Vấn đề mà người viết muốn bàn luận trong văn bản “xem người ta kìa!” là gì?

Soạn bài Xem người ta kìa tóm tắt – Kết nối tri thức Ngữ văn 6

[rule_3_plain]

Bài soạn Xem người ta kìa tóm tắt – Kết nối tri thức Ngữ văn 6 dưới đây nhằm giúp các em hiểu rằng sự lạ mắt của tư nhân mang tới sự phong phú cho tập thể. Chúng ta cần biết hòa đồng, thân thiện mọi người, nhưng cũng phải biết giữ lại cái riêng và tôn trọng sự khác lạ. Mời các em cùng tham khảo nhé!

1. Khái quát chung

1.1. Bố cục bài học

– Tìm hiểu theo 2 mạch nội dung chính như sau:

+ Mong muốn được thành công giống người khác.

+ Mong muốn được sống với con người thực của mình.

1.2. Nghệ thuật

– Lập luận chặt chẽ, lí lẽ và dẫn chứng xác đáng cùng cách trao đổi vấn đề mở, hướng tới hội thoại với người đọc.

2. Hướng dẫn soạn bài Xem người ta kìa

2.1. Trước lúc đọc

Câu 1. Có bao giờ em phải phấn đấu để giống với một người bạn em ngưỡng mộ?

Gợi ý:

– Trước một người bạn xuất sắc về nhiều mặt, em cảm thấy ngưỡng mộ, khâm phục bạn. 

– Em có suy nghĩ mình cần phải học hỏi bạn nhiều điều hơn nữa. 

Câu 2. Trong cuộc sống, mỗi người có quyền trình bày cái riêng của mình ko? Vì sao?

Gợi ý:

– Trong cuộc sống mỗi người đều có quyền trình bày cái riêng của mình. Nhờ đó nhưng mà số đông mới có sự nhiều chủng loại, phong phú. Hơn nữa, cái riêng còn là yếu tố quyết định trị giá của mỗi con người. 

2.2. Đọc văn bản

Câu 1. Chú ý cách vào bài bằng lời kế. Phcửa ải chăng, kể chuyện cũng là một cách để nêu vấn đề cần bàn luận?

Gợi ý:

– Cách vào bài: Dẫn lại những lời của người mẹ.

– Kể chuyện cũng là một cách nêu vấn đề cần bàn luận.

Câu 2. Lí do nào khiến mẹ muốn con giống người khác?

Gợi ý:

– Lí do khiến mẹ muốn con giống người khác: Người mẹ muốn con phải là người tuyệt vời, mười phân vẹn mười – thông minh, giỏi giang; được tin yêu tôn trọng; thành đạt.

Câu 3. Những chứng cớ nào chứng tỏ toàn cầu này là muôn màu muôn vẻ?

Gợi ý:

Thế giới này là muôn màu muôn vẻ:

– Vạn vật trên đời đều có sự không giống nhau.

– Ngoại hình, giọng nói, thói quen của mỗi người đều không giống nhau.

– Chỗ “giống nhau” của mỗi người trên thế gian này là “ko người nào giống người nào”.

Câu 4. Việc kết thúc văn bản bằng các câu hỏi có ý nghĩa gì?

Gợi ý:

– Việc kết thúc văn bản bằng các câu hỏi có ý nghĩa để lại suy nghĩ trong lòng người đọc, khiến người đọc phải suy nghĩ, tự tìm câu trả lời và những câu hỏi này đồng thời cũng là những câu cảm thán bộc lộ xúc cảm của tác giả.

2.3. Sau lúc đọc

Câu 1. Khi thốt lên “Xem người ta kìa!”, người mẹ muốn con làm gì?

Gợi ý:

– Khi thốt lên “Xem người ta kìa”, người mẹ muốn con mình làm sao được bằng người, ko thua em kém chị, ko làm xấu mặt gia đình, họ hàng, dòng tộc và cũng ko để người nào phải phàn nàn, kêu ca về điều gì.

Câu 2. Chỉ ra ở văn bản:

a. Đoạn văn nêu vấn đề bằng cách kể một câu chuyện.

b. Đoạn văn là lời diễn giải của người viết.

c. Đoạn văn dùng chứng cớ để làm sáng tỏ vấn đề.

Gợi ý:

a. Đoạn văn giới thiệu vấn đề: “Giờ đây mẹ tôi đã khuất và tôi cũng đã lớn lên….. Có người mẹ nào trên đời ko ước mong điều đó?” 

b. Đoạn văn diễn giải về vấn đề: “Mẹ tôi ko phải ko hợp lí lúc yêu cầu tôi phải lấy người khác làm chuẩn mực…. Là người tuyệt vời, mười phân vẹn mười”. 

c. Đoạn văn làm sáng tỏ vấn đề: “Từ lúc biết nhìn nhận và suy nghĩ, tôi dần dần hiểu ra rằng … nhiều lúc lại là một phần rất đáng quý trong mỗi con người” 

Câu 3. Nội dung văn bản nhấn mạnh ý nghĩa của sự giống nhau hay không giống nhau giữa mọi người?

Gợi ý:

– Theo nhân vật “tôi”, toàn cầu này là muôn màu muôn vẻ, vô tận, quyến rũ và lạ lùng. 

+ Chim thú trên rừng hay cá tôm dưới biển cũng thế nhưng mà xã hội con người cũng thế

+ Trong lớp nhân vật “tôi”, các bạn học trò đều mỗi người một vẻ vô cùng sinh động.

+ Người ta nói “học trò nghịch như quỷ” nhưng “quỷ” cũng chính là một toàn cầu, chẳng “quỷ” nào giống “quỷ” nào .

– Cuối cùng, nhân vật “tôi” đã kết luận ý nghĩa của sự không giống nhau giữa mọi người là bằng một câu nhân vật đã đọc được rất hay “Chỗ giống nhau của mọi người trên thế gian nay là ko người nào giống người nào cả”.

Câu 4. Đọc lại đoạn văn có câu: “Mẹ tôi ko phải là ko có lý lúc yêu cầu tôi lấy người khác làm chuẩn mực để noi theo”. Hãy cho biết người mẹ có lý ở chỗ nào?

Gợi ý:

– Cái lí ở đây là: 

+ Mặc dù trên đời này, mỗi người là một cá thể riêng lẻ, nhưng giữa mọi người vẫn có những điểm giống nhau. 

+ Cho nên noi theo những điều tốt, những ưu điểm, những mặt mạnh của một người nào đó để tiến bộ là điều rất cần thiết. 

Câu 5. Chính chỗ “ko giống người nào” nhiều lúc lại là một phần rất đáng quý trong mỗi con người. Tác giả đưa ra những ví dụ nào để làm sáng tỏ ý ở câu trên. Qua những ví dụ đó, em đã học được gì về cách sử dụng chứng cớ trong bài nghị luận.

Gợi ý:

– Những ví dụ để làm sáng tỏ là: Các bạn trong lớp ngày trước, mỗi người một vẻ, sinh động biết bao: Ngoại hình, giọng nói, thói quen, thị hiếu không giống nhau. 

+ Người thích vẽ, người ưa ca hát, nhảy múa, tập thể thao….

+ Tính cách: sôi nổi, nhí nhảnh, kín đáo, trầm tư,…

– Bài học về cách sử dụng chứng cớ trong văn nghị luận: chứng cớ phải cụ thể, xác thực, tiêu biểu, thích hợp. 

Câu 6. Biết hòa đồng, thân thiện mọi người, nhưng cũng phải biết giữ lấy cái riêng và tôn trọng sự khác lạ – em có đồng ý với ý kiến này ko? Vì sao?

Gợi ý:

– Em hoàn toàn đồng ý với ý kiến này.

– Trong cuộc sống, mỗi người luôn cần học cách hòa đồng, thân thiện, thân thiết với mọi người. Điều này giúp chúng ta làm việc, hòa đồng với tập thể, với những người xung quanh mình, học hỏi và hòa hợp để cùng nhau tăng trưởng và tiến bộ. Đồng thời, chúng ta cũng cần học cách giữ lại cái tôi riêng lẻ và trân trọng trị giá riêng của bản thân.

Câu 7. Từ việc đọc hiểu văn bản Xem người ta kìa!, em hãy rút ra những yếu tố quan trọng của một bài nghị luận.

Gợi ý:

– Những yếu tố ko thể thiếu trong một văn bản nghị luận: 

+ vấn đề cần bàn luận. 

+ lí lẽ của người viết. 

+ chứng cớ để chứng minh. 

→ Đặc trưng của văn nghị luận. 

Câu 8. Viết đoạn văn (khoảng 5 – 7 câu) trình diễn suy nghĩ của em về vấn đề: Mỗi người cần có cái riêng của mình.

Gợi ý:

Trong cuộc sống, người nào cũng có cái riêng của mình. Thật vậy, mỗi người đều có một cuộc sống riêng, một hành trình riêng, một tương lai và mọi thứ khác với những người còn lại. Hoàn cảnh xuất thân, cuộc sống và hành trình của mỗi người là hoàn toàn không giống nhau. Qúa khứ, ngày nay và tương lai của mỗi người đều không giống nhau. Cuộc sống muôn màu muôn vẻ, mỗi người đều cần nhận thức được trị giá riêng và xây đắp cho chính cuộc sống của bản thân. Hãy cứ bung tỏa hương sắc của đóa hoa bên trong con người mình ra muôn nơi, để trị giá riêng của bản thân mình làm đẹp tô điểm cho cuộc sống này hơn nữa.

Trên đây là bài Soạn văn 6 Xem người ta kìa tóm tắt. Ngoài ra, các em có thể tham khảo thêm bài soạn cụ thể Xem người ta kìa.

—–Mod Ngữ văn biên soạn và tổng hợp—–

Soạn văn 6 Cô Tô tóm tắt

1616

Soạn văn 6 Con Hổ có nghĩa tóm tắt

1278

Soạn văn 6 Đeo nhạc cho mèo tóm tắt

1678

Soạn văn 6 Sự tích Hồ Gươm tóm tắt

3375

Soạn văn 6 Bánh Chưng, bánh Giầy tóm tắt

2172

Soạn văn 6 Con Rồng, cháu Tiên tóm tắt

2221

[rule_2_plain]

#Soạn #bài #Xem #người #kìa #tóm #tắt #Kết #nối #tri #thức #Ngữ #văn

Soạn bài 8:  Đọc: Xem người ta kìa! (Lạc Thanh)

* Trước khi đọc

1. Có bao giờ em phải cố gắng để giống với một người bạn em ngưỡng mộ?

2. Trong cuộc sống, mỗi người có quyền thể hiện cái riêng của mình không? Vì sao

Hướng dẫn giải:

1. Có đôi khi em phải cố gắng để giống với một người bạn em ngưỡng mộ. Em muốn học được ở người bạn đó sự chăm chỉ, ham học hỏi, đoàn kết với bạn bè, được mọi người yêu quý, quan tâm. 

2. Trong cuộc sống, mỗi người có quyền thể hiện cái riêng của mình. Bởi vì, cái riêng của mỗi người là là sự hãnh diện về tính cách riêng của bản thân sẽ làm cho mỗi người không cảm thấy tự ti hay mặc cảm vì bị so sánh với người khác. Mỗi một con người sẽ có những điểm mạnh riêng, tạo nên bức tranh cuộc sống nhiều màu sắc.

I. Tìm hiểu chung

1. Tác giả: Lạc Thanh.

2. Tác phẩm

- Thể loại: Văn bản nghị luận.

- PTBĐ chính: Nghị luận.


* Gợi ý trả lời câu hỏi trong bài đọc: 

1. Theo dõi: Chú ý cách vào bài bằng lời kể. Phải chăng, kể chuyện cũng là một cách để nêu vấn đề cần bàn luận?  

- Vào bài bằng cách dẫn lại trực tiếp những câu nói của người mẹ. 

- Kể chuyện cũng là cách để nêu vấn đề cần bàn luận. 

2. Theo dõi: Lí do nào khiến mẹ muốn con giống người khác?   

- Lí do: 

+ Muốn con thông minh, giỏi giang. 

+ Muốn con được tin yêu, tôn trọng. 

+ Muốn con thành đạt. 

+ Không ít người tự vượt lên chính mình nhờ noi gương những cá nhân xuất chúng.

. Theo dõi: Những bằng chứng nào chứng tỏ thế giới này là muôn màu muôn vẻ?  

- Các bạn trong lớp ngày trước, mỗi người một vẻ, sinh động biết bao: Ngoại hình, giọng nói, thói quen, sở thích khác nhau. 

+ Người thích vẽ, người ưa ca hát, nhảy múa, tập thể thao….

+ Tính cách: sôi nổi, nhí nhảnh, kín đáo, trầm tư,…

4. Suy luận: Việc kết thúc văn bản bằng các câu hỏi có ý nghĩa gì?  

- Tạo ấn tượng, mở rộng vấn đề khiến cho mọi người đọc đều phải suy nghĩ. 

II. Đọc hiểu văn bản

1. Mong muốn được thành công giống người khác 

- Cách vào đề đặc biệt, thu hút người đọc: vào đề bằng lời kể.

- Giải thích câu nói "Xem người ta kìa!" của mẹ trong quá khứ:

+ Muốn con bằng người khác, không thua kém, không làm xấu mặt gia đình, không để ai phải phàn nàn, kêu ca.

+ Là mong muốn của tất cả các người mẹ trên đời.

- Giải thích lí do mẹ nói câu đó:

+ Đưa ra một loạt câu hỏi khẳng định mọi người đều ao ước thành công.

+ Không ít người vượt lên chính mình nhờ noi gương người xuất chúng.

+ Những “người khác” mà mẹ nói là người hoàn hảo, mười phân vẹn mười.

+ Cảm xúc của bản thân: không hề cảm thấy dễ chịu.

Lí lẽ.

+ Thế giới là muôn màu, muôn vẻ. Vạn vật trên rừng dưới biển đều thế và xã hội con người cũng thế.

+ Lấy ví dụ: Trong 1 lớp học mọi người đều khác nhau ở nhiều khía cạnh.

+ Đưa ra một câu nói hay “Chỗ giống nhau nhất của mọi người trên thế gian này là… không ai giống ai cả”.

+ Đưa ra khẳng định của bản thân: Chính chỗ “không giống ai” nhiều khi lại là một phần đáng quý trong mỗi con người.

- Trở lại vấn đề ở mở bài, khẳng định thêm ý kiến bản thân:

+ Người thân không hẳn đúng khi ngăn cản, không để con người sống với con người thực của mình.

+ Hòa nhập là tốt nhưng hòa nhập để tập thể trở nên phong phú.

+ Hòa nhập không có nghĩa là gạt bỏ cái riêng từng người.

Dẫn chứng.

- Kết thúc đặc biệt, tạo đối thoại với người đọc: Kết thúc bằng câu hỏi.

III. Tổng kết

1. Nội dung

Xem người ta kìa! bàn luận về mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng. Con người luôn muốn người thân quanh mình được thành công, tài giỏi,... như những nhân vật xuất chúng trong cuộc sống. Tuy nhiên, việc đi làm cho giống người khác sẽ đánh mất bản thân mỗi người. Vì vậy chúng ta nên hòa nhập chứ không nên hòa tan.

2. Nghệ thuật

Lập luận chặt chẽ, lí lẽ và dẫn chứng xác đáng cùng cách trao đổi vấn đề mở, hướng tới đối thoại với người đọc.

* Sau khi đọc

1. Khi thốt lên “Xem người ta kìa!", người mẹ muốn con làm gì?

Khi thốt lên “Xem người ta kìa!", người mẹ không hài lòng với nhân vật "tôi" về một điều gì đó. Cùng với câu này, mẹ còn nói "Người ta cười  chết", "Có ai như thế không", "Có ai làm vậy không", "Ai đời lại như thế".

2. Chỉ ra ở văn bản:

a) Đoạn văn nêu vấn đề bằng cách kể một câu chuyện.

"Xem người ta kìa....không ước mong điều đó". 

b) Đoạn văn là lời diễn giải của người viết.

"Mẹ tôi không phải là không có lý do đòi hỏi tôi....nghe mẹ trách cứ".

c) Đoạn văn dùng bằng chứng để làm sáng tỏ vấn đề.

"Từ khi biết nhìn nhận và suy nghĩ....riêng của từng người".

3. Nội dung văn bản nhấn mạnh ý nghĩa của sự giống nhau hay khác nhau giữa mọi người?

Nội dung văn bản nhấn mạnh ý nghĩa của sự khác nhau giữa mọi người. Theo nhân vật "tôi", thế giới này là muôn màu muôn vẻ, vô tận, hấp dẫn và lạ lùng. 

- Chim thú trên rừng hay cá tôm dưới biển cũng thế mà xã hội con người cũng thế.

- Trong lớp nhân vật "tôi", các bạn học sinh đều mỗi người một vẻ vô cùng sinh động. Ngoại hình cao, thấp, béo, gầy, đen, trắng khác nhau, giọng nói khác nhau; thói quen, sở thích cũng khác nhau.

- Người ta nói "học trò nghịch như quỷ" nhưng "quỷ" cũng chính là một thế giới, chẳng "quỷ" nào giống "quỷ" nào.

Cuối cùng, nhân vật "tôi" đã kết luận ý nghĩa của sự khác nhau giữa mọi người là bằng một câu nhân vật đã đọc được rất hay "Chỗ giống nhau của mọi người trên thế gian nay là không ai giống ai cả". Chính chỗ không giống ai đó lại là một phần rất đáng quý trong cuộc đời mỗi con người.

4. Đọc lại đoạn văn có câu: "Mẹ tôi không phải là không có lý khi đòi hỏi tôi lấy người khác làm chuẩn mực để noi theo". Hãy cho biết người mẹ có lý ở chỗ nào?

Người mẹ có lý ở chỗ:

- Ai chẳng muốn thông minh, giỏi giang.

- Ai chẳng muốn được tin yêu, tôn trọng.

- Ai chẳng muốn thành đạt.

Sự thành công của người này là ước mơ của người khác. Vì vậy, đã có những người cố gắng vượt lên chính mình nhờ noi gương những người tài giỏi, xuất chúng.

5. Chính chỗ "không giống ai" nhiều khi lại là một phần rất đáng quý trong mỗi con người. Tác giả đưa ra những ví dụ nào để làm sáng tỏ ý ở câu trên? Qua những ví dụ đó, em đã học được gì về cách sử dụng bằng chứng trong bài nghị luận?

Tác giả đưa ra những ví dụ để làm sáng tỏ ý ở câu trên:

- Chim thú trên rừng hay cá tôm dưới biển cũng thế mà xã hội con người cũng thế.

- Trong lớp nhân vật "tôi", các bạn học sinh đều mỗi người một vẻ vô cùng sinh động. Ngoại hình cao, thấp, béo, gầy, đen, trắng khác nhau, giọng nói khác nhau; thói quen, sở thích cũng khác nhau: Tùng thích vẽ vời; Nhung ưa ca hát, nhảy múa; Hoài thì sôi nổi, nhí nhảnh; Thơ lúc nào cũng kín đáo, trầm tư; Trần Long nổi tiếng là một danh hài Minh Tuệ thì hơn người ở trí nhớ siêu việt.

- Người ta nói "học trò nghịch như quỷ" nhưng "quỷ" cũng chính là một thế giới, chẳng "quỷ" nào giống "quỷ" nào.

Cách sử dụng bằng chứng trong văn nghị luận: Để có sức thuyết phục trong bài nghị luận này, tác giả đã sử dụng lý lẽ "không giống ai" nhiều khi lại là một phần rất đáng quý trong mỗi con người" để diễn giải và khẳng định ý kiến của mình. Bằng chứng là những ví dụ được tác giả nêu ra (3 ví dụ nêu trên) được lấy từ đời sống thực tế để chứng minh cho lý lẽ đó.

6. Biết hòa đồng, gần gũi mọi người, nhưng cũng phải biết giữ lấy cái riêng và tôn trọng sự khác biệt. Em có đồng ý với ý kiến này không? Vì sao?

Em đồng ý với ý kiến Biết hòa đồng, gần gũi mọi người, nhưng cũng phải biết giữ lấy cái riêng và tôn trọng sự khác biệt. Hòa đồng, gần gũi với mọi người thể hiện cách sống chan hòa, vui vẻ, có thiện chí, xây dựng mối quan hệ với bạn bè thể hiện sự tự tin trong giao tiếp và ứng xử của mỗi con người. Tuy nhiên cũng cần "sống thành thật với chính mình" nghĩa là "biết giữ lấy cái riêng và tôn trọng sự khác biệt''. Chính điều đó sẽ làm nên giá trị bản thân cho mỗi con người. Cũng chính nhờ việc giữ được những cái riêng sẽ càng làm cho con người hòa đồng, gần gũi với nhau nhiều hơn. 

Trong bài văn nghị luận, tác giả đã được ra lý lẽ cho ý kiến rất thuyết phục đó là: "Ai cũng cần hoà nhập, nhưng sự hoà nhập có nhiều lối chứ không phải một. Mỗi người phải được tôn trọng, với tất cả những cái khác biệt vốn có. Sự độc đáo của từng cá nhân làm cho tập thể trở nên phong phú. Nếu chỉ ao ước được giống người khác, thì làm sao ta có hi vọng đóng góp cho tập thể, cho cộng đồng một cái gì đó của chính mình. Đòi hỏi chung sức chung lòng không có nghĩa là gạt bỏ cái riêng của từng người". 

7. Nếu được đặt lại tên cho văn bản, em sẽ đặt thế nào?

Nếu được đặt lại tên cho văn bản, em sẽ đặt là Hòa nhập nhưng không Hòa tan.

8*. Bức tranh Những bí ẩn của chân trời của Rơ-nê Ma-grit đã được sử dụng để minh họa cho văn bản Xem người ta kìa!. Theo em, điều đó có hợp lý không? Vì sao?

Theo em, điều đó hợp lý. Trong bức tranh, mỗi người nhìn về một hướng khác nhau nhưng đều có suy nghĩ về ánh trăng. Cũng giống như trong cuộc sống, mỗi người có một ý kiến, quan điểm cá nhân riêng nhưng đều là đóng góp, chung sức cho tập thể, cho cộng đồng. Ý nghĩa của bức tranh trùng khớp với ý nghĩa nội dung bài văn nghị luận.

*Viết kết nối với đọc

Viết đoạn văn (khoảng 5 - 7 câu) trình bày suy nghĩ của em về vấn đề: Mỗi người cần có cái riêng của mình. 

     Trong cuộc sống, ngoài sự nỗ lực, phấn đấu không ngừng, mỗi chúng ta cần phải ý thức được cái riêng, giá trị của bản thân mình. Khi ý thức được giá trị của bản thân là khi biết được điểm mạnh, điểm yếu của chính mình. Và lúc ấy chúng ta sẽ biết làm thế nào để phát huy tối đa những khả năng, sở thích vốn có của mình và sửa chữa những khuyết điểm còn tồn tại. Đồng thời khi đã biết những điểm mạnh của bản thân cũng giúp chúng ta tự tin trong hành động, luôn luôn cố gắng để đạt tới cái đích mà mình đã lựa chọn. Ngược lại, nếu đến chính giá trị của bản thân mình chúng ta cũng không hiểu thì thật khó để lựa chọn được con đường đúng đắn, thiếu tự tin với chính quyết định của mình. Hành trình để khẳng định cái riêng của mình khôn đòi hỏi bản thân mỗi người cần nỗ lực, cố gắng hết mình để tìm thấy giá trị đích thực của bản thân.


Page 2

Em đang ở một hòn đảo ngoài khơi xa lắc, cách xa đất liền. Ngay trước mắt là những bãi cát vắng vẻ, tĩnh lặng chỉ có những bụi cây nhỏ mọc thưa thớt. Cảm giác vô cùng  hoang sơ. Nước biển có độ mặn cao, trong suốt, nhìn rõ cả cát dưới đáy. Phía trước trông ra biển cả mênh mông, phía sau và 2 bên là vách núi như bức tường thành. Muốn đến được hòn đảo phải vượt núi hoặc chui qua đường hầm. Ở đây con người sẽ xây dựng những "thủy cung", có thể trực tiếp quan sát các đàn cá heo, tôm hùm, rùa biển, mực ống, cá mập lượn lờ bên những cụm san hô đầy màu. 

1. Cây khế kể về chuyện gì? Em thích nhất chi tiết nào trong chuyện?

Cây khế là một trong những câu truyện cổ tích Việt Nam được nhiều người yêu thích, đây là một trong những bài học giