Trạng hiền là ai

Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên khi 13 tuổi. Ông là người làng Dương A, huyện Thượng Hiền, phủ Thiên Trường(nay là xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Ông thi đỗ trạng nguyên khi mới 12 tuổi, trở thành trạng nguyên trẻ nhất trong lịch sử khoa cử Việt Nam, tại khoa thi tháng 2 năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 (1247) thời vua Trần Thái Tông.

Khoa thi năm Đinh Mùi (1247), dưới triều Trần, đời vua Trần Thái Tông có sự kiện lạ, làm cả triều đình và bàn dân thiên hạ kinh ngạc. Đó là người chiếm bảng vàng nhất nước, đoạt học vị Trạng nguyên là một cậu bé 12 tuổi, tên là Nguyễn Hiền, người làng Dương A, huyện Thượng Hiền, phủ Thiên Trường ( nay là xã Nam Thắng, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Truyện kể rằng, năm mới lên 6, 7 tuổi, Nguyễn Hiền theo học một nhà sư trong làng, sách chỉ đọc qua là nhớ, mỗi ngày học hết 20 trang. Sư viết được trang nào là Hiền thuộc ngay, như thể đã học trước rồi. Nguyễn Hiền có tính hay đùa nghịch, sau lưng các pho tượng Phật trong chùa, đều có những dòng chữ “ phạt 30 roi”. “phạt 60 roi” do Hiền viết. Một hôm sư ông phát hiện thấy, nhận ra nét chữ của Hiền. Đến giờ giảng bài trên lớp, sư bèn chọn câu văn trên sách Nho: “ Kính quỷ thần nhi viễn chi” (kính quỷ thần phải lánh xa), cho học trò chép học và răn rằng: “ Phật cũng là thần không được nhạo báng”. Nguyễn Hiền nhận thấy lỗi của mình, cậu đã tự lấy giẻ lau sạch chữ viết các pho tượng.

Có tài liệu chép rằng: Sau lần đó, vua Trần mời trạng ra giao chức Thượng thư bộ công. Khi trạng mất(có lẽ trạng mất sớm), nhân dân lập đền thờ tại quê, được vua ra chỉ dụ cấp cho dân xã 5 mẫu ruộng để lo việc thờ cúng và đổi tên huyện Thượng Hiền thành Thượng Nguyên, không nhắc đến tên húy của trạng, để tỏ lòng tôn kính.

Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên khi mới 13 tuổi chủ yếu nhờ tự học. Vị khai quốc trạng nguyên này xứng đáng với danh hiệu thần đồng.

Theo Việt Nam văn hóa sử cương của nhà sử học Đào Duy Anh, năm 1075, dưới thời vua Lý Nhân Tông, triều đình mở khoa thi đầu tiên nhằm chọn hiền tài phục vụ đất nước.

Năm 1247, nhà Trần đặt ra tam khôi - Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa. Chính trong năm này, thần đồng nhỏ tuổi Nguyễn Hiền thi đỗ trạng nguyên và được vua Trần Thái Tông phong là "Khai quốc Trạng Nguyên" - vị trạng nguyên đầu tiên ở nước ta, theo Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên.

Trạng hiền là ai

Nguyễn Hiền là trạng nguyên đầu tiên và nhỏ tuổi nhất trong lịch sử khoa cử nước ta. Tranh minh họa: Tạp chí Văn nghệ.

Nguyễn Hiền sinh năm 1234 (một số tài liệu ghi là 1235) ở làng Dương An, huyện Thượng Hiền (nay là xã Nam Thắng, huyện Nam Trực), tỉnh Nam Định.

Ông mồ côi cha từ bé và được mẹ cho theo học sư thầy trong làng. Cậu bé Nguyễn Hiền sớm thể hiện tư chất vượt trội, học tập rất nhanh. 11 tuổi, Hiền đã nổi tiếng và được mệnh danh thần đồng.

Năm 1247, triều đình mở khoa thi. Nguyễn Hiền, lúc đó mới 13 tuổi, khăn gói lên kinh, dự kỳ thi đình với bài phú "Áp tử từ kê mẫu du hồ phú". Trí tuệ tinh thông giúp ông đạt danh hiệu trạng nguyên - vị trí cao nhất trong tam khôi.

