất Động, thi đỗ bảng nhãn, phù quân vương, phỉ chí mới cam”. Vế đối lại cũng đủ bốn thứ quả quýt, nhãn, bồ quân và cam.

Nghe xong viên quan gật đầu khen ngợi, cho về. Từ đấy, Khái càng nổi tiếng hay chữ.

Sau đó, Trần Quốc Khái lều chõng đi thi và đỗ tiến sĩ đời vua Lê Chân Tông, giữ chức quan to trong triều đình nhà Lê.

Học nghề thêu từ lần đi sứ phương Bắc

Năm Bính Tuất (1646), ông được cử đi sứ nhà Minh. Để thử tài sứ thần nước Nam, quan quân nhà Minh không dẫn ông đi đường chính mà lại dẫn theo đường tắt.

Đến một vùng rừng núi và thung lũng thì hết lương ăn, ông bèn cho chặt tre, đan thành những cái dậm, sai quân lính xuống suối kiếm cá và lên rừng tìm trái cây. Nhờ vậy, đoàn sứ bộ của ta vượt qua quãng đường rừng núi mà vẫn khỏe mạnh như thường.

Sau khi hoàn thành công việc ngoại giao, vua Minh muốn thử tài trí của sứ thần một lần nữa, bèn sai dựng một cái lầu cao chót vót rồi mời ông lên chơi.

Trần Quốc Khái vừa lên tới nơi, quân Minh dưới đất cất thang đi. Ở trên lầu suốt một ngày, ông chẳng thấy ai đem cơm nước đến.

Đưa mắt nhìn quanh, ông chỉ thấy có cái bàn thờ. Trước bàn thờ, hai cái lọng xanh, đỏ trông rất đẹp; trên cao treo bức nghi môn diềm màn thêu rồng phượng và nổi 3 chữ “Phật tại tâm” (Phật ở trong lòng).

Trần Quốc Khái học nghề thêu ở đâu
Lê Công Hành đi sứ phương Bắc

Ông Phật Di lặc, bụng to, sơn đen được đặt giữa bệ bàn thờ. Dưới chân bệ, một cái chum to đựng nước cúng và trong góc dựng hai cây tre, một con dao, hoàn toàn không có thức ăn.

Một ngày trôi qua, bụng đói mà không có cơm ăn, chỉ có chum nước, ông nghĩ có nước uống tất phải có cái ăn. Quay ra ngắm bức tượng, tò mò xem thử xem nó làm bằng gì, ông lấy móng tay cậy vào lưng Phật thì thấy bật ra một mảng con, lấy tay bóp vụn ra được như bột.

Ông đưa lên miệng nhấm thử thì thấy ngọt, hóa ra tượng làm từ bột bánh khảo (có tài liệu nói rằng tượng nặn bằng bột chè lam). Từ đó ngày hai bữa, ông cứ bẻ dần tượng Phật mà ăn.

Ngồi không buồn quá, Trần Quốc Khái bèn chẻ tre, vót nan, quan sát kỹ cách làm lọng và nhập tâm các chi tiết. Khi đã biết cách làm lọng rồi, ông lại hạ bức trướng xuống, tháo các đường chỉ kim tuyến xem cách thêu, rồi lại dùng chỉ đó thêu vào. Lúc hoàn tất, ông ngắm nghía thấy nét chữ thêu giống hệt như cũ.

Ăn hết pho tượng và uống gần hết chum nước, Trần Quốc Khái tìm cách xuống. Buổi chiều ngồi ngắm trời mây, thấy những con dơi xòe cánh chao đi chao lại như chiếc lá, ông nghĩ đến hai cái lọng cắm trên lầu, rồi ôm lọng nhảy xuống đất bình an vô sự.

Trước tài trí ứng xử linh hoạt của sứ thần Đại Việt, triều đình nhà Minh vô cùng kính phục, bày tiệc lớn tiễn đưa đoàn sứ về nước.

Bằng sự tài trí và ứng xử ngoại giao không ngoan, sau khi về nước, Trần Quốc Khái được phong tước, thăng lên chức Công bộ thượng thư thái bảo, được đổi họ Lê nên mới có tên khác nữa là Lê Công Hành.

Truyền nghề thêu cho dân

Ít lâu sau, Lê Công Hành đem nghề thêu dạy cho dân làng Quất Động rồi sau đó phát triển rộng ra các tỉnh khác, sang cả Bắc Ninh, Hưng Yên.

Bên cạnh đó, ông cũng dạy lại cách làm lọng cho người dân. Để ghi nhớ công ơn ông, sau khi Lê Công Hành mất (năm 1661), nhân dân trong vùng đã lập đền thờ và tôn ông là ông tổ nghề thêu.

Một số tài liệu cho rằng trước khi Lê Công hành truyền dạy nghề thêu và làm lọng cho dân chúng, những nghề này đã tồn tại ở nước ta. Tuy nhiên, nó phát triển nhỏ lẻ, kỹ thuật khá đơn sơ, quanh quẩn với vài màu chỉ và chủ yếu phục vụ cho vua quan.

Sử sách cũ còn ghi lại ở đời Trần, vua quan ta đã dùng đồ thêu và lọng. Năm 1289, trước năm đi sứ của Lê Công Hành khoảng hơn 350 năm, vua Trần đã gửi tặng vua Nguyễn một đệm vóc đỏ thêu chỉ vàng, một tấm thảm gấm viền nhiễu (theo Từ Minh Thiện viết trong tập Thiên nam hành ký).