Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, chị Dậu hiện lên là người như thế nào

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 8 bài văn mẫu Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ hay nhất, gồm có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 17 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

PHÂN TÍCH NHÂN VẬT CHỊ DẬU TRONG ĐOẠN TRÍCH TỨC NƯỚC VỠ BỜ

Bài giảng: Tức nước vỡ bờ

Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ –  mẫu 1

Trong nền văn học hiện thực phê phán thời kì 1930-1945 không thể không nhắc tới những cái tên các tác giả nổi bật như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Ngô Tất Tố,… Và có lẽ chúng ta không thể nào quên được hình ảnh chị Dậu - điển hình của người phụ nữ thời kì đó.

Đó là hình ảnh một người phụ nữ luôn hết lòng vì chồng con, mang nặng đức hi sinh nhưng không còn sự yếu đuối nhu nhược của người phụ nữ thời kì phong kiến mà đã có sự phản kháng mạnh mẽ chống lại những thế lực luôn chèn ép, bắt buộc những người nông dân thời kì bấy giờ, do đó có lẽ đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” là một trong những đoạn văn đắt giá nhất trong tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố mang nhiều ý nghĩa nhân văn sâu sắc để lại trong lòng người đọc cho tới tận hôm nay.

Bối cảnh trong tác phẩm là hình ảnh của làng Đông Xá trong những ngày đang bị bọn lí chủ, cường hào đi thúc giục sưu thuế cho bọn chúng. Mà nhà chị Dậu lại là một trong những gia đình khó khăn nhất trong làng. Vì không thể trả nổi mức thuế cao vô lí mà anh Dậu đã bị bọn chúng bắt trói lại, đánh đập dã man.

Cực chẳng đã, chị Dậu đã phải bán đi đàn chó mẹ, chó con cùng đứa con gái lớn nhất cho nhà Nghị Quế với mức giá rẻ mạt để có tiền cứu chồng ra khỏi tay của bọn cường hào. Qua đây, chúng ta có thể thấy được hình ảnh của một người phụ nữ nông dân tuy thất học nhưng luôn hết lòng vì chồng, phải cáng đáng công việc mà đáng lẽ ra dành cho người đàn ông trong gia đình.

Mở đầu đoạn trích là hình ảnh anh Dậu bị trói trên cây cột giữa sân đình, đang thoi thóp, kiệt quệ, không thể chống đỡ được sự đau đớn, mỏi mệt cả về thể xác và tinh thần. Khó khăn lắm, chị Dậu mới có được chút tiền bạc để nộp sưu. Ấy vậy mà bọn cường hào, tay sai của “ông Lý” lại lôi anh Dậu ra vứt ở ngoài sân, trao trả lại cho chị và đòi chị phải nộp thêm thuế đinh của người em trai chồng đã mất từ năm ngoái.

Đó là một điều đòi hỏi vô lí, thế nhưng chị vẫn phải nhẫn nhục. Đau khổ là thế, lo lắng là thế nhưng chị vẫn cố dằn lòng, cố gắng đưa cho chồng bát cháo loãng, dù chính mình còn chưa có gì ăn. Chị chỉ nhẹ nhàng bảo với chồng: "Thầy em cố gắng dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột”. Lời của người đàn bà nhà quê tuy mộc mạc nhưng lại mang biết bao tâm tư, tình cảm mà ít ai sánh được.

Thậm chí, chị còn bế cái Tửu ngồi cạnh chồng để nhìn xem anh ăn có được hay không, có ngon miệng không. Tình cảm của chị phải son sắt, giàu đức hi sinh như thế nào mới có thể được như vậy trong lúc hoàn cảnh khó khăn, đầy ngang trái như vậy. Và có lẽ chính tình yêu thương bao la ấy đã tạo cho chị sức mạnh phi thường chống lại bọn tay sai khi chúng tiến vào, định cưỡng ép tới bức đường cùng hoàn cảnh của anh chị.

Đám tay sai khi tiến vào cùng roi da, gậy gộc, điều làm đầu tiên của chị là nghĩ tới người chồng đáng thương của mình. Chị lo lắng anh không thể chịu nổi bất cứ trận đánh nào nữa. Anh đã hoàn toàn kiệt sức sau đêm qua. Chị chỉ có thể cầu xin bằng giọng nói run run, đầy hèn mọn, nài nỉ: "Hai ông làm phúc nói với ông Lý xin cho cháu khất”. Chị cư xử như vậy là bởi vì chị biết hoàn cảnh của mình bấy giờ, vì chị chỉ là một người phụ nữ nông dân như bao con người khác mà thôi.

Lúc này chị không còn nghĩ được gì ngoài ý chí sôi sục phải bảo vệ gia đình của mình, bảo vệ người chồng đau ốm cũng những đứa con thơ dại. Thế nhưng, những tên tay sai ấy đâu còn chút tình người nào. Chúng bỏ ngoài tai lời van xin của chị, chúng gạt chị ra, định tiếp tục trói anh Dậu dẫn đi, lúc này đây, chị đã phải quỳ xuống cầu xin: "Cháu xin ông, nhà cháu mới tỉnh được một lúc”. Nhưng hắn lại tát chị và một mực đòi xông về phía anh Dậu vừa mới tỉnh lại trong chốc lát.

Tới đây, chị đã không thể nín nhịn được nữa. Sự phản kháng của chị đi theo mức độ tăng dần lên. Đầu tiên, chị ngăn bọn chúng lại và nói “chồng tôi đau ốm, các ông không được phép hành hạ”. Chỉ một câu nói thôi nhưng đã như một lời cảnh cáo của chị về hành động của bọn chúng.

Thế nhưng càng nhẫn nhịn thì bọn chúng lại càng lấn tới. Hắn “bịch luôn vào ngực chị mấy bịch” rồi “tát vào mặt chị một cái đánh bốp” rồi vẫn xông về phía anh Dậu. Đến lúc này, chị Dậu đã không còn giữ được bình tĩnh nữa, chị lao về phía chồng, gạt bọn tay sai ra, hai tay chống nạnh nói “mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem”.

Đúng như câu nói “Tức nước vỡ bờ”, chị Dậu từ cách xưng hô đầy nhỏ bé, hèn kém, xưng cháu gọi ông, sau đó chị xưng là “tôi”, và cuối cùng là “bà - mày”. Có thể có người cho rằng chị Dậu là một người phụ nữ đanh đá thế nhưng có thể nói rằng, ít ai có thể hành động được như chị.

Chị lao vào những tên muốn bắt chồng chị rồi đánh nhau với chúng. Sức mạnh thật sự của người phụ nữ trỗi dậy khi họ bắt buộc phải bảo vệ những người thân yêu xung quanh mình, và cũng có lẽ do chị đã không thể nín nhịn được thêm nữa, chị đã bị buộc vào bức đường cùng.

Thậm chí dù chồng chị có khuyên, chị cũng vẫn đanh thép làm theo bản năng của chị, chị thà ngồi tù chứ quyết không để bị chèn ép, bị ép buộc. Cũng như nhà văn Nguyễn Tuân đã từng nói: "Trên cái tối trời, tối đất của xã hội ngày xưa, hiện lên một chân dung lạc quan của chị Dậu. Bản chất của chị Dậu rất khỏe, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra…”.

Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” đã miêu tả lại sâu sắc hình ảnh đầy màu sắc hiện thực của xã hội Việt Nam thời kì trước cách mạng. Cùng với nó, hình ảnh chị Dậu cũng được khắc họa một cách rõ nét, dung hòa hai tính cách khác nhau, đối với những người thân yêu bên cạnh, chị luôn dịu dàng, sẵn sàng hi sinh bất cứ điều gì, thế nhưng với những kẻ xấu, chị bất chấp tất cả để chiến đấu cùng chúng. Đó cũng có lẽ là một sự thay đổi lớn trong hình ảnh của người phụ nữ cả về khí chất và tính cách.

Sơ đồ tư duy

Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, chị Dậu hiện lên là người như thế nào

Dàn ý chi tiết

I. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm, nhân vật cần phân tích: Ngô Tất Tố là nhà văn xuất sắc viết về đề tài người nông dân trước Cách mạng Tháng Tám. Những tác phẩm của ông được giới phê bình đánh giá cao, vừa giàu giá trị nội dung và đặc sắc về nghệ thuật viết truyện. Trong đoạn trích " Tức nước vỡ bờ" trong tiểu thuyết " Tắt đèn", nhà văn đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu.

II. Thân bài

a. Hoàn cảnh sáng tác

- Tác phẩm "Tắt đèn" viết năm 1936, xã hội bấy giờ là thực dân nửa phong kiến, người nông dân phải chịu nhiều tầng áp bức. Đời sống nhân dân đói khổ, bần cùng, đất nước lầm than, nô lệ.

- Nhân vật chị Dậu đã góp một mảng màu chân thực vào hiện thực bấy giờ, đồng thời còn thể hiện chiều sâu tư tưởng và nhân đạo của nhà văn.

b. Phân tích nhân vật chị Dậu

* Số phận

- Có hoàn cảnh đáng thương.

- Là người nông dân nghèo, vì gánh nặng sưu thuế mà phải bán hết gánh khoai, ổ chó và đứa con gái là cái Tý cho ông Nghị Quế nhưng chỉ đủ nộp sưu cho chồng. Chú Hợi là anh ruột của anh Dậu chết từ năm ngoái nhưng cũng không tránh khỏi nộp sưu.

- Anh Dậu đang ốm nặng, bọn cường trói anh suốt ngày đêm sai tay chân vác anh về như cái xác chết rũ rượi. Mọi gánh nặng đổ dồn lên vai chị.

- Gánh nặng sưu thuế đã dồn người nông dân vào cuộc sống lầm than cơ cực. Đó là giai đoạn với bao nỗi kinh hoàng khi bọn thực dân phong kiến ra sức bóc lột nông dân với đủ mọi thứ thuế. Chị Dậu cũng như bao người nông dân bấy giờ là nạn nhân trong xã hội ấy.

* Phẩm chất

- Người vợ, người mẹ giàu tình yêu thương

+ Trong cơn nguy kịch, chị Dậu tìm đủ mọi cách để cứu chồng. Khi chồng ốm, trước hàng loạt những tiếng trống thúc thuế, chị vẫn khẩn khoản, thiết tha mời chồng: " Thầy em cố gắng ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột". Hành động ấy chứa đựng biết bao tình yêu thương vỗ về.

+ Dũng cảm chống lại bọn cường hào để bảo vệ chồng

+ Bán đi đứa con mình đứt ruột đẻ ra, lòng người mẹ nào không đau cho được. Lòng chị chắc hẳn luôn quặn thắt luôn nhói đau.

- Người phụ nữ đúng mực có cương có nhu.

+ Lúc đầu khi bọn cường hào tới chị hạ mình van xin, lúc thì run run xin khất, lúc thì thiết tha xin chúng xem lại

+ Tên cai lệ " Rút dây thừng trong tay anh hậu cần lý trưởng, hắn chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu để bắt trói điệu anh ra đình". Tức nước vỡ bờ, để bảo về chồng cũng như nhân phẩm chị đã kiên quyết chống cự: " Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem". Cách xưng hô thay đổi. Từ chỗ nhún mình chị đã vùng lên. Tên cai vệ bị chị Dậu túm cổ ấn dúi ra cửa, ngã chỏng queo trên mặt đất.Tên hậu cận lý trưởng bị chị túm túc lăng cho một cái, ngã nhào ra thềm. Chị nói " Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được. Con giun xéo mãi cũng quằn, bị dồn tới bước đường cùng người nông dân phải tự giải thoát cho mình.

* Đánh giá

- Với nghệ thuật xây dựng nhân vật, sử dụng vốn từ ngữ giàu có sinh động, Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu, qua đó thể hiện chiều sâu nhân đạo cũng như triết lý: Có áp bức thì sẽ có đấu tranh.

III. Kết bài

- Cảm nhận của em về nhân vật: Chị Dậu đã để lại trong ta những ấn tượng sâu sắc. Qua đó ta thêm hiểu hơn về cuộc sống của người nông dân trong xã hội cũ đồng thời ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của họ.

Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, chị Dậu hiện lên là người như thế nào

Các bài văn mẫu khác:

Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 2

Trong giai đoạn 1936 - 1939, văn đàn Việt Nam xuất hiện nhiều tác phẩm có giá trí, hình thành một trào lưu văn học hiện thực phê phán mạnh mẽ xã hội và phản ánh sinh động cụ thể những nỗi đau khổ, lầm than của nhân dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám năm 1945. Ngô Tất Tố là một cây bút hiện thực phê phán xuất sắc của dòng văn học này.

Tắt đèn là một tác phẩm thành công nhất của Ngô Tất Tố. Đó là một bản cáo trạng lên án chế độ thối nát của bọn thực dân phong kiến, đồng thời Tắt đèn còn xây dựng hình tượng nhân vật chị Dậu, tiêu biểu cho phụ nữ nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với những phẩm chất tốt đẹp: yêu thương chồng con sâu sắc và có tinh thần đấu tranh chống áp bức.

Đoạn trích Tức nước vỡ bờ kể lại sau khi anh Dậu bị ngất xỉu ở sân đình, sợ bị vạ lây, bọn tay sai đem anh Dậu trả về cho gia đình như một cái xác chết. Chị Dậu cùng bà con hàng xóm ra sức chăm sóc cho anh Dậu. Chị vô cùng đau đớn xót xa, lo lắng cho mạng sống của chồng. Chị ân cần chăm sóc từng giấc ngủ, từng bữa ăn cho anh Dậu.