Khi vào cung diện kiến nhà vua, vua Trần Thái Tông rất thán phục khả năng ứng đối trôi chảy của trạng nguyên nhỏ tuổi, bèn hỏi ông học thầy nào.

Khi nghe Nguyễn Hiền kể ông chỉ tự học, chỗ nào không hiểu thì hỏi sư thầy, vua cho rằng, trạng có tài nhưng còn nhỏ tuổi, chưa hiểu hết lễ nghĩa và phán: "Trạng nguyên niên ấu vị tri lễ hứa hồi gia học lễ đãi tam niên nhi hậu dụng".

Vì thế, mặc dù đỗ cao, Nguyễn Hiền chưa được phong chức quan hay mũ áo. Ông trở về quê, tiếp tục đọc sách. 

Trên thực tế, sử sách viết về Nguyễn Hiền không nhiều, đa phần là những giai thoại truyền miệng, trong đó, nổi tiếng nhất là câu chuyện ông nặn voi biết đi và câu trả lời về cách xâu chỉ qua ốc.

Trong cuốn Kho tàng về các ông trạng Việt Nam, giáo sư Vũ Ngọc Khánh viết về hai giai thoại trên.

Trạng hiền là ai

Đình thờ trạng nguyên Nguyễn Hiền ở Nam Định. Ảnh: Wikimapia.

Tương truyền, sau khi về quê, ngoài việc phụng dưỡng mẹ và đọc sách, cậu bé Nguyễn Hiền vẫn thường xuyên chơi đùa cùng các bạn. Có lần sứ giả nước khác sang thăm, thách đố vua quan nhà Trần xâu chỉ qua con ốc. Triều đình bó tay. Lúc đó, vua mới nhớ đến trạng Nguyễn Hiền, sai người đến hỏi ý kiến.

Viên quan được giao việc đến quê trạng gặp ngay một lũ trẻ chăn trâu đang nghịch đất ngoài làng. Trong đó, một đứa bé mặt mũi khôi ngô chỉ huy nhóm bạn nặn voi từ đất. Kỳ lạ là con voi đó có thể đi, hỏi ra mới biết, họ dùng cua làm mình voi và lấy đỉa làm vòi nên con voi có thể di chuyển.

Viên quan đoán đây là trạng Nguyễn Hiền nhưng vẫn ra vế đố để thử tài: "Tự là chữ, cắt giằng đầu, chữ tử là con, con ai con ấy?".

Trạng nhanh chóng ứng đối: "Vu là chưng, bỏ ngang lưng, chữ đinh là đứa, đứa nào đứa này!".

Biết chắc đây là người cần tìm, viên quan xuống, truyền lại ý chỉ vua muốn mời Nguyễn Hiền về kinh nhưng trạng không chịu vì cho rằng, vua làm vậy cũng không đúng lễ.

Quan đành thuật lại câu đố của sứ giả nước ngoài, Nguyễn Hiền xui bọn trẻ hát:

"Tích tịch tình tang

Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng

Bên thì lấy giấy mà bưng

Bên thì bôi mỡ kiến mừng kiến sang".

Quan nghe xong, biết đây là câu trả lời triều đình cần liền vội vã về kinh.

Hai giai thoại này cho thấy sự thông minh, lanh lợi của Nguyễn Hiền.

Sau này, Nguyễn Hiền vào triều làm quan. Theo cuốn Danh nhân văn hóa Nam Định, sử sách không ghi lại được quá trình làm quan cùng những công trạng của ông khi giữ trọng trách trong triều đình. Ông cũng không sáng tác thơ văn hoặc có sáng tác nhưng đã thất truyền.

Theo một số ghi chép, có thể Nguyễn Hiền làm đến chức Thượng thư Bộ Công và từng cho đắp đê quai vạc sông Hồng.

Năm 1255 (một số tài liệu ghi là 1256, 1257), Nguyễn Hiền lâm bệnh nặng, qua đời. Nhà vua thương tiếc truy phong ông là "Đại vương thành hoàng" và tôn làm thần ở 32 nơi.

Cuộc đời ngắn ngủi của vị Khai quốc trạng nguyên được tóm gọn trong cuốn Ngọc phả được bảo tồn tại đền thờ trạng nguyên Nguyễn Hiền ở quê hương ông. 