Trong lúc anh Dậu đau nặng, chị đã rón rén bưng một bát cháo lớn đến chỗ chồng nằm và dịu dàng nói "Thầy hãy cố dậy húp một ít cháo cho đỡ xót ruột". Rõ ràng chị đã tận tụy, hết lòng chăm sóc chồng. Việc làm của chị xuất phát từ lòng yêu thương chân thành sâu sắc của người vợ. Chị cố ngồi xem chồng có ăn ngon miệng không. Hình ảnh này khiến em liên tưởng đến bà Tú, vợ của Tú Xương cũng tần tảo, đảm đang lo lắng và hy sinh tất cả cho chồng con.

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông.

Những tình cảm cao đẹp đó chính là đặc điểm tiêu biểu nhất của người phụ nữ Việt Nam. Cũng chính vì tình cảm vợ chồng cao đẹp, chị Dậu đã dũng cảm đấu tranh chống lại bọn tay sai để bảo vệ người chồng yêu quý.

Khi anh Dậu đang run rẩy bê bát cháo lên thì bọn cai lệ và người nhà lí trưởng đã rầm rập tiến vào với những roi song, tay thước, dây thừng. Chúng chưa hành hung nhưng mồm vẫn còn chửi bới mỉa mai. Đối phó với hoàn cảnh bất ngờ đó, thái độ ban đầu của chị Dậu hoàn toàn bị động, chị run run van xin đến thiết tha nài nỉ: "Khốn nạn nhà cháu đã không có, dẫu ông có chửi mắng cũng thế thôi, xin ông trông lại".

Chị đã hạ mình nhẫn nhục khi xưng hô ông cháu để bảo vệ tính mạng của chồng. Nhưng chúng nào có nghe, bọn tay sai vẫn hung hăng xông tới. Bọn chúng giật phắt dây thừng, đùng đùng chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu. Đến giờ phút này, trước sự ức hiếp tàn bạo của chúng, chị không còn nhẫn nhục được nữa, rõ ràng nước càng tức càng vỡ bờ, chị đã chủ động đấu tranh chống lại kẻ thù.

Tinh thần phản kháng biểu hiện ở thái độ và hành động. Chị xám mặt lại và cách xưng hô cũng thay đổi. Lần cuối, chị không gọi chúng bằng ông và xưng con, cháu nữa, mà là mày với bà, chị đã tự đặt mình trên kẻ thù và giành thế chủ động: "Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem". Hành động của chị quyết liệt và nhanh như cắt, chị nắm ngay gậy của hắn, túm tóc lẳng cho một cái ngã nhào ra thềm.

Câu nói đầy vẻ thách thức cùng với hành động quyết liệt vừa là một câu biểu hiện của lòng thương yêu chồng, vừa cho thấy sự dũng cảm, tinh thần đấu tranh quyết liệt của chị. Rõ ràng là "tức nước bờ". Câu nói đầy khí phách của chị Dậu "Thà ngồi tù chứ để cho bọn chúng làm tình làm tội mãi thế tôi không chịu được" biểu hiện mãnh liệt sức phản kháng, lòng căm thù giai cấp chất chứa từ lâu.

Bao nhiêu nỗi tủi nhục bấy lâu chị cam chịu, giờ đây không dằn được nữa, nhất là chúng đã cố tình hành hạ anh Dậu. Chị đã lấy thân che chở cho chồng mà cũng không yên, cuối cùng chị đã vùng lên đấu tranh chống lại áp bức với một sức mạnh quật khởi của lòng căm thù.

Hành động của chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ chứng minh rằng "Ở đâu có áp bức là ở đó có đấu tranh". Sự phản kháng của chị Dậu cũng là một biểu hiện tinh thần đấu tranh chống áp bức, dù mang tính cách tự phát, nhưng vẫn thể hiện một tiềm lực tốt của giai cấp nông dân.

Khi có sự lãnh đạo của Đảng, giai cấp nông dân vùng lên đấu tranh với sức mạnh quật khởi bằng ý thức tự giác cách mạng. Với nghệ thuật miêu tả tính cách nhân vật qua các diễn biến căng thẳng của tình tiết. Ngô Tất Tố đã xây dựng thành công nhân vật chị Dậu. Đó là hình tượng chân thực, đẹp đẽ về người phụ nữ nông dân trước Cách mạng tháng Tám có lòng thương yêu chồng, có tinh thần đấu tranh dũng cảm chống mọi áp bức, bất công của chế độ thực dân phong kiến.

Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, chị Dậu hiện lên là người như thế nào

Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 3

Nhắc đến nhà văn Ngô Tất Tố (1893 – 1954) là ta nhớ đến tiểu thuyết "Tắt đèn", là ta nghĩ đến thân phận chị Dậu. Đó là một người phụ nữ nông dân nghèo khổ, cần cù lao động, giàu tình thương chồng, thương con, dũng cảm chống lại bọn cường hào. Nhà văn Ngô Tất Tố đã xây dựng nhân vật chị Dậu tiêu biểu cho cảnh ngộ khốn khổ và phẩm chất tốt đẹp của người đàn bà quê trước năm 1945. Cảnh Tức nước vỡ bờ trong Tắt đèn đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc về nhân vật Dậu.

Hoàn cảnh của chị Dậu thật đáng thương. Chị phải bán gánh khoai, bán ổ chó và đứt ruột bán đứa con gái lên bảy tuổi cho vợ chồng Nghị Quế, mới đủ nộp suất sưu cho chồng. Nhưng anh Dậu vẫn bị trói ở sân đình, vì còn thiếu một suất sưu nữa.

Chú Hợi là em ruột anh Dậu, chết từ năm ngoái nhưng chết cũng không trốn được sưu nhà nước nên gia đình anh Dậu phải nộp suất sưu ấy. Anh Dậu đang ốm nặng, bị trói suốt ngày đêm, anh ngất xỉu đi như chết. Bọn cường hào cho tay chân vác anh Dậu rũ rượi như cái xác đem đến trả cho chị Dậu. Đau khổ, tai họa chồng chất đè nặng lên tâm hồn người đàn bà tội nghiệp.

Chị Dậu là một người vợ, một người mẹ giàu tình thương.Trong cơn nguy kịch, chị Dậu tìm mọi cách cứu chồng. Tiếng trống, tiếng tù và đã nổi lên. Chị Dậu cất tiếng khẩn khoản, thiết tha mời chồng: thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột. Lời người đàn bà nhà quê mời chồng ăn cháo lúc hoạn nạn, chứa đựng biết bao tình thương yêu, an ủi vỗ về.

Cái cử chỉ của chị Dậu bế cái Tỉu rồi xuống cạnh chồng cố ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không đã biểu lộ sự săn sóc và yêu thương của người vợ đối với người chồng đang đau ốm, tính mạng đang bị bọn cường hào đe doạ!

Chị Dậu là một người phụ nữ cứng cỏi đã dũng cảm chống lại bọn cường hào để bảo vệ chồng. Bọn cai lệ và tên hầu cận lý trưởng, lũ đầu trâu mặt ngựa với tay thước, roi song, dây thừng lại sầm sập xông vào nhà chị Dậu thét trói kẻ thiếu sưu. Anh Dậu vừa run rẩy kề miệng bát cháo, nghe tiếng thét của tên cai lệ, anh đã lăn dùng xuống phản!

Tên cai lệ chửi bới một cách dã man. Hắn gọi anh Dậu là thằng kia hắn trợn ngược hai mắt quát chị Dậu: Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà dám mở mồm xin khất. Chị Dậu đã hạ mình van xin, lúc thì run run xin khất, lúc thì thiết tha xin ông trông lại. Tên cai lệ mỗi lúc lại lồng lên: Đùng đùng, (…) giật phắt cái thừng trong tay anh hầu cận lý trưởng, hắn chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu để bắt trói điệu ra đình.

Chị Dậu van hắn tha cho… thì hắn bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch, tát đánh bốp vào mặt chị, rồi nhảy vào cạnh anh Dậu. Một ngày lạ thói sai nha – làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền (Nguyễn Du). Để tróc sưu mà tên cai lệ, "kẻ hút nhiều xái cũ” đã hành động một cách vô cùng dã man. Mọi sự nhẫn nhục đều có giới hạn, hơn nữa, để bảo vệ tính mạng của chồng, bảo vệ nhân phẩm của bản thân, chị Dậu đã kiên quyết chống cự: chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ. Không thể lùi bước, chị Dâu đã nghiến hai hàm răng thách thức: "Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!"

Tư thế của chị Dậu có một bước nhảy vọt. Từ chỗ nhún mình tự gọi là cháu, gọi tên cai lệ bằng ông y sau đó là mày. Chị đã vỗ mặt hạ uy thế và hạ nhục chúng! Hai kẻ đốc sưu định trói kẻ thiếu sưu nhưng chúng đã bị người đàn bà lực điền trừng trị. Tên cai lệ bị chị Dậu túm lấy cổ y ấn dúi ra cửa, ngã chỏng queo trên mặt đất!

Tên hầu cận lý trưởng bị chị Dậu túm tóc lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm. Với chị Dậu, nhà tù của thực dân cũng chẳng có thể làm cho chị run sợ. Trước sự can ngăn của chồng, chị Dậu vẫn chưa nguôi giận: "Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…"

Con giun xéo mãi cũng quằn, chị Dậu cũng vậy, bị áp bức dã man, tính mạng bị đe dọa, chị đã vùng lên đánh trả một cách dũng cảm. Nhà văn Nguyễn Tuân đã có một nhận xét rất thú vị: Trên cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa hiện lên một cái chân dung lạc quan của chị Dậu (…).

Bản chất của nhân vật chị Dậu rất khỏe, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra… Ngô Tất Tố rất hả hê khi tả cảnh chị Dậu cho tên cai lệ và tên hầu cận một bài học đích đáng. Ông đã chỉ ra một quy luật tất yếu trong xã hội: Có áp bức có đấu tranh.

Cảnh Tức nước vỡ bờ rất sống động và giàu tính hiện thực. Đoạn văn như một màn bi hài kịch, xung đột diễn ra căng thẳng đầy kịch tính. Hình ảnh chị Dậu được miêu tả rất chân thực. Chị giàu lòng thương chồng, vừa rất ngang tàng, cứng cỏi. Chị hạ nhục tên cai lệ là mày, tự xưng là bà.

Cái nghiến hai hàm răng, cái ấn dúi, cái túm tóc lẳng một cái và câu nói: Thà ngồi tù… đã nêu cao tầm vóc lớn lao đáng kính phục của chị Dậu, một người phụ nữ nông dân trong xã hội cũ.

Từ hình ảnh Cái cò lặn lội bờ sông – Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non (ca dao) đến hình ảnh chị Dậu trong Tắt đèn, ta thấy chân dung người phụ nữ Việt Nam trong văn học đã có một bước phát triển mới cả về tâm hồn lẫn chí khí.

Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 4

"Tắt đèn" là bản tố khổ chân thật, sâu sắc, chan hòa nước mắt và lòng căm phẫn của người nông dân nghèo bị bóc lột, đàn áp. Có lẽ chính nhà văn Ngô Tất Tố cũng không cầm được nước mắt. Cái đáng quý ở nhà văn này là thái độ phẫn nộ với giai cấp bóc lột và lòng thương người mênh mông!

"Tức nước vỡ bờ" vốn là câu tục ngữ mang tính quy luật tự nhiên (nước đã dâng lên cao thì bờ ngoài vỡ nhưng cũng có ý nghĩa xã hội sâu sắc..., Người ta đã vận dụng câu tục ngữ này làm tiêu đề, tên gọi của một đoạn trích hết sức điển hình trong tiểu thuyết Tắt đèn.

Tinh huống dẫn đến cảnh Tức nước vỡ bờ có ngay ở giữa nhà Lí trưởng, chị Dậu, nạn nhân trực tiếp của cái thuế thân quái gở kia đã uất nghẹn kêu lên: "Ối trời ơi! Tôi bán cả con lẫn chó và hai gánh khoai mới được hai đồng bảy bạc. Tưởng rằng đủ tiền nộp sưu cho chồng, thì chồng khỏi bị hành hạ đêm nay. Ai ngờ lại còn suất sưu của người chết nữa! Khốn nạn thân tôi! Trời ơi! Em tôi chết rồi cồn phải đóng sưu hở trời?... "

Như thế là hoàn cảnh đưa đến cảnh "tức nước" là do những trận bão tố từ cái chính sách thuế thân quái gở của bọn thực dân Pháp và những thủ đoạn bóc lột trắng trợn của gia đình Nghị Quế, và hành động đánh trói dã man của bọn lính tráng, tuần đinh, người nhà tên Lí trưởng giội xuống đầu chị Dậu!

Chúng dồn chị đến con đường cùng, khi anh Dậu bị ném ở đình về nằm khóc con, khóc em, khóc số phận mình. Nhưng chị Dậu đã khuyên giải "Thịt người tanh không ai ăn được, thầy em cứ yên tâm nằm nghỉ không phải lo lắng gì cả".

Như vậy là mức nước đã dâng lên rất cao, cái thời điểm "vỡ bờ" chỉ còn chờ đợi từng giây phút. Người đàn bà ấy đã phải chịu nỗi đau đứt ruột vì phải bán đàn chó và bán con đi mà vẫn không giải quyết được nạn sưu thế. Nhất là khi bọn chúng vất anh Dậu về nhà chỉ còn như cái xác chết, người hàng xóm cho bát gạo, chị nấu cháo vội để "cứu chồng" (bát cháo lúc này vừa là bát cơm vừa là chén thuốc).

Nỗi lo của chị như vừa lắng dịu xuống một chút, vì anh Dậu vừa tỉnh lại, run rẩy cất bát cháo vào miệng định ăn thì chúng sầm sập tiến vào nhà, trong tay là roi song, dây thừng, hình ảnh chúng như bọn quỷ dữ từ âm phủ hiện về chúng hét "Thằng kia! Ông tưởng mày chết đêm qua, còn sống đấy à? Nộp tiền sưu! Mau!

Thế là cái giọng khàn khàn chỉ hút xác thuốc phiện đã dập tắt ngay sự yên ổn của chị Dậu và hơi tàn của anh Dậu! Anh "lăn đùng ra đó, không nói được câu gì". Trước tình cảnh ấy, chúng chẳng có chút gì mủi lòng mà còn quát mắng, chửi bới, đe dọa chị Dậu. Chúng gọi chị là "mày" xưng "cha" rồi xưng "ông" với chị. Chúng dọa "dỡ nhà" và ‘trói cổ anh Dậu điệu ra đình’!

Cuối cùng tên cai lệ giật phắt cái dây thừng trong tay người nhà Lí trưởng sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu. Đểu cáng và tàn ác hơn nữa, hắn ‘bịch vào ngực chị mấy bịch’ và tát vào mặt chị. Thái độ của chị Dậu đã căm giận lắm, nhưng để bảo vệ chồng, chị van xin, ngăn cản, đỡ đòn cho chồng. Mỗi lần chị lùi lại van xin, tên cai lệ càng hung hăng thêm. Vừa đánh, vừa chửi hắn nhảy đến cạnh anh Dậu.

Hành động và cử chỉ của tên tay sai mạt hạng chính là ngọn gió gây nên cảnh "tức nước vỡ bờ". Bão táp đã đến độ con bờ phải "vỡ". Sau cái tát vào mặt chị và thêm những lời nói thô lỗ, khốn nạn của hắn như: "mày định nói cha mày nghe đấy à", ‘trói cổ thằng chồng lại’. Chị không chịu được nữa bèn túm lấy cổ hắn dúi ra cửa, hắn "ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng lảm nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu"!

Như vậy, chị Dậu là biểu tượng cho những đợt sóng cồn, nước cả có sức mạnh công phá con bờ. Và bọn lính tráng, tay sai chỉ cậy sức mạnh ở cường quyền, bạo lực, còn bản chất của chúng thì hèn yếu, từ cái dáng hình bề ngoài đến lòng dạ bên trong!

Tình huống xảy ra như không thể ngờ chị Dậu lại chống cự mạnh mẽ đến như thế! Lúc đó chị đang tập trung nói ý nghĩ và cử chỉ là an ủi chồng. ‘Thầy em cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ "xót ruột" thì bọn cai lệ dẫn xác vào. Mặc cho chúng quát tháo chị vẫn dịu dàng van xin chúng bằng những lời có tình, có lí: "Nhà cháu đã túng lại phải đóng cả suất sưu cho chú nó nữa, nên mới lôi thôi như thế. Chứ cháu có dám bỏ bê tiền sưu của nhà nước đâu"...

Nếu những con người có lương tri nhìn cái gia cảnh ấy, con người ấy ai nỡ đầy đọa đến bước đường cùng? Nhưng bọn này là tay sai, ở chúng không có khái niệm ‘tình thương người’ nên chúng chỉ biết ăn nói thô tục, quát tháo ầm ĩ, đánh người bừa bãi, chúng có biết đâu rằng có giết vợ chồng chị đi thì cũng không còn đồng xu nào nộp suất sưu vô lí nữa.

Chị gọi chúng là "ông" và tự xưng là "cháu" và đã hai lần chị xin chúng: "Hai ông làm phúc cho nhà cháu khất"... "Nhà cháu đã không có, xin ông xem lại..." Như vậy một bên là cố gắng kìm nén, một bên cứ cậy thế chính quyền, luật pháp mà mắng chửi, xô người đến con đường cùng.

Cho nên tình huống đã trở nên không thể nào khác là "cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng". Sau khi bị tên cai lệ đánh và hắn đe dọa không tha anh Dậu, chị Dậu vùng lên trở thành người đàn bà đanh đá, quyết liệt chống lại bọn chúng: từ chỗ xưng "cháu" với "ông" chị gọi chúng là "mày" và xưng "bà" nói những câu áp đảo lại chúng: "Ông không được phép", "Mày trói ngay chồng bà đi bà cho mày xem". Nói là làm, chị đã đánh ngã cả hai thằng cả hai tên "đại diện" cho sự thống trị khốn nạn nhất.

Hình tượng chị Dậu qua đoạn trích Tức nước vỡ bờ đã để lại trong lòng người đọc một ấn tượng mạnh mẽ và vô cùng sâu sắc về hình ảnh người phụ nữ mang trong mình một sức sống tiềm tàng mạnh mẽ, sức phản kháng và tấm lòng dũng cảm chống lại cái ác, cùng với đó là tấm lòng giàu yêu thương của một người phụ nữ.

Ngô Tất Tố đã thành công xây diễn tả được cái khổ, cái khó đến cùng cực của người dân ở một nước thuộc địa. Thể hiện tiếng nói phản đối lại bất công, cường quyền. Tố cáo đanh thép xã hội phong kiến thực dân cướp đi quyền sống của con người.

Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 5

 “Con cò mà đi ăn đêm

Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao”

Số phận của người nông dân trong thời kì thực dân nửa phong kiến, có lẽ cũng chính là hình ảnh con cò trong câu ca dao ấy. Nhưng trong họ, vẫn lóe lên ánh sáng của tình yêu thương, của sức phản kháng kì diệu. Và ta tìm được những điều ấy trong hình ảnh chị Dậu của Ngô Tất Tố.

Ngô Tất Tố(1893-1954), là một cây bút hiện thực sâu sắc trong dòng chảy của văn học 1930-1945. Ông thường viết về những người nông dân của làng quê Việt Nam, sống trong cảnh một cổ hai tròng mà mang nỗi uất ức. Những tác phẩm tiêu biểu của ông như “Lều chõng”, “Việc làng”, “Tắt đèn” vẫn còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay.

Trong đó, tiểu thuyết “Tắt đèn” có lẽ là bức tranh hiện thực sâu sắc, bộn bề nhất mà ông dựng nên về làng quê Việt Nam trong những năm tháng thực dân nửa phong kiến. Tác phẩm ra đời năm 1939, với những nhân vật như chị Dậu, anh Dậu, Nghị Quế, cái Tí,... đủ những tầng lớp giai cấp để làm nên xã hội thời bấy giờ. Trong đó, hình ảnh chị Dậu là nổi bật hơn cả, với nỗi khổ và vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam.

Trước hết, có thể thấy, chị Dậu phải sống trong cảnh tủi nhục đến khôn cùng. Nhà chị thuộc “hạng cùng đinh”, một mình chị gồng gánh lo cho một chồng và ba con. Người phụ nữ nông dân ấy phải lo tiền sưu thuế cho chồng, lại lo cho cả người em chồng đã mất năm ngoái.

Bọn cường hào lý trưởng nào có để chị yên. Không đến phá đám dọa nạt, lại bắt anh Dậu mà hành hạ cho đến chết đi sống lại. Để có tiền lo sưu thuế cho chồng, chị bán đi từng thứ trong nhà. Gánh khoai bán được chị đã bán, giờ phải bán đàn chó con còn chưa mở mắt, và rồi đến cả cái Tí- đứa con gái đầu còn chưa bảy tuổi cho nhà Nghị Quế. Có nỗi đau nào đau hơn lòng người mẹ ấy?

Đến thế mà vẫn chưa đủ tiền nộp sưu cho chồng, chị bị bọn nhà Lý trưởng đến hành hạ, lăng nhục, bị tát, bị đánh không bằng con vật. Qua nỗi khổ của nhân vật chị Dậu ấy, ta nhận ra giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm. Là hiện thực chân thật đến trần trụi về bộ mặt của xã hội thực dân, chèn ép người nông dân cho đến tận cùng cực. Chúng dùng cái lí do sưu thuế để mà bóc lột, tra tấn họ. Đến cả người chết cũng phải nộp thuế, đến cả người đàn bà chúng cũng hành hạ, thử hỏi xã hội ấy thối nát đến mức nào?

Nhưng đó không phải là lí do để chị Dậu bị kéo xuống bùn đen của ô nhục. Ở chị, vẫn ngời lên những phẩm chất đẹp đẽ mà Ngô Tất Tố nhìn thấy ở người nông dân.

Có thể thấy, chị Dậu dù trong hoàn cảnh nào vẫn là một người phụ nữ giàu tình yêu thương. Sâu sắc nhất là tình thương dành cho người chồng của mình. Vì thương chồng nên chị chạy vạy đi vay nợ, bán chác để có tiền trả sưu thuế cho chồng, để anh Dậu không bị hành hạ. Tình thương ấy thể hiện ngay trong chính lời nói và cử chỉ với chồng. Chị liên tục động viên: “Thầy em cố ăn hết bát cháo cho mau khỏe...”, “chị đón cái Tỉu và ngồi xuống như chờ xem chồng có ăn ngon miệng không”.

Đó dường như đã là phẩm chất ngàn đời của người phụ nữ Việt Nam, ân cần, chu đáo và vị tha. Không một lời trách móc hay kêu ca, chị dành cho chồng sự chăm sóc tận tâm nhất. Đó có lẽ cũng là động lực phát sinh bên trong để chị vùng dậy đánh laj tên cai lệ, bảo vệ cho chồng. Phẩm chất ấy của chị thật đáng quý và đáng trân trọng biết nhường nào!

Nổi bật nhất trong nhân cách của chị Dậu, có lẽ chính là tinh thần phản kháng hết sức mạnh mẽ. Nhan đề có tên là “Tức nước vỡ bờ”, có nghĩa là, khi người nông dân bị đẩy vào hoàn cảnh éo le đến cùng cực, tự khắc họ sẽ phải trỗi dậy để chống lại áp bức ấy. Chị Dậu cũng vậy. Khi anh Dậu còn đang bệnh tật ốm yếu, bọn nhà Lý trưởng cùng tên cai lệ đã xông vào đòi chị nộp sưu, nếu không thì trói anh Dậu bắt đi.

Mặc dù chị đã hạ mình xuống để van xin khẩn thiết, chúng vẫn một mực không nghe, thậm chí còn xô ngã và đánh chị. Đây chính là lúc tức nước mà vỡ bờ! Sự phản kháng thể hiện ngay trong cách xưng hô. Lúc đầu, chị gọi bọn cai lệ là “ông”, xưng là “cháu”, còn thể hiện một sự nhún nhường, với thái độ van xin lễ phép. Nhưng lũ “đầu trâu mặt ngựa” ấy vẫn nhất quyết trói anh Dậu và thậm chị còn “bịch luôn vào ngực chị Dậu”.

Ngay sau lời đó, thái độ xưng hô đã chuyển thành “ông-tôi”, thể hiện sự ngang bằng, thách thức. Chị đã không còn đặt mình bên dười tên cai lệ ấy nữa, tất cả trở về vị trí ngang nhau. Nhưng sau cái tát của tên cai lệ, chị đã gọi hắn là “mày” và xưng “bà”. Chị đã đặt mình lên trên cả bọn cường hào ấy, thể hiện một thái độ thách thức, không ngần ngại đấu tranh với hắn. Ngay từ cách xưng hô, ta đã thấy một thái độ phản kháng mãnh liệt trong tâm hồn người phụ nữ này.

Sức phản kháng của chị Dậu thể hiện rõ nét ở từng hành động của chị. Ban đầu, chị thiết tha, khẩn khoản van nài, “chạy đến đỡ tay hắn”. Nhưng kể từ khi bị tên cai lệ “bịch vào ngực” và “tát vào mặt cái bốp”, một sức mạnh tiềm tàng được bùng phát lên. “Chị túm lấy cổ áo hắn, ấn dúi ra cửa”.

Rõ ràng, đó không còn là khuất phục, mà chính là đứng lên để chiến đấu, để bảo vệ chính mình. Đây chính là điểm sáng trong cái nhìn của Ngô Tất Tố, khi ông nhìn được ở người nông dân sức mạnh tiềm tàng như thế. Đây chính là con đường để người nông dân tự giải thoát cho mình, dẫn họ đến tương lai. Ánh sáng của cách mạng chưa thể đến được nơi đây, nhưng nó đã nhen nhóm lên ngọn lửa để chờ ngày bùng phát.

Xây dựng nhân vật chị Dậu, Ngô Tất Tố tập trung khắc họa hành động, lời nói để làm nổi bật tính cách của chị. Ở “Tức nước vỡ bờ”, chị Dậu hiện lên trở thành tiêu biểu cho người nông dân trong thời kì bấy giờ, có áp bức và có đấu tranh. Ở đây, ta thấy được cái nhìn đầy nhân đạo của Ngô Tất Tố dành cho người nông dân, khi đồng cảm cho thân phận, nỗi khổ của họ, đồng thời cũng trân trọng vẻ đẹp tiềm tàng của những con người chân lấm tay bùn ấy. Có phải, những điều ấy làm nên sức sống muôn đời cho tác phẩm?

Dù hôm nay hay mai sau, “Tắt đèn”, “Tức nước vỡ bờ” và chị Dậu sẽ còn sống mãi trong lòng người Việt, như ánh sáng của sức mạnh chị tạo ra trong chính cuộc đời của mình!

Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 6

Ngô Tất Tố là nhà văn hiểu biết sâu sắc đời sống và tâm trạng của quần chúng, có cái nhìn đúng đắn đối với quần chúng. Chúng ta trở lại nhân vật chị Dậu. Chị Dậu là người nghèo khổ, bị áp bức bóc lột tàn tệ. Cuộc đời của chị quằn quại trong bùn lầy và bóng tối. Nhưng chị lại là người có một phẩm chất cao quý, đẹp đẽ.

Chị Dậu là người hiền lành, thật thà, chăm chỉ làm ăn, thương chồng, thương con rất mực. Chị có thể tiêu biểu cho lớp phụ nữ nông dân Việt Nam, cần cù lao động, chịu thương, chịu khó. Nhưng có một lúc, con người hiền lành ấy đã cả gan đánh lại bọn đầu trâu mặt ngựa để bảo vệ cho chồng. Tuy hành động ấy mới chỉ có tính chất tự phát và nhất thời, nhưng cũng phần nào nói lên được ý chí không chịu khuất phục của những con người bị chà đạp, giày xéo. Đó là một hành động đẹp đẽ. Lời nói của chị Dậu là một lời phản kháng đanh thép:" Chồng tôi đau ốm ông không được phép hành hạ!". Trong lúc bị hà hiếp quá đáng, người đàn bà ấy có thể liều chết chống lại bọn thống trị: "Thà ngồi tù, để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được"...

Nếu uy lực không hoàn toàn đè bẹp được chị thì tiền tài cũng không mua chuộc được chị, tuy có khi chỉ vì một đồng bạc, chị đã cắt đứt tình ruột thịt, mang con bán cho nghị Quế. Cái đêm chị bị tên tri phủ tìm cách cưỡng hiếp, chị đã cương quyết chống lại và đã thắng được con thú vật đáng ghê tởm. "Quan phủ lóp ngóp đứng dậy, mở ví lấy nắm giấy bạc độ hơn chục đồng, chài vào tận mặt chị Dậu. Ngài thở và nói: "Có muốn lấy tiền tao cho!". Chị Dậu giằng nắm bạc vứt tọt xuống đất.

Cái đêm "quan cụ" định diễn lại tấn tuồng của tên tri phủ kia, chị Dậu cũng cho hắn một bài học đích đáng. Bên cạnh tính chất đê hèn của bọn quan lại giàu có, phẩm chất đạo đức của người đàn bà nông dân nghèo khổ càng sáng tỏ, đẹp đẽ.

Đối lập với quần chúng là bè lũ thống trị, những bọn mặt người dạ thú, tàn bạo, tham lam và dâm dục. Nếu Ngô Tất Tố thành công trong việc biểu hiện quần chúng, thì ông cũng đã thành công trong việc tố cáo những cái xấu xa thối nát của giai cấp thống trị. Những lí trưởng lí cựu, chánh hội, phó hội cho đến viên tri phủ, vợ chồng nghị Quế.v.v... đều là một bọn người đang xúm nhau lại hút máu mủ nhân dân. Sưu thuế là tai họa đối với nhân dân nhưng lại là món béo bở đối với chúng. Vì sưu thuế chị Dậu đã bán khoai, bán lúa, bán chó, bán con, vì sưu thuế anh Dậu bị cùm kẹp, đánh đập suýt chết; nhưng bọn cường hào, quan lại thì nhờ sưu thuế mà được ăn, được uống, được hút lại có tiền bỏ túi. Chúng mưu mô lợi dụng cảnh hoạn nạn của quần chúng để làm giàu, để hưởng thụ. Đọc Tắt đèn chúng ta thương cảm những người lao khổ bao nhiêu thì lại càng căm ghét bọn thống trị bấy nhiêu. Bức tranh xã hội càng chân thực thì càng có sức mạnh tố cáo và càng có tác dụng giáo dục cho công chúng lòng căm thù sâu sắc đối với chế độ áp bức, bóc lột. Thái độ của Ngô Tất Tố trong Tắt đèn rất rõ rệt. Đối với quần chúng, ngòi bút của tác giả dạt dào một tấm lòng thông cảm sâu sắc còn đối với bọn quan lại, cường hào ngòi bút của nhà văn lại đầy giọng đả kích, châm biếm. Ngô Tất Tố không hề e dè trong việc vạch trần tính chất bỉ ổi, vô nhân đạo của bọn thống trị. Thái độ của nhà văn là một thái độ chiến đấu. Tính chiến đấu toát ra từ giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm. Cố nhiên, cũng như những nhà văn hiện thực khác lúc bấy giờ, với nhãn quan giai cấp của mình, Ngô Tất Tố chưa thể nhìn thấy bước đường sắp tới của lịch sử. Kết thúc Tắt đèn, chị Dậu chạy vào đêm tối, "mịt mù như tiền đồ của chị". Nhưng đứng về quan điểm lịch sử, chúng ta không thể nhất thiết đòi hỏi nhà văn phải có một cái nhìn cách mạng đối với xã hội được. Ngô Tất Tố dũng cảm bóc trần mâu thuẫn của xã hội, nói lên đời sống cơ cực và phẩm chất tốt đẹp của những người bị áp bức, vạch trần chân tướng của bọn thống trị, đó là những thành công đáng cho chúng ta trân trọng.

Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, chị Dậu hiện lên là người như thế nào

Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 7

Ngô Tất Tố là nhà văn xuất sắc trong dòng văn học hiện thực 1930-1945. Viết về nạn sưu thuế dã man đã bần cùng hóa nhân dân ta, ca ngợi những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân, tiểu thuyết “Tắt đèn" của Ngô Tất Tố là một thành công đặc sắc. Nhân vật chị Dậu đã được khắc họa thành một nhân vật điển hình về người phụ nữ nông dân trong xã hội cũ.

Bình luận về tác phẩm “Tắt đèn”, nhà văn Nguyễn Tuân có nhận xét về nhân vật chị Dậu như sau: “Trên cái tối giời, tối đất của đồng lúa ngày xưa, hiện lên một cái chân dung lạc quan của chị Dậu”.

Nhận xét của Nguyễn Tuân rất sắc sảo. Ông chỉ ra giá trị hiện thực của “Tắt đèn” một tác phẩm đã phản ánh sự đen tối lầm than của nông thôn Việt Nam dưới thời Pháp thuộc, đồng thời khẳng định thành công của Ngô Tất Tố khắc hoạ nhân vật chị Dậu “một chân dung lạc quan ”hiện lên giữa “cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa" ấy. Chị Dậu có bao phẩm chất tốt đẹp: nghèo khổ mà phẩm giá trong sạch, thương chồng thương con, đảm đang tháo vát, dũng cảm chống lại bọn cường hào.. “Bản chất của nhân vật chị Dậu rất khóe, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra..”.

“Cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa được nói đến trong “Tắt đèn” là làng Đông Xá giữa mùa sưu thuế. Tiếng trống ngũ liên, tiếng tù và, tiếng mõ đốc sưu nổi lên suốt đêm ngày nghe rất rùng rợn, cổng làng bị bọn cường hào đóng chặt để tróc sưu. Bọn cai lệ, bọn tay chân lí trưởng với roi song, tay thước, dây thừng, nghênh ngang đi lại ngoài đường thét bắt trói kẻ thiếu sưu. Lí trưởng làng Đông Xá ra lệnh cho lũ tay chân: "Tha hồ đánh! Tha hồ trói! Thằng nào bướng bỉnh đánh chết vô tội vạ! Anh Dậu vì tội thiếu sưu mà bị bọn cường hào “bắt trói như trói chó để giết thịt!’’. Em trai anh Dậu chết từ năm ngoái nhưng anh Dậu vẫn phải nộp thay vì “Chết cũng không trốn được sưu Nhà nước!”. Có biết bao gia đình nông dân nghèo khổ bị điêu đứng, bị bắt đánh trói dã man! Chị Dậu phải bán khoai, bán ổ chó, bán đứa con gái đầu lòng lên 7 tuổi cho Nghị Quế. Chị phải đi ở vú... để kiếm đủ số tiền trang trải hai suất sưu cho chồng và đứa em chồng đã chết! Có thể nói “Tắt đèn” là bức tranh chân thực về xã hội nông thôn đen tối trước cách mạng, đồng thời là bản án đanh thép đối với cái xã hội ấy. Đọc “Tắt đèn”, ta rùng mình cảm thấy“cái tối giời tối đất của đồng lúa ngày xưa ” như Tố Hữu đã viết:

“Nửa đêm thuế thúc trống dồn,

Sân đình máu chảy, đường thôn lính đầy... ”

(30 năm đời ta có Đảng)

Giữa cái xã hội đen tối, hãi hùng ấy đã “Hiện lên một cái chân dung lạc quan của chị Dậu”. Ngô Tất Tố không chỉ thấu hiểu đời sống nông thôn mà còn có tình cảm gắn bó với những người dân cày lam lũ, nghèo khổ. Ông đã dành cho nhân vật chị Dậu sự đồng cảm, xót thương và quý trọng. Ông đã viết nên những lời tốt đẹp nhất về cái chân dung lạc quan của chị Dậu. Chị Dậu cần cù chịu khó làm ăn "đầu tắt mặt tối” thế mà "cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc”. Tai họa dồn dập: hai cái tang mẹ chồng và em chồng, rồi anh Dậu bị ốm nặng kéo dài mấy tháng trời, gia đình chị trở thành “cùng đinh”. Thiếu sưu, chồng bị bắt, bị đánh trói dã man. Một nách ba đứa con thơ, trong nhà không còn một hột gạo, chị Dậu tất tả ngược xuôi tìm mọi cách để cứu chồng. Chị đã phải bán gánh khoai, bán ổ chó, đứt ruột bán cái Tí lên 7 tuổi cho mụ Nghị, mới trả đủ một suất sưu cho chồng! Chị còn phải đi ở vú để trang trải “món nợ Nhà nước” cho đứa em chồng đã chết. Trước mọi tai họa, chị đã vững vàng chống đỡ.

Trong cảnh “Tức nước vỡ bờ”, “cái chân dung lạc quan của chị Dậu” đã tỏa sáng. Chị nấu cháo, lấy quạt quạt cho cháo chóng nguội, ân cần mời chồng, an ủi chồng đang ốm “rề rề” ăn cháo. Trước sự chửi mắng và thái độ hách dịch côn đồ của tên cai lệ, chị đã nhún mình van xin “tha cho chồng”... Nhưng khi bị tên cai lệ “ bịch vào ngực”, “tát đánh bốp vào mặt”, anh Dậu sắp bị trói, chị Dậu đã “nghiến hai hàm răng” thách thức: "Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!”. Với quyết tâm bảo vệ chồng, với sức mạnh và lòng dũng cảm, chị Dậu đã đánh ngã nhào hai tên côn đồ độc ác, những kẻ "hút nhiều xái cũ”. Chị căm giận phủ định mọi thế lực tàn ác của chính quyền thực dân. Chị nói với chồng sau khi đã trừng trị lũ đầu trâu mặt ngựa: “Thà ngồi tù. Để cho chúng làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được... ”. Cái chân dung chị Dậu "lạc quan” lắm chứ! Đẹp lắm chứ!

Đói cho sạch, rách cho thơm. Đọc “Tắt đèn ”, ta khâm phục trước phẩm cách trong sạch của chị Dậu. Chị Dậu đã “vứt toẹt nắm bạc” vào mặt tên Tri phủ Tư Ân khi hắn giở trò chó má! Chị cũng đã đẩy cụ cố Thượng ra, khi lão già ôm lấy chị... Bạo lực, tù đày, chị không sợ. Tiền bạc không mua chuộc được người đàn bà nhà quê này! Trong đêm tối như mực, ta thấy “hiện lên một cái chân dung lạc quan của chị Dậu ”.

Có người cho rằng chị Dậu manh động! Lại có ý kiến cho rằng cái kết của Tắt đèn nhuốm màu bi quan? Nhà văn Nguyễn Tuân đã phát hiện ra "Bản chất của chị Dậu rất khoẻ, cứ thấy lăn xả vào bóng tối mà phá ra". Đó là một ý rất hay, rất đặc sắc.

Ngày nay, nông thôn Việt Nam đã có nhiều đổi mới. Xóm làng đã "ngói hoá”. Ánh điện đã tỏa sáng nhiều xóm thôn. Những cái Tí đã được cắp sách đến trường. Đọc “Tắt đèn “là một dịp để mọi người “ôn cũ biết mới”. Ta càng thấy cái tâm và cái tài của Ngô Tất Tố khi ông miêu tả bức chân dung lạc quan của chị Dậu.

Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 8

Ngô Tất Tố là nhà văn hiện thực nổi tiếng trong nền văn xuôi Việt Nam. Ông có rất nhiều các tác phẩm hay, đặc sắc, trong đó tác phẩm nổi trội hơn cả, đó là tác phẩm “tắt đèn”. Tác phẩm như một lời tố cáo nặng nề đến giai cấp thống trị trong xã hội phong kiến xưa. Chị Dậu là người phụ nữ sống trong xã hội đầy bất công ấy, một người phụ nữ bị áp bức, bóc lột quá nhiều

vừa hiền lành nhịn nhục nhưng khi bị đẩy vào bước đường cùng họ lại vùng dậy đấu tranh đòi lại quyền được sống.

Chị Dậu là người phụ nữ hết lòng yêu thương chồng con và vô cùng đảm đang. Khi gia đình chưa có tiền nộp sưu, bọn quân lính đã bắt anh Dậu ra đình để chịu những đòn roi, đánh đập dã man của chúng. Đón chồng trở nhà sau bao ngày bị bọn quan sai lôi đi đánh đập, hành hạ, chị Dậu thậm chí còn không có nổi một hạt gạo để nấu cho chồng bát cháo. Chị tất tả chạy đi vay hàng xóm được nắm gạo để nấu nồi cháo loãng cho chồng. Trong lúc khó khăn, túng quẫn như vậy, chồng không muốn ăn, chị nhẹ nhàng giỗ dành, đút từng thìa cháo nhỏ cho anh ăn. Chị thấy chồng như vậy, chị đau cả bản thân mình nữa.

Trong lúc khốn khó, túng quẫn chị Dậu một mình xoay sở chống đỡ, chị trở thành trụ cột trong gia đình, mọi gánh nặng từ cuộc sống đè nặng lên vai chị. Khi chồng bị bắt đi, một mình chị thân gái phải chạy vạy khắp nơi để vay mà không đủ tiền để “chuộc” chồng ra. Chị phải mang cả đàn chó mới đẻ chưa mở mắt để gom đủ tiền. Và người mẹ đó phải mang đứa con của mình đi bán, có nỗi đau nào hơn nỗi đau này, khi con chị xin van chị ở lại mà chị phải dứt lòng bán con đi. Nỗi đau ấy ai thấu hiểu được đây.

Chị Dậu là con người vô cùng nhẫn nhục. Khi bọn cai lệ xông đến bắt anh Dậu, thúc ép nộp sưu, chị Dậu đã van xin, lời lẽ vô cùng kính trọng, chị nhỏ nhẹ xưng “ông” với “con”. Lúc đầu, chị nhẫn nhục van xin tên cai lệ để hắn tha cho anh Dậu. Khi bọn chúng sầm sập chạy đến định bắt trói anh Dậu, chị xám mặt tức giận nhưng vẫn cố gắng chịu đựng, níu tay tên cai lệ, van xin. Chị tỏ thái độ cúi nhường để bảo vệ chồng mình khỏi nguy hiểm. Vì ngoài cách đấy ra chị không biết mình có thể làm được gì nữa. Một người vợ chỉ có thể cố gắng như vậy thôi. Nhưng khi cái danh dự của chị bị chúng nó coi thường lời van xin ấy, khi tên cai lệ ấn vào ngực chị cái bịch và sấn đến chỗ anh Dậu thì chị chuyển thái độ lớn tiếng cảnh báo hắn.

Từ vị thế của kẻ dưới, chị Dậu đã nâng mình lên vị trí của người trên để mắng chửi chúng cho hả giận. Từ “ông- con” sang “bà- mày” thì chứng tỏ cơn giận đã lên đến đỉnh điểm. Chị Dậu không còn nhún nhường sợ hãi bọn cường hào gian ác nữa. Khi bị đặt vào tình thế như chị Dậu, thì không ai là không thể tức giận, ép quá thì núi lửa cũng phải phun trào chống lại. Chị cũng chỉ vì muốn bảo vệ cái gia đình nhỏ của chị. Một người phụ nữ phải chịu quá nhiều điều gò bó từ cuộc sống, bị chèn ép, bị bóc lột, bị làm cho khổ quá rồi thì người ta sẽ không chịu được nữa.

Sau lời cảnh báo, chị nhảy vào đánh lại bọn tay sai tàn ác: “Rồi chị túm lấy cổ, ấn dúi ra cửa làm tên cai lệ ngã chỏng quèo trên mặt đất, đến lượt tên người nhà lí trưởng thì chị xông vào giằng co đu đẩy”. Chị ức quá rồi, chị bán sống, bán chết, không sợ gì nữa, có nhẫn nhục thì cuối cùng cũng sẽ chết thôi. Người phụ nữ khốn khổ ấy không còn yếu đuối, sợ hãi như ngày xưa, mà thay vào đó giới hạn của sự chịu đựng đã làm chị trở nên mạnh mẽ, không còn một tên tay sai nào có thể đánh lại, chúng phải bỏ đi. Chị không bảo vệ gia đình của mình thì sẽ không một ai bảo vệ cả. Tất cả những hành động đều là bộc phát từ trái tim của chị chứ chưa được giác ngộ bởi cách mạng.

Đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” là đoạn thể hiện được sự đấu tranh quyết liệt hết sức ngoan cường của người phụ nữ trong xã hội xưa. Chị là hình tượng đẹp cho những phẩm chất đáng quý hiền dịu, thiết tha, tình yêu thương chồng, gia đình và đặc biệt là đức tính vùng lên đấu tranh mãnh liệt.

Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, chị Dậu hiện lên là người như thế nào

Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 9

Trào lưu hiện thực phê phán giai đoạn 1930-1945 đã có những đóng góp đáng kể cho nền văn học nước nhà. Chúng ta khó có thể quên các tên tuổi lớn như Nguyên Hồng, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao… và đặc biệt là Ngô Tất Tố – tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Tắt đèn. Lần đầu tiên, ông đã đưa vào văn học hình ảnh một người phụ nữ nông dân Việt Nam với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp. Đoạn văn Tức nước vỡ bờ thể hiện chân thực và sinh động vẻ đẹp của nhân vật chị Dậu, một phụ nữ yêu chồng, thương con, giàu đức hi sinh và có tinh thần phản kháng mãnh liệt.

Mở đầu đoạn trích là cảnh chị Dậu chăm sóc người chồng ốm yếu vừa bị bọn cường hào đánh đập thừa chết thiếu sống chỉ vì chưa có tiền nộp sưu. Chị Dậu đã cố sức xoay xỏa để cứu chồng ra khỏi cảnh bị cùm trói và hành hạ dã man. Chị tất tả chạy ngược chạy xuôi, vay được nắm gạo nấu nồi cháo loãng. Cảm động thay là cảnh chị Dậu múc cháo ra mấy cái bát cũ kĩ, sứt mẻ và quạt lia quạt lịa cho cháo mau nguội rồi ân cần mời mọc: Thầy em cố dậy húp tí cháo cho đỡ xót ruột. Trong ánh mắt người vợ nghèo khổ ấy toát lên một tình thương yêu chồng tha thiết.

Trong cơn quẫn bách của mùa sưu thuế, chị Dậu đã trở thành trụ cột của cái gia đình khốn khổ. Chồng bị bắt, bị gông cùm, đánh đập, một tay chị chèo chống, chạy vạy, phải bán tất cả những gì có thể bán được, kể cả đứa con gái đầu lòng ngoan ngoãn, hiếu thảo mà chị thương đứt ruột để lấy tiền nộp sưu, cứu chồng khỏi vòng tù tội. Chị đã phải đổ bao mồ hôi nước mắt để anh Dậu được trả tự do trong tình trạng tưởng như chỉ còn là một cái xác không hồn. Chính tình yêu thương, lo lắng cho chồng đã dẫn chị đến hành động chống trả quyết liệt lũ tay sai tàn ác khi chúng nhẫn tâm bắt trói anh Dậu một lần nữa.

Hành động của chị Dậu không phải diễn ra một cách bất ngờ mà cái mầm mống phản kháng đã ẩn chứa từ lâu dưới vẻ ngoài cam chịu, nhẫn nhục. Sự chịu đựng kéo dài và sự áp bức tột độ đã khiến nó bùng lên dữ dội.

Lúc bọn đầu trâu mặt ngựa ập vào định lôi anh Dậu đi nhưng chưa hành hung mà chỉ chửi bới, mỉa mai thì chị Dậu tuy giận nhưng vẫn nhẫn nhục van xin tên cai lệ độc ác: Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc, ông tha cho! Cách xưng hô của chị là cách xưng hô của kẻ dưới với người trên, biểu hiện sự nhún mình. Lúc bọn chúng sầm sập chạy đến chỗ anh Dậu, định trói anh một lần nữa, chị Dậu đã xám mặt nhưng vẫn cố chịu đựng, níu tay tên cai lệ, năn nỉ: Cháu xin ông. Những lời nói và hành động ấy của chị chỉ nhằm mục đích bảo vệ chồng.

Đến khi giới hạn của sự chịu đựng bị phá vỡ thì tính cách, phẩm chất của chị Dậu mới bộc lộ đầy đủ. Tên cai lệ không thèm nghe chị. Hắn đấm vào ngực chị và cứ sấn đến trói anh Dậu. Chị Dậu đã chống cự lại. Sự bùng nổ tính cách của chị Dậu là kết quả tất yếu của cả một quá trình chịu đựng lâu dài trước áp lực của sự tàn ác, bất công. Nó đúng với quy luật: Có áp bức, có đấu tranh. Người đọc xót thương một chị Dậu phải hạ mình van xin bao nhiêu thì càng đồng tình, nể phục một chị Dậu đáo để, quyết liệt bấy nhiêu. Từ vị thế của kẻ dưới: Cháu van ông…, chị Dậu thoắt nâng mình lên ngang hàng với kẻ xưa nay vẫn đè đầu cười cổ mình: Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ. Câu nói cứng rắn mà vẫn có đủ tình, đủ lí. Nhưng cái ác thường không biết chùn tay. Tên cai lệ cứ sấn tới đánh chị và nhảy vào định lôi anh Dậu. Tức thì, sau lời cảnh cáo đanh thép của kẻ trên đối với kẻ dưới: Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem! là hành động phản kháng dữ dội: Rồi chị túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa. Sức lẻo khẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng queo trên mặt đất… Còn tên người nhà lí trưởng kết cục cũng bị chị Dậu túm tóc, lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm.

Tình yêu chồng, thương con cộng với tinh thần phản kháng âm ỉ bấy lâu đã thổi bùng lên ngọn lửa căm thù trong lòng chị Dậu – người đàn bà hiền lương, chất phác. Nỗi sợ cố hữu của kẻ bị áp bức phút chốc tiêu tan, chỉ còn lại nhân cách cứng cỏi của một con người chân chính: Thà ngồi tù. Để cho chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được.

Tuy vậy, hành động phản kháng của chị Dậu hoàn toàn mang tính manh động, tự phát. Đó mới chỉ là cái thế tức nước vỡ bờ của một cá nhân mà chưa phải là cái thế của một giai cấp, một dân tộc vùng lên phá tan xiềng xích áp bức bất công. Có áp bức, có đấu tranh, áp bức càng nhiều thì đấu tranh càng quyết liệt và hành động của chị Dậu đã chứng minh cho chân lí ấy.

Đoạn trích Tức nước vỡ bờ là một trong những đoạn hay của tác phẩm Tắt đèn. Nhà văn Ngô Tất Tố đã dành cho nhân vật chính là chị Dậu tình cảm yêu thương, thông cảm và trân trọng. Những tình tiết sinh động và đầy kịch tính trong đoạn trích đã góp phần hoàn thiện tính cách người phụ nữ nông dân đẹp người, đẹp nết.

Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 10

Chị Dậu là một người yêu thương chồng con tha thiết, đảm đang, hiền dịu và tháo vát nhưng có sức sống mạnh mẽ, có tinh thần phản kháng tiềm tàng. Sau khi a Dậu bị trói và cùm kẹp ở ngoài đình làng, bị bọn người nhà Hào Lí khiêng về. Chị đã nấu cháo, quạt cho nguội cháo rồi đi rón rén, ngồi xem chồng ăn có ngon miệng không.

Qua đó, thể hiện chị Dậu là người phụ nữ đảm đang, dịu dàng và tận tụy hết lòng yêu thương chăm sóc chồng. Anh Dậu vừa được cứu, chưa tỉnh lại, bưng bát cháo được đưa lên miệng chưa kịp húp thì bọn cai lệ và người nhà lý trưởng từ ngoài sầm sập xông vào. Lúc đầu chị đã hết sức lễ phép, nhã nhặn vì chị biết chúng là “người nhà nước” còn chồng chị là kẻ cung đinh có tội. Chị “run run” xin khất rồi vẫn tha thiết van nài.

Đến lúc cai lệ sầm sập đến chỗ anh Dậu định trói, chị xám mặt chạy đến đỡ tay hắn và năn nỉ “cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc ông tha cho”, nhưng đến khi chính mình bị đánh, chị Dậu tức quá không thể chịu được, liều mạng cự lại bằng lí xưng hô ngang hàng, chị đứng lên và nói: “chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. Cai lệ tát vào mặt chị rồi hắn cứ nhảy vào chói anh Dậu, chị nghiền hai hàm răng: “mày trói ngay chồng bà đi, mà cho mày xem”. chị đã đứng lên với niềm căm phẫn ngùn ngụt tư thế đứng trên đầu kẻ thù đè bẹp đối phương đấu lực với chúng, bằng tất cả sức mạnh của lòng căm thù tức giận ấy, chị Dậu đã túm lấy cổ tên cai lệ ấn dúi ra cửa, lần lượt, người đàn bà lực điền này đã quật ngã tên cai lệ và người nhà lý trưởng.

Trước những hành động hung bạo, độc ác, đểu cáng của bọn hào lý tham lam hống hách chị Dậu đã vùng dậy đứng lên đấu tranh để bảo vệ mạng sống cho chồng. Chị Dậu mang vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam, tiêu biểu cho tầng lớp phụ nữ nông dân giàu sức sống dưới ách áp bức của chế độ nửa thực dân nửa phong kiến khi chưa bắt gặp ánh sáng Đảng.

Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 11

Những người nông dân gặp nhiều đau khổ, bất hạnh nhưng vẫn vươn lên trong cuộc sống, giữ trọn những phẩm chất tốt đẹp, là hình ảnh ta dễ dàng nhận thấy trong những tác phẩm văn học giai đoạn trước cách mạng tháng Tám. Và khi đọc những tác phẩm ấy, người đọc chắc chắn không thể nào quên hình ảnh người phụ nữ nghèo khổ, sống trong cảnh khốn cùng nhưng vẫn hết lòng yêu thương chồng con và có một sức mạnh tiềm tàng mạnh mẽ. Người phụ nữ đó chính là chị Dậu trong Tắt đèn, hay rõ nét hơn ở tính cách của chị là trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ.

Nhân vật chị Dậu có hoàn cảnh rất đáng thương. Nhà nghèo, lại nợ tiền sưu thuế, chị phải bán gánh khoai, ổ chó mới sinh và cả đứa con gái mới lên bảy tuổi cho vợ chồng Nghị Quế để có tiền nộp sưu thuế cho chồng. Vậy mà vẫn không xong, anh Dậu chồng chị vẫn bị bắt trói, đánh đập ở ngoài sân đình, vì còn thiếu suất sưu của chú em chồng đã mất từ năm ngoái.

Đã chết cũng không được trốn sưu nhà nước nên vợ chồng chị Dậu vẫn phải nộp suất sưu ấy. Anh Dậu đã sẵn bệnh tật ốm đau, lại thêm bị trói cả ngày đêm ở sân đình nên người lả đi tưởng chết. Bọn tay chân cường hào thấy vậy, liền vác anh trở về nhà trả cho chị Dậu.

Chị Dậu là một người vợ, người mẹ giàu tình yêu thương. Nhìn chồng như vậy, chị Dậu đau đớn không kìm được nước mắt. Chị tìm mọi cách để cứu chồng qua cơn nguy kịch. Chị thiết tha xin chồng húp tạm hớp cháo cho đỡ xót ruột. Bát cháo như chứa đựng biết bao tình yêu thương của chị dành cho chồng.

Chị bế cái Tỉu ngồi cạnh chồng, nhìn xem chồng có ăn ngon miệng không, khiến cho ta thấy rõ được tình yêu, sự chăm sóc hết mực của chị khi chồng đang đau ốm, đứng trước cơn nguy kịch đến tính mạng. Không chỉ thế, chị còn là một người cứng cỏi, dũng cảm, dám đứng lên chống lại bọn cường hào để bảo vệ cho người chồng mà chị thương yêu.

Bọn cai lệ, tay chân của lý trưởng sầm sập xông đến, tay roi tay thước thét trói đánh anh Dậu. Anh Dậu chưa kịp húp nổi miếng cháo, đã bị tiếng thét của chúng làm cho sợ ngã lăn đùng ra phản. Chúng chửi bới anh Dậu không ra gì, rồi trợn ngược mắt quát chị Dậu. Chị Dậu van xin hắn, xin khất nợ, xin chúng xem xét lại…

Nhưng không, hắn lại càng lồng lộn lên, chạy đến chỗ anh Dậu để bắt trói ra đình. Thấy chị Dậu van xin, hắn bịch luôn vào ngực chị, rồi tát đánh bốp vào mặt chị. Hắn lao đến cạnh anh Dậu, định bắt trói anh. Đến lúc này chị không thể chịu được nữa, điều gì cũng có giới hạn. Để bảo vệ cho chồng, chị đã dũng cảm chống cự lại. Chị nghiến hai hàm răng thách thức chúng:

– Mày trói chồng bà đi, bà cho mày xem!

Chị Dậu đã thay đổi thái độ một cách không thể ngờ. Đang hạ mình van xin, sợ sệt chúng, giờ chị đã vỗ ngực tự tin đe dọa lại chúng. Thậm chí, chị còn thẳng tay trừng trị hai tên cai lệ định xông tới trói chồng chị. Những kẻ hút nhiều sái cũ làm sao có đủ sức mạnh để chống lại người đàn bà lực điền quanh năm lam lũ. Chúng bị chị túm cổ, ấn dúi ra cửa, một tên bị chị túm tóc lẳng cho một cái ngã nhào ra ngoài thềm.

Chị chẳng còn gì để mà sợ nữa, thà ngồi tù, còn hơn để chúng làm tình làm tội. Chị đã cố gắng nhịn nhục, nhưng vì chúng càng được đà lấn tới, áp bức, bóc lột dã man, đe dọa tính mạng của chồng chị, nên chị đã dũng cảm vùng lên để chống trả lại chúng. Đúng như câu “Con giun xéo mãi cũng quằn”, trong hoàn cảnh áp bức, con người sẽ phải vùng lên để đấu tranh.

Thật vậy, chị Dậu trong “Tức nước vỡ bờ" được Nguyễn Tuân miêu tả rất sống động và chân thực. Người phụ nữ giàu tình yêu thương dành cho gia đình, chồng con, giàu đức hy sinh. Và trong bất cứ hoàn cảnh nào, chị cũng sẵn sàng đứng lên đấu tranh vì gia đình, vì người thân yêu của chị. Chị là một điển hình của tấm gương những người phụ nữ Việt Nam trong xã hội xưa.

Phân tích nhân vật chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ – mẫu 12

Tức nước vỡ bờ thuộc một phần nhỏ trong tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố. Tác phẩm cho thấy bộ mặt tàn ác của lũ thực dân nửa phong kiến ra sức đàn áp, bóc lột nhân dân. Nhưng trên hết vẫn là sự ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất của người nông dân mà đại diện chính là chị Dậu.

Hoàn cảnh gia đình chị Dậu hết sức nghèo khó, khốn khổ, gia đình chị là hạng cùng đinh trong làng. Những ngày đóng sưu là những ngày khốn đốn, cực khổ nhất của gia đình chị. Chị phải bán cả chó, cả con mà vẫn không đủ tiền sưu cho chồng và người em đã mất.

Đằng sau nỗi thống khổ ấy lại hiện lên một người phụ nữ vô cùng đẹp đẽ về nhân cách. Trước hết chị là người yêu chồng, thương con tha thiết. Anh Dậu vừa được thả về, chị Dậu được bà cụ hàng xóm cho ít gạo, chị nấu cháo cho cả nhà ăn. Cháo nguội chị mang đến một bát lớn đến chỗ chồng, dùng những lời lẽ thật dịu dàng động viên anh Dậu: “Thầy em hãy cố ngồi dậy húp ít cháo cho đỡ xót ruột” rồi cố nán lại xem chồng ăn có ngon miệng hay không.

Chị quả thật là một người phụ nữ đảm đang, chu đáo và hết sức quan tâm đến chồng.Anh Dậu vừa thoát chết sau trận đòn ngoài đình, chưa kịp ăn bát cháo thì bọn cai lệ đã ập tới. Vấn đề quan trọng nhất với chị lúc này là làm sao giữa được tính mạng cho chồng. Đặt chị Dậu vào tình huống nguy cấp, gay cấn như vậy một lần nữa giúp bộc lộ tình yêu thương chồng sâu nặng của chị.

Bọn cai lệ vô cùng hung hãn, chúng xông vào định bắt trói anh Dậu lôi ra ngoài đình. Trước tình thế đó, ngay lập tức chị Dậu đã van xin tên cai lệ và nhưng mọi lời van xin đều bị cự tuyệt, chị còn bị tên cai lệ đánh, cuối cùng chị đứng lên đánh lại tên cai lệ và người nhà lí trưởng, quyết tâm bảo vệ chồng đến cùng. Trước cường quyền, chị không hề tỏ ra nao núng sợ hãi, mối quan tâm duy nhất của chị là phải bảo vệ được người chồng đang đau ốm của mình.

Không chỉ là một người phụ nữ yêu thương chồng con chị còn là một người có sức phản kháng và sức sống tiềm tàng mãnh liệt. Sự phản kháng của chị được thể hiện qua các chặng hết sức logic với nhau. Lúc đầu chị tha thiết van xin, hi vọng rằng chúng thương tình mà tha cho chồng chị: “Cháu van ông, nhà cháu vừa mới tỉnh được một lúc ông tha cho”.

Tiếp đến là chị cự lại bằng lí lẽ: “Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”. Cách xưng hô của chị đã có sự chuyển biến từ “ông-con” chuyển sang “ông-tôi” cho thấy chị không còn kẻ dưới mà là kẻ ngang hàng. Đỉnh cao của tinh thần phản kháng là màn đấu lực: “Chị Dậu nghiến hai hàm răng: "Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem”. Cách xưng hô cho thấy chị Dậu đã ở trong tư thế khác, tư thế của kẻ bề trên. Nói đoạn chị liền túm lấy cổ tên cai lệ ấn dúi ra cửa, kết quả của màn đấu lực phần thắng đã thuộc về chị Dậu.

Các chặng phát triển trên cho thấy Ngô Tất Tố đã miêu tả chính xác cảnh “tức nước vỡ bờ” của người nông dân. Mặc dù hành động phản kháng của chị Dậu là bột phát nhưng cũng cho thấy sức sống tiềm tàng của người nông dân. Chị Dậu là đại diện tiêu biểu cho vẻ đẹp và truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.

Để xây dựng bức chân dung đẹp đẽ về nhân cách chị Dậu tác giả đã vận dụng linh hoạt các yếu tố nghệ thuật khác nhau. Trước hết là xây dựng tình huống truyện giàu kịch tính, căng thẳng, phát triển theo tầng bậc từ đó bộc lộ tính cách tốt đẹp của nhân vật. Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật được thể hiện chủ yếu qua ngôn ngữ và hành động của nhân vật. Ngôn ngữ nhân vật giản dị, mộc mạc, dễ hiểu, đặc biệt tác giả sử dụng lớp ngôn từ giàu tính khẩu ngữ, góp phần thể hiện tâm hồn, tính cách của đối tượng.

Bằng ngòi bút đậm chất hiện thực, Ngô Tất Tố không chỉ vạch trần bộ mặt bất nhân của giai cấp cầm quyền mà còn cho thấy vẻ đẹp của người nông dân. Nhân vật chị Dậu là đại diện tiêu biểu cho người phụ nữ nông dân Việt Nam: giàu tình yêu thương và có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ. Đằng sau trang văn còn thể hiện thái độ trân trọng, ngợi ca với những người phụ nữ Việt Nam.

Phân tích nhân vật Cai lệ và người nhà lí trưởng trong tác phẩm Tức nước vỡ bờ – mẫu 1

Trong xã hội phong kiến xưa, người dân nghèo là lớp người chịu đủ mọi áp bức bóc lột, khổ ải, mà những kẻ gây ra sự khổ đau ấy chính là những là những tên quan lại, tay sai từ lớn đến nhỏ. Trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ” trích tiểu thuyết “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, nhân vật cai lệ, một tên tay sai đại diện cho tầng lớp bóc lột đã bộc lộ hết sự hèn hạ, đáng ghét của mình.

Hình ảnh đầu tiên mà hắn xuất hiện là cùng với roi da, tay thước, dây thừng và “thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều xái cũ”. Ấn tượng của người đọc về nhân vật này đầu tiên chính là một tên nghiện xái, thô lỗ và phách lối. Anh Dậu mới từ hôm qua về còn đang ốm nặng nằm liệt dường hắn cũng trông thấy mà còn thét lớn bắt anh nộp tiền hết sưu hết sức vô nhân đạo. Khi chị Dậu run run xin cho chồng, cai lệ lại càng phách lối vô cảm khi chị chưa nói hết câu đã trợn ngược hai mắt mà quát lớn bằng từ ngữ vô cùng tục tĩu, xúc phạm:

- Mày định nói cho cha mày nghe đấy à? Sưu của nhà nước mà mở mồm xin khất!

Ta có thể thấy cai lệ không phải chỉ là một tên thô lỗ, vô nhân đạo mà còn là tên tay sai tục tĩu, vô văn hóa. Tuy cai lệ chỉ là một tên tay sai của lí trưởng nhưng cũng tính là một chức quan nhỏ, là đại diện của pháp luật, của nhà nước, vậy mà hắn xuất hiện với tất cả sự vô lương, vô văn hóa, thô lỗ,… và hắn còn là một con người tàn bạo khi hắn “bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi xấn xổ đến bắt anh Dậu”. Chị Dậu là phụ nữ, chân yếu tay mềm vậy mà hắn không nương tay đã đánh, còn tát vào mặt chị, còn xấn xổ trong tư thế bạo tàn đến để trói anh Dậu trong khi anh còn đang ốm liệt giường. Chân dung cai lệ hiện lên thật tàn bạo, xấu xa, độc ác y như một tên bạo chúa đáng ghê tởm. Nhưng nếu ở đoạn này, cai lệ làm cho ta thấy ghét thì ở đoạn sau, hắn còn làm cho ta thấy khinh bỉ vì sự đê hèn của mình.

Khi hắn không niệm tình anh Dậu bị ốm vẫn nhảy vào cạnh anh để trói mang đi thì chị Dậu đã không thể nhịn được, nhìn chồng bị hành hạ, chị tức đến sôi máu, quyết không để cho cai lệ đem chồng chị đi. Chị nghiến hai hàm răng rồi “túm lấy cổ hắn ấn dúi ra cửa”. Những tưởng cai lệ- một tên đàn ông có chức có quyền sao có thể để một người phụ nữ chân yếu tay mềm dễ dàng khuất phục nhưng quả là “sức lẻo khoẻo của anh chàng nghiện chạy không kịp với sức xô đẩy của người đàn bà lực điền, hắn ngã chỏng quèo trên mặt đất, miệng vẫn nham nhảm thét trói vợ chồng kẻ thiếu sưu”.

Những từ ngữ như “lẻo khoẻo”, “ngã chỏng quèo” đã phần nào giúp ta hình dung về chân dung méo mó đê tiện của cai lệ trong trận đấu với chị Dậu. Cai lệ rõ ràng là một tên yếu đuối, chỉ dám phách lối nhờ quyền hạn để đàn áp người dân còn bên trong thực chất chẳng có gì. Đây cũng chính là chân dung méo mó của gần như tất cả những quan sai bóc lột nói chung. Tất cả chúng đều tàn bạo, vô lương, phác lối, vô văn hóa nhưng lại vô cùng hèn kém và đáng khinh khi.

Bạo tàn, vô văn hóa, vô nhân tính là tất cả những từ ngữ có thể dùng để miêu tả tên cai lệ trong đoạn trích “Tức nước vỡ bờ”. Đọc đoạn trích người đọc không chỉ thấy tên này đáng ghét mà còn rất đáng khinh bỉ đồng thời hả hê biết bao khi hắn chịu sự chừng phạt từ phía chị Dậu.

Phân tích nhân vật Cai lệ và người nhà lí trưởng trong tác phẩm Tức nước vỡ bờ – mẫu 2

Bằng ngòi bút hiện thực sinh động, đoạn trích Tức nước vỡ bờ của Ngô Tất Tố đã vạch trần bộ mặt ác nhân của thực dân phong kiến đương thời, dẫm xéo lên tội ác, sự bất công của xã hội kim tiền ghê tởm. Đã đẩy người nông dân vào tình cảnh đáng thương đường cùng tiêu biểu đó là chị Dậu. Và cai lệ đã trở thành biểu tượng của tầng lớp cầm quyền thời bấy giờ.

Ngay từ lúc bắt đầu tác phẩm dù chưa nhắc đến bóng dáng cai lệ ta vẫn có thể cảm nhận được sự độc ác của hắn đến nhường nào khi thấy tình cảnh anh Dậu kiệt quệ sức lực lẫn tinh thần. Sau khi chị Dậu nấu cháo xong, chưa kịp chạm lưỡi thì cai lệ sầm sập đến: roi song, tay thước,...

Một thái độ hung hãn, hành động ngông cuồng không hề giống những người thu thuế bình thường, không mang sách bút ghi chép lại là những vũ khí thường xuyên chà đạp lên thân thể con người, nhuốm máu, mồ hôi người nông dân nghèo khổ. Rồi quát lớn, thúc tiền sưu trong khi gia cảnh nhà chị Dậu khốn cùng đến nỗi phải bán đứa con đầu lòng và ổ chó chưa mở mắt.

Bản chất hống hách, hách dịch, kiêu ngạo được Ngô Tất Tố bóc trần. Chị Dậu dù rất lễ phép, xưng cháu ông nhưng cai lệ "trợn ngược hai mắt" vô lương tâm mà chửi mắng, sỉ vả chị. Sự thiếu học, vô đạo đức được thể hiện rõ ràng trên con người này.

Mặc cho sự đau ốm của anh Dậu, cai lệ bắt tên người nhà lí trưởng trói về. Đối với một tên hầu lí vẫn có chút sợ hãi không dám làm nhưng tên cai "giật phắt cái dây thừng", "chạy sầm sập" trói anh Dậu. Sự vô nhân đạo, lòng lang dạ thú được bóc mẽ từ đây.

Cai lệ là tên vô cùng hèn hạ. Ngay cả phụ nữ cũng dám ra tay "bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch", "tát vào mặt". Dù có là tay sai cho bọn lí, dù là trong xã hội bất công này tên cai ấy cũng chỉ là một con người bình thường, xuất thân cũng từ người nông dân nghèo khổ. Bởi vì đâu mà hắn mất hết tính người, đạo đức cơ bản đối nhân xử thế rồi trở nên tay khát máu tàn bạo không khác gì bọn súc sinh cầm thú.

Cai lệ là hình nhân tiêu biểu cho tầng lớp thống trị đen tối xấu xa, tham lam vắt kiệt từng hơi thở nguồn sống cỏn con của những con người vô tội bất hạnh. Ngô Tất Tố đã xây dựng khéo léo thành công nhân vật phản diện cai lệ để nhằm nổi bật nội dung tư tưởng của của đoạn trích.

Phân tích nhân vật Cai lệ và người nhà lí trưởng trong tác phẩm Tức nước vỡ bờ – mẫu 3

Tác phẩm "Tắt đèn" với đoạn trích "Tức nước vỡ bờ" thể hiện đỉnh cao của sự mâu thuẫn giai cấp, thể hiện rõ cách nhìn của những con người ở giai cấp khác nhau. Trước hết là cách nhìn của tác phẩm vào bọn tay sai, của thế độ phong kiến nửa thực dân.

Nhân vật cai lệ là người đại diện cho tầng lớp người tay sai, tàn ác bất nhân, luôn chà đạp lên số phận của người nông dân, coi mạng người như cỏ rác. Chúng ra sức bóc lột người dân xô đẩy người nông dân tới cảnh đường cùng, không có lối thoát tới mức phải vùng lên đấu tranh "Tức nước vỡ bờ".

Cai lệ thể hiện bản chất tàn ác, tàn nhẫn, bất nhân ấy thể hiện ở việc dồn người dân vào con đường khốn khổ, tới mức không lối thoát, bước tới đường cùng. Trích đoạn "Tức nước vỡ bờ" thể hiện kịch tính của đoạn trích vô cùng sâu sắc. Mở đầu đoạn trích chính là những tiếng trống thu thuế, bối cảnh chính là vào mùa thu thuế, khốn đốn của vợ chồng gia đình chị Dậu, gia đình nghèo khó, nhưng lại nợ xuất thuế thân của người hạng cùng đinh, nghèo khổ nhất làng, đông con, nghèo sơ nghèo xác.

Trong cảnh thu thuế chị Dậu vì muốn có tiền đóng thuế cho chồng, bán chó, rồi bán con, rồi bán hết cả đồ đạc trong gia đình chỉ đủ một xuất thuế của chồng. Những lời nói cay đắng của Nghị Quế khiến cho người đọc cảm thấy nhói lòng. Anh Dậu sau những ngày bị trói ở đình làng vì thiếu tiền đóng thuế, người ốm chỉ còn da bọc xương, nhưng sau khi chị Dậu đóng được xuất sưu thuế thì anh Dậu được thả về.

Chị Dậu vét hết gạo trong nhà nấu cho chồng một bát cháo loãng. Nhưng khi anh Dậu chỉ kịp cầm bát cháo lên thì tên lính cai lệ bước vào cùng với những đòn roi, định trói anh Dậu bắt đi, bởi nhà chị Dậu vẫn thiếu một xuất thuế của em trai anh Dậu đã chết hồi tháng giêng, nhưng vẫn phải đóng thuế.

Sự tàn nhẫn của những tên cai trị còn thể hiện ở việc bọn chúng không chỉ ăn tiền bóc xương tủy của người sống mà còn ăn tiền của người chết. Cho nên, khi gia đình anh Dậu còn thiếu một suất sưu thuế của ông em chú, em trai anh Dậu đã mất rồi nhưng vẫn không chịu buông tha cho gia đình anh Dậu.

Tên cai lệ có lính trang dưới quyền trong tay dù chưa làm quan nhưng hắn vẫn thể hiện mình người có chức tước bóc lột người dân. Đó chức tước của hắn vô cùng nhỏ bé nhưng khi là tay sai quan phủ huyện ngày xưa, nhưng vì dựa bóng quan nên chúng cũng tỏ ra hống hách, quyền uy.

Mặc dù chị Dậu đã nhún nhường nhã nhã thể hiện sự nhịn nhục của mình. Nhà cháu xin ông, ông tha cho. Thể hiện sự nhún nhường của một người tầng lớp dưới. Nhưng tên cai lệ vẫn không tha cho chị, chúng vẫn tiến tới lăm lăm dây định trói tiến tới chỗ anh Dậu định trói anh đưa đi.

Cai lệ tuy là người của Lý Trưởng tuy hắn cho chút địa vị, sự tàn ác của hắn không ai sánh kịp, thể hiện sự bóc lột tàn nhẫn của người tầng lớp bóc lột. Tác giả Ngô Tất Tố đã khắc họa chân dung của cai lệ vô cùng sắc sảo. Tên cai lệ hung hăng, sai người nhà lý trưởng để tìm cách trói anh Dậu, mặc dù anh Dậu đang ốm, nhưng hắn vẫn thể hiện sự tàn nhẫn của mình trước số phận của một người nghèo khổ đáng thương. Hắn đùng dùng giật phắt cái thừng chạy sầm sập vào chỗ anh Dậu rồi hắn đánh cho chị Dậu mấy bịch thể hiện sự tàn nhẫn của mình.

Rồi hắn tát vào mặt của chị mấy cái đánh "đốp" tố cáo chân dung của một tên cai lệ và nhà lý trong được khắc họa chi tiết, sâu sắc thể hiện qua điệu bộ hành vi, của tên cai lệ. Thông qua sự sắc, tinh tế của ngòi bút của Ngô Tất Tố chúng ta có thể thấy được, sự tinh tế của tác giả trước hoàn cảnh khó khăn của người nông dân. Những tên cai lệ làm gì có lòng thương người, có lòng trắc ẩn, đó chính là bản chất bất nhân của bọn tay sai của giặc.

Chân dung của tên cai lệ chính là đại diện của chế độ luôn tìm cách bóc lột người dân lao động khốn khổ, mặt người dạ thú tìm cách bóc lột người dân tới tận xương tủy, khiến người dân chúng ta vô cùng khốn khổ bị xô đẩy không lối thoát. Nhưng trước cảnh khốn khổ của người dân của quê hương những tên tay sai cũng không thương tiếc, chà đạp tới lên số phận của người dân cùng chủng tộc của mình.

Tên cai lệ hung dữ và độc ác thô bạo như vậy, tác giả Ngô Tất Tố đã tạo tình huống kịch tính căng thẳng trước cuộc đấu đầu trước tên cai lệ và chị Dậu trong đoạn trích "Tức nước vỡ bờ". Thông qua đoạn trích tác giả đã khắc họa chân dung của tên cai lệ bằng ngòi bút sắc sảo, tinh tế sâu sắc thể hiện bức tranh mâu thuẫn xã hội phong kiến.

Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, chị Dậu hiện lên là người như thế nào

Phân tích nhân vật Cai lệ và người nhà lí trưởng trong tác phẩm Tức nước vỡ bờ – mẫu 4

Tắt đèn với chương Tức nước vỡ bờ là đỉnh cao của mối xung đột ấy, thể hiện rõ cách nhìn con người trên bình diện giai cấp. Trước hết là cách nhìn của tác phẩm đối với bọn tay sai của chế độ thực dân phong kiến đương thời. Đó là bọn người tàn ác, bất nhân, coi mạng người dân như cỏ rác.

Thực vậy, tính chất tàn ác bất nhân ấy được thể hiện trước hết ở việc dồn người dân vốn đã lâm vào hoàn cảnh khốn khố đến đường cùng. Tức nước vỡ bờ là chương truyện có kịch tính rất cao. Mười bảy chương trước đã thuật lại không biết bao nhiêu là cảnh cùng cực, khốn đốn của vợ chồng chị Dậu trong những ngày sưu thuế. Nhà nghèo lên đến bậc nhì, bậc nhất trong hạng cùng đinh, đến vụ thuế, anh Dậu lại bị ốm liệt giường. Cho nên, vì suất sưu của anh Dậu mà chị Dậu phải bán chó, bán con, phải chịu đựng những lời rủa sả cay độc của vợ chồng Nghị Quế và cũng từng phải nếm cả những đòn roi của bọn lính và người nhà lí trưởng.

Cũng vì suất sưu ấy mà anh Dậu bị đánh, bị trói giữa lúc ốm đau. Sự bất nhân, tàn nhẫn ấy còn thể hiện ở chỗ chẳng những đánh thuế vào người sống, mà còn dựng cả người chết lên để đánh thuế. Cho nên, nộp xong suất sưu của anh Dậu. Chị Dậu những tưởng đã trả được món nợ nhà nước, nào ngờ, bọn hào lí cho biết số tiền vừa nộp ấy chỉ mới tính vào suất của chú Hợi đã chết từ năm ngoái, tiền thuế đinh của anh Dậu vẫn còn phải..nợ! Thế là chị Dậu bị đẩy tới chỗ cùng đường.

Anh Dậu tiếp tục bị đánh, bị trói cho đến ngất xỉu. Nửa đêm, người ta vác anh Dậu rũ rượi như một cái xác trả về cho chị Dậu. Nhờ có hàng xóm đổ đến giúp, chị Dậu đã cứu sống được chồng.Nhưng trời vừa sáng, bộ mặt cai lệ và người nhà lí trưởng lại hiện ra .Sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước và dây thừng. Tính mạng của anh Dậu bị đe dọa nghiêm trọng. Thế là, “Tức nước vỡ bờ", chị Dậu đã vùng lên chống trả một cách quyết liệt. Đặt nhân vật vào tình huống đầy kịch tính ấy, tác giả đã phơi bày thành công bộ mặt tàn ác, bất nhân của lũ tôi tớ, tay sai dưới chế độ thực dân phong kiến thời đó. Cai lệ có lính tráng trong tay để sai bảo.

Nhưng cai lệ chưa phải là quan. Đó là một chức hạng bét của chế độ đương thời, một loại cánh tay nối dài của quan phủ quan huyện ngày xưa. Người nhà lí trưởng tất nhiên không có chức quyền gì. Ý chính là đầy tớ của bọn hào lí trong làng. Thậm chí, y có thể là một người nghèo. Có lần chị Dậu năn nỉ hắn: “Bạn nghèo với nhau, bác nói khèo với ông lí cho tôi”, nhưng hắn đã hầm hầm vác gậy bỏ đi và thô lỗ: “Tôi không dám bạn với nhà chị”. Cai lệ và người nhà lí trưởng tuy địa vị có khác nhau nhưng sự tàn ác bất nhân thì không ai kém ai.

Chân dung của chúng đã được nhà văn khắc họa khá sắc sảo. Giữa túp lều tồi tàn như nơi chứa phân tro có một người đàn ông vừa thoát chết, một người đàn bà nuôi con mọn với ba đứa trẻ. Thình lình cai lệ và người nhà lí trưởng xuất hiện, đằng đằng sát khí, sầm sập tiến vào. Tay chúng cầm roi song, tay thước, dây thừng. Đó là những dụng cụ đánh người. Với thái độ ra oai, cai lệ gõ đầu roi xuống đất rất hách dịch, gọi anh Dậu là thằng, chị Dậu là mày, xưng ông, xưng cha mày. Cai lệ mở mồm la thét, quát tháo: “Mày định nói cho cha mày nghe đấy à?”

Bên cạnh giọng thét, giọng quát còn có giọng hầm hè và trợn hai mắt. Thật là bộ mặt của hung thần! Tên người nhà lí trưởng thì mỉa mai tên cai lệ để tên này càng hung tợn hơn: “Chị khất tiền sưu đến chiều mai phải không? Đấy! Chị hãy nói với ông cai để ông ấy ra đình kêu với quan cho! Chứ ông lí tôi thì không có quyền dám cho chị khất một giờ nào nữa!” .Anh Dậu đang ốm đau lại bị trói đến ngất xỉu đi, vậy mà họ chẳng hề động tâm. Vừa thấy anh run rẩy cất bát cháo, cai lệ rủa sả: “Ông tưởng mày chét đêm qua, còn sống đấy à?" Anh Dậu sợ lăn ra phản, người nhà lí trưởng còn mỉa mai cười: “Anh ta lại sắp phải gió như đêm hôm qua đấy”.

Cả hai tên bất nhân không để ý đến lời van xin tha thiết của người đàn bà khốn khổ ấy. Hắn không để chị nói hết câu mà chỉ giục: "Nộp tiền sưu! Mau. Nếu không có tiền nộp sưu cho ông bây giờ, thi ông sẽ dỡ cả nhà mày đi". Hắn càng hung hăng, sai người nhà lí trưởng trói anh Dậu. Người nhà lí trưởng còn không dám hành hạ một người đang ốm nặng, sợ hoặc xảy ra sự gì. Ấy thế mà hắn dám đùng đùng giật phắt cái thừng, chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch, tát vào mặt chị một cái đánh đốp chân dung của cai lệ và người nhà lí trưởng được khắc họa bằng những chi tiết điệu bộ, giọng nói và hành vi. Không hề có chi tiết nào về suy nghĩ của chúng.

Trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ, chị Dậu hiện lên là người như thế nào

Đó là sự sắc sảo của ngòi bút Ngô Tất Tố. Chúng chỉ biết đánh trói, hành hạ người như một cái máy vô tri. Chúng làm gì có lòng trắc ẩn của con người. Đó là bản chất bất nhân của bọn đầy tớ tay sai.Tóm lại, chân dung của bọn tay sai chế độ thực dán phong kiến thực chất là bọn mặt người dạ thú. Tiếng của chúng chỉ là âm thanh hằm hè, quát, thét. Đầu óc chúng không biết nghĩ suy, trái tim chúng không hề rung động! Hung dữ và thô bạo như vậy, chúng tạo được tình huống kịch tính căng thẳng cho mạch truyện, đây nhân vật chị Dậu đến tình trạng "tức nước vỡ bờ".

Thật là những chân dung được khắc họa bằng cái nhìn tinh tế và ngòi bút sắc sảo bậc thầy của nhà văn Ngô Tất Tố.

Phân tích nhân vật Cai lệ và người nhà lí trưởng trong tác phẩm Tức nước vỡ bờ – mẫu 5


Ngô Tất Tố là một trong những nhà văn hiện thực thành công nhất trong nền văn học hiện đại trước cách mạng cùng với một số tên tuổi lớn khác như Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, Kim Lân,... Ông là một nhà nho nặng tình với những giá trị truyền thống của dân tộc, trong đó tiêu biểu nhất là nền văn hóa làng xã, đồng thời ánh mắt ông cũng đủ tinh tường để nhận thức rằng chế độ phong kiến bảo thủ lạc hậu đến thời điểm đó đã không còn phù hợp và trở thành một bước cản, một sự áp đặt nặng nề lên đời sống của nhân dân, khiến họ rơi vào cảnh cùng khổ. Nếu như Lều chõng là tác phẩm phản ánh sự rườm rà, cứng nhắc và sáo rỗng của chế độ khoa cử cũ, thứ đã bó buộc tài năng và sự sáng tạo của con người, thì đến tác phẩm Tắt đèn, hiện thực trật tự xã hội tàn ác và bất nhân lại được phơi bày thông qua luật sưu thuế hà khắc, chèn ép con người đến cùng đường mạt lộ, khiến họ phải đối diện với biết bao cái khốn nạn ập tới. Trong trích đoạn Tức nước vỡ bờ hình ảnh nhân vật cai lệ chính là đại diện điển hình nhất cho cái chế độ phong kiến tay sai đã cũ nát, nhưng hà khắc, độc đoán và tàn nhẫn.

Cai lệ là một chức quan thấp nhất trong xã hội hội phong kiến lúc bấy giờ, là người đứng đầu một tốp lính nhỏ chuyên giúp việc cho quan nha. Chính ra bản chất nhân vật này là một kẻ tay sai chính hiệu, không hơn không kém, ăn bổng lộc nhà nước, chỉ đâu đánh đó, là thứ công cụ bằng sắt có tiếng nói đắc lực nhất trong các vụ truy thu sưu thuế. Khi có một tên cùng đinh nào đó, không đủ tiền nộp sưu thì các quan sẽ bắt chúng phải nhè ra bằng cách cho cai lệ đến bắt và trói giải về đình. Dĩ nhiên cai lệ không chỉ bắt trói mà hắn còn kiêm luôn cả nhiệm vụ thượng cẳng chân hạ cẳng tay với những kẻ không lề lối, cứng đầu, cũng như "tra khảo" tên nông dân khốn khổ, để hòng bắt vợ con chúng kiếm ra được tiền mà nộp sưu. Thế nên dù rằng cai lệ mang danh là người nhà nước, làm việc theo phép nước, nhưng chưa bao giờ người ta sợ hắn với tư cách là một kẻ xử sự theo pháp luật, mà căn bản người ta sợ bị hắn đánh, hắn trói cho đến chết. Rốt cục người ta là sợ sự tàn ác của chế độ, chứ không phải kiêng dè pháp luật nghiêm minh, đó là một nghịch lý trong xã hội phong kiến tay sai lúc bấy giờ. Quản lý xã hội bằng những công cụ bằng sắt biết nói, bằng những tên tay sai độc ác chỉ lăm lăm một ý thức "đánh và trói", khiến người ta sợ hãi chứ không phải nể trọng.

Cai lệ trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ là một nhân vật mạt hạng nhất trong đám quan lại, hắn không được tác giả đặt cho một cái tên riêng nào, nhưng lại là một nhân vật quan trọng, có nhiều điểm nhấn và trở đi trở lại nhiều lần trong cả tác phẩm Tắt đèn. Ví như các quan trên đại diện cho sự đểu giả, mục nát, tham lam và dâm dục thì cai lệ là biểu trưng cho sự độc ác và tàn nhẫn của chế độ. Trong tất cả các lần xuất hiện cai lệ đều mang dáng vẻ hung tàn, miệng quát tháo, tư thế hầm hổ, ghê gớm, dễ dàng khiến người ta liên tưởng đến tai vạ. Ở lần thứ hai xuất hiện tại nhà chị Dậu, cai lệ vẫn cái đam mê bắt bớ bất tận, lúc nào cũng tỏ ra vội vã, vừa nghe tiếng chó sủa tận ngoài làng, thế mà thoắt một cái anh Dậu còn chưa kịp húp được miếng cháo nào hắn đã vào đến tận cửa nhà người ta để hăm dọa, toan bắt người. Đọc những dòng Ngô Tất Tố miêu tả cho sự xuất hiện của hắn, người ta không nghĩ đó là một vị quan, làm việc ăn lương nhà nước mà trái lại hắn lại giống những tên lưu manh, phường bắt cướp độc ác và tàn nhẫn. Trời đánh tránh miếng ăn, thế nhưng cai lệ sớm không đến muộn không đến lại đến vào đúng buổi cơm trưa, nó khiến người ta tưởng hắn chăm chỉ và miệt mài với công việc lắm, nhưng thực tế nó chỉ chứng minh sự độc ác và bất nhân của tên này. Bởi lẽ ngày hôm qua, khi đánh anh Dậu và khiến anh lên cơn sốt rét tưởng chết, hắn đã vội sợ hãi cho người tống khứ anh về trả chị Dậu. Nhưng đến hôm nay sau khi thám thính, đánh hơi được rằng anh Dậu vẫn còn sống, hắn lại vội vã chạy sang thúc sưu mà không để người ta có một phút ngơi nghỉ, chuẩn bị. Rõ ràng cai lệ là một kẻ tối dạ, chết chìm trong cái ham mê bắt bớ, sự tàn độc và cứng nhắc đã khiến hắn chỉ nghĩ đến việc đánh trói , áp giải tràn ngập trong óc, chứ không để hắn kịp suy nghĩ đến việc cho người ta thời gian chuẩn bị tiền bạc và hắn đến lấy cho khỏi mất công mệt người đánh chửi. Đó chính là cái sự ngu độn của cả bộ máy chứ không riêng gì cai lệ. Tên này xuất hiện như một ác thần với những hành động, cử chỉ điên cuồng của một dã thú, một tên tai sai chuyên nghiệp đánh, trói, nào thì "sầm sập tiến vào với những roi song, tay thước và dây thừng", đến nơi thì ra bộ thách thức, đe dọa khi "gõ đầu roi xuống đất", "thét bằng giọng khàn khàn của người hút nhiều sái cũ". Giọng điệu hách dịch, ghê gớm "Thằng kia, ông tưởng mày chết từ đêm qua, còn sống đấy à. Nộp tiền sưu mau!". Như vậy đối với sự sống chết của anh Dậu tên này không buồn để tâm, hắn chỉ quan tâm đến việc thúc sưu, mà thúc không được thì bắt người. Đó đã trở thành một nguyên tắc "sắt" trong cái việc làm cai lệ. Khi đối đáp với chị Dậu, tên này luôn tỏ ra bộ mặt hách dịch và độc ác, thấy chị van lơn, lạy lục thì hắn càng trở nên khoái chí và lấn lướt, hết chỉ vào mặt chị Dậu, rồi là "trợn ngược hai mắt lên, quát" khi nghe chị trình bày, xin khất. Thấy chị Dậu lằng nhằng, tha thiết, nhận nhục hắn lại càng được nước giọng "hầm hè", đe dọa dỡ cả nhà chị Dậu. Rõ ràng tên này làm việc chưa từng có một tia tình cảm hay sự thương hại tối thiểu mà trái lại càng yếu đuối hắn lại càng tỏ rõ bộ mặt ác thú, chèn ép tận cùng của mình. Thế nên chính bản thân hắn đã gây ra một trận "tức nước vỡ bờ" của chị Dậu. Sự quá quắt ghê gớm, khi hắn ra lệnh bắt trói anh Dậu đang còng queo ngất xỉu đi, rồi tự tay "giựt phắt cái dây thừng", "chạy sầm sập đến chỗ anh Dậu" để làm nhiệm vụ, lại càng khiến người ta ghê sợ, ngán ngẩm vì cái sự "kính nghiệp" của hắn. ví hắn là một con thú dữ có lẽ cũng chẳng sai, bởi lẽ hắn chỉ có phần "con" chứ không có phần "người', không chị bắt trói một người ốm bệnh, mà hắn còn sẵn sàng đấm vào ngực một người đàn bà yếu đuối con mọn, thậm chí tát cả vào mặt chị Dậu không nể nang. Không chỉ ở hành động tàn nhẫn, ghê tởm mà từng lời nói của hắn thốt ra đều cũng độc địa và hung hãn, cách xưng hô "ông-mày", thể hiện sự thiếu văn hóa, kém đạo đức, ra tư cách bề trên một cách đáng khinh, cũng như sự coi rẻ, căm ghét của hắn với những người nông dân tội nghiệp. Thế nhưng họ có đáng bị đối xử như những kẻ phạm tội tày đình khi chỉ chót chưa nộp đủ nốt phần sưu thuế, chứ không phải là ăn cắp ăn quỵt gì của nhà nước.

Trái ngược với cái hành động phách lối, hung tàn ban đầu thì khi chị Dậu phản kháng bằng bạo lực cai lệ và những tên người nhà lí trưởng lại tỏ ra yếu hèn và thất bại một cách nhanh chóng. Một tên cai lệ hút nhiều xái cũ, "sức lẻo khẻo", đã không chống lại được người đàn bà lực điền, đang ngùn ngụt lửa giận là chị Dậu. Thế nên mới có cái hình ảnh hài hước khi chị "túm lấy cổ hắn, ấn dúi ra cửa", chẳng khác nào một con tép lèo khoèo chạy không lại bước chân của chị Dậu rồi bị ném ngã "chỏng quèo" ngay trước cửa như một tên vô dụng hài hước và đầy nhục nhã. Và cái sự nhục nhã và tức tối ấy khiến hắn càng không quên được việc tàn ác của mình là thét kẻ dưới bắt trói cả nhà chị Dậu. Dĩ nhiên mới tên người nhà lý trưởng cũng chẳng được việc hơn là bao, trong tay gậy gộc nhưng vẫn bị chị Dậu tóm được tóc rồi "lẳng cho một cái, ngã nhào ra thềm". Người ta sẽ chẳng thể nào tưởng tượng được cái cảnh tượng cả một đám người dẫu ăn to, nói lớn, tỏ vẻ ghê gớm với đầy đủ trang bị lại bị một người đàn bà hạ gục trong một khoảnh khắc như thế, biết bao là nhục nhã và đáng đời. Như vậy có thể thấy sự yếu đuối, vô dụng dễ sụp đổ trước sự vùng dậy chống cự của chị Dậu cũng chính là một đặc điểm khác của bộ máy chính quyền lúc bấy giờ.

Cai lệ tuy chỉ là một nhân vật phụ trong toàn tác phẩm, nhưng bấy nhiêu bản chất thối tha, bẩn thỉu và tàn ác của hắn đã được khắc họa một cách tài tình thông qua ngòi bút chân thực và sắc bén của Ngô Tất Tố. Hắn không chỉ đại diện riêng cho tầng lớp giai cấp tay sai thống trị độc ác, vô nhân tính mà tất cả những hành động, bản chất dã thú cả hắn chính là một điển hình sống động cho cái lý lẽ và trật tự xã hội lúc bấy giờ, kẻ ở trên thì có quyền sinh sát, ác độc, đặc biệt là càng ác độc với những kẻ cùng đinh mạt hạng. Mà như anh Dậu nói "Người ta đánh mình không sao, nhưng mình đánh người ta thì mình phải tù, phải tội".