"Thập nhị tuế khôi khai lưỡng quốc

Vạn niên thiên tuế lập tam tài".

Hai câu thơ trên phần nào khái quát được tài năng lỗi lạc của ông "trạng non" - trạng nguyên đầu tiên và nhỏ tuổi nhất trong lịch sử khoa cử nước ta.

Trạng hiền là ai

Your browser is no longer supported. Update it to get the best YouTube experience and our latest features. Learn more

  • Trạng hiền là ai
  • Trạng hiền là ai
  • Trạng hiền là ai
  • Trạng hiền là ai
Remind me later

Trạng hiền là ai

Trạng Nguyên Nguyễn Hiền và câu đố chữ Điền nổi tiếng trong lịch sử. Ảnh: Pháp luật Việt Nam

Nguyễn Hiền quê ở Dương A, huyện Thượng Nguyên, phủ Thiên Trường sau đổi là trấn Sơn Nam Hạ (nay huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định). Thuở nhỏ, ông học thông viết thạo, được mọi người quý mến. Tương truyền, khi lên 10 tuổi, gia đình cho ông đi học thầy chùa. Thầy chùa mới viết được 10 trang giấy, Hiền liền đọc được ngay như người đã từng đi học rồi.

Năm 11 tuổi, tiếng tăm Hiền đã lừng lẫy ở kinh đô và được mệnh danh là thần đồng. Bấy giờ có người họ Đặng tự thấy mình đã đọc hết các sách, nghe tiếng tăm Hiền muốn đến thử tài văn bút, liền tìm đến nhà Hiền và lấy đầu đề theo bài phú "Phượng hoàng sào a, kì lân du úc". Khách ra hạn số câu và mỗi câu đều có tiếng chỉ về một loài cầm thú.

Hiền ứng khầu đáp ngay rằng: "Phi long kiên chiểu/Mã bất xuất hà /Ý bỉ Hữu Hùng chi thế/ Ấp vu Duyên Lộc chi a". Nghĩa là: "Rồng không bay lên nơi ao, hồ/Ngựa không từ sông phi ra/ Đẹp thay đời có họ Hữu Hùng/Làm nhà ở nơi Duyên Lộc."

Người họ Đặng hết sức thán phục và tấm tắc khen "Thiên tài! Thiên tài!". Năm ấy, Hiền thi hương đỗ đầu (Giải nguyên). Vào năm Thiên ứng Chính Bình thứ 16 (âm lịch năm Tân Mùi), vua Trần Thái Tông trọng dụng hiền tài, chiêu đãi kẻ sĩ. Vua cho mở khoa thi lớn. Nguyễn Hiền mới mười ba tuổi về kinh ứng thí và lập tức được lấy đỗ trạng nguyên. Khóa thi này, ngoài Nguyễn Hiền đỗ Trạng Nguyên còn có 2 người khác đỗ cao và cũng cùng có một điểm chung. Đó là họ đều còn rất trẻ tuổi.

Trạng hiền là ai

Đền thờ Trạng Nguyên Nguyễn Hiền tại Nam Định. Ảnh: Pháp luật Việt Nam

Người đỗ thứ hai chính là Lê Văn Hưu, Bảng Nhãn 18 tuổi và Đặng Ma La, Thám Hoa 14 tuổi. Chúng ta ít gặp nhiều tài liệu viết về Thám Hoa Đặng Ma La nhưng tên tuổi của vị danh y lỗi lạc Lê Văn Hưu được rất nhiều sử sách ghi lại. Sau này, Lê Văn Hưu có thời gian ra làm quan nhưng chủ yếu thời gian ông dành cho nghề thuốc.

Về Trạng nguyên Nguyễn Hiền, tuy còn nhỏ tuổi song phong thái tự nhiên, đĩnh đạc, đối ứng trôi chảy. Rất ngạc nhiên, Vua Trần Thái Tông mới tò mò hỏi vị Tân khoa: "Trạng nguyên học ở đâu?". Trạng Hiền quỳ tâu: "Thần xin tâu bệ hạ, thần chỉ học thần...và thỉnh thoảng có hỏi sư ông ở chùa làng thêm đôi ba chữ.

Vua thấy Trạng Hiền nói năng quê kịch mà còn có vẻ kiêu căng không được vừa lòng nên truyền phán buộc Trạng trở về học lễ nghĩa thêm. Trạng Hiền vì thế chưa được ban áo mão. Trạng Hiền về quê, ngày ngày đọc sách nhưng vẫn ham chơi bời, thường lúc rỗi rãi vẫn cùng trẻ con cùng lứa chơi khăng, thả diều.

Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi chép lại sự kiện này. "Năm Chính Bình thứ 16, Vua Trần Thái Tông ngự ở sân đình, gặp các vị tân khoa đỗ cao trong kỳ thi. Thấy Hiền tuy còn nhỏ tuổi, chưa rõ phép tắc lễ nghĩa nên chưa ban mũ áo, chỉ cho người hộ tống về quê để học thêm phép tắc".

Câu chuyện tiếp sứ Tàu

Một lần, sứ nhà Nguyên sang nước ta. Nghĩ rằng Đại Việt không có người tài, lại tỏ ra mình hiểu biết hơn người nên không coi ai ra gì. Y đưa ra một con ốc xoắn nhờ xâu qua ruột nó một sợi chỉ mảnh. Viên sứ nghênh ngang cho biết: "Được như vậy, ta mới chịu vào thành".

Biết rõ viên sứ muốn thử tài quân dân Đại Việt, Vua Trần Thái Tông bèn truyền cho các quan tìm cách xâu thử nhưng vị nào cũng loay hoay và đành lè lưỡi, lắc đầu. Chợt có người mách Vua hỏi thử Trạng nguyên Nguyễn Hiền. Vua sực nhớ bèn lập tức cử người đi hỏi Trạng.

Viên quan được giao việc về xã Dương A gặp ngay một là trẻ chăn trâu nghịch đất đầu làng. Thấy trong đó có một cậu bé mặt mũi khôi ngô đang bày cho lũ bạn đắp một con voi bằng đất mà tứ chi lẫn tai, vòi... có thể ngoe nguẩy cử động được, sứ giả đồ chừng đó là Trạng Hiền bèn buông một vế đối thăm dò xem đúng có phải là Trạng Nguyên không. Thực ra, vị quan này nghe danh tiếng của Trạng nguyên Nguyễn Hiền đã lâu nhưng chưa gặp mặt, ông mượn dịp này để mắt thấy tai nghe.

Trạng hiền là ai

Truyện tranh giai thoại về Trạng nguyên Nguyễn Hiền. Ảnh: Pháp luật Việt Nam

Vị quan ra vế đối: "Tự là chữ, cất giằng đầu, tử là con, con ai con ấy?". Cậu bé nghe được, không ngước mặt lên, cũng thủng thẳng buông một câu: "Vu là chưng, bò ngang lưng, đinh là đứa, đứa nào đứa này".

Về câu đối của viên quan nọ, chủ ý của ông này xuất một vế đối theo lối chiết tự chữ Hán. Chữ tự có hai bộ phận trên như cái giằng xay, dưới là chữ tử. Để nguyên tự có nghĩa là chữ, bỏ giằng trên còn lại chữ tử nghĩa là con và gắn luôn với vế nôm tiếp đó thành một câu hỏi nửa chữ nửa nôm. Câu hỏi cũng có sắc thái của người trên hỏi kẻ dưới.

Thấy đối phương ra vế đối như vậy, Trạng Hiền cũng đối lại bằng cách chiết tự kết hợp với một phần nôm, chữ vu là chưng có hai nét ngang và một nét móc, bỏ nét ngang ở dưới thành chữ đinh nghĩa là đứa, đi với với nào đứa này là một vế đối ý rất chỉnh và có phần xấc xược. Nhận câu đối lại, viên quan không hề tỏ ra giận dữ mà trái lại, rất vui mừng vì đích thực đây chính là Trạng Nguyên Nguyễn Hiền.

Ông ta bèn xuống ngựa truyền lại ý vua vời Trạng về kinh. Nhưng Trạng Hiền không chịu, viện lẽ rằng, trước vua cho trạng kém lễ buộc về, nhưng lần này vua cho vời Trạng lên lại cũng không giữ đúng lễ. Viên quan không biết làm thế nào, phải trần tình đầu đuôi chuyện sứ giả nước ngoài đưa câu đố mà chưa ai giải được. Trạng Hiền nghe biết chỉ cười, trở lại với đám trẻ chăn trâu. Chờ cho viên quan lên ngựa đi một đoạn, ông mới xui đám trẻ cùng hát:

Tích tịch tang, tích lịch tang!/ Bắt con kiến càng buộc chỉ ngang lưng/ Bên thì lấy giấy mà bưng/ Bên thì bôi mỡ kiến mừng kiến sang/ Tích tịch tang, tích lịch tang!

Viên quan nghe nhẩm thuộc lời ấy, biết Trạng đã chỉ cách giải đó, vui vẻ ra về. Ngay sau khi đối đáp được sứ thần Trung Hoa, Vua Trần Thái Tông ra lệnh cho quân lính mong mũ mão Trạng Nguyên về tận quê của Nguyễn Hiền mời ông ra giúp nước.

Về đến triều đình, sứ thần nhà Nguyên Đô Sử vẫn còn ở lại đây. Thấy vị Trạng Nguyên Đại Việt còn ít tuổi, tỏ rõ sự coi thường. Hắn ta ra vế đố: "Lưỡng Nhật bình đầu Nhật/ Tứ Sơn điên đảo Sơn/ Nhị vương tranh nhất quốc/ Tứ khẩu tung hoành gian."

Hiền đứng mà trả lời ngay rằng: "Đó là chữ điền vậy". Sứ Bắc thán phục, Hiền liền được vua trao cho chức Công bộ Thượng thư. Và ít lâu sau triều đình phương Bắc lại gửi thông điệp với 2 chữ "Thanh thủy". Vua chưa hiểu thông điệp muốn nói gì. Hiền giải thích ngay rằng: "Tháng 12 xuất quân". Thời bấy giờ Bắc triều muốn cầu viện biên giới, lợi dụng các hào trưởng địa phương để dễ bề đối phó Vua tôi nhà Trần. Nghe vậy, Vua Trần Thái Tông bèn cử binh hùng tướng giỏi dẹp bè lũ tay sai. Vào tháng 12, giặc Nguyên lui vì kế hoạch không thành.

Những năm làm quan trong triều, Nguyễn Hiền có nhiều kế sách hay để phò vua giúp nước. Năm Ất Hợi, nước ta lại bị giặc Chiêm Thành xâm lược, nhà vua rất lo bèn giao cho trạng nguyên Nguyễn Hiền đánh giặc giữ nước.

Chỉ ít lâu sau, quân giặc thất bại, Trạng Hiền thu quân về Vũ Minh Sơn mở tiệc khao quân và tâu lên vua. Nhà vua vô cùng vui mừng và phong cho ông Trạng chức "Đệ nhất hiển quý quan". Về nông nghiệp, ông cho đắp đê quai vạc sông Hồng, phát triển sản xuất mùa màng thắng lợi. Về quân sự, ông cho mở mang võ đường để rèn quân luyện sĩ.

Ngày 14/8 năm Bính Tý, Trạng nguyên Nguyễn Hiền lâm bệnh nặng và qua đời, thọ 21 tuổi. Nhà vua thương tiếc truy phong ông là "Đại vương thành hoàng" và tôn làm thần ở 32 nơi, trong đó có đình Lại Đà ở xã Đông Hội - huyện Đông Anh, Hà Nội.

Hiện nay, tại đền thờ Trạng Nguyên Nguyễn Hiền ở quê hương ông, thôn Dương A (Nam Thắng, Nam Trực, Nam Định) còn giữ được nhiều bài vị, sắc phong, câu đối, đại tự, đặc biệt bảo tồn được cuốn Ngọc phả nói về sự nghiệp của ông, trong đó có câu ca ngợi tài năng của Nguyễn Hiền như sau:

"Thập nhị tuế khôi khai lưỡng quốc, Vạn niên thiên tuế lập tam tài". Tạm dịch là: "Mười hai tuổi khai khoa hai nước, Nghìn năm ghi mãi chữ tam tài". Yêu mến và cảm phục tài năng của ông, huyện Thượng Hiền đổi tên thành huyện Thượng Nguyên để tránh phạm húy tên ông.

Ngọc Trìu (Theo Pháp luật Việt Nam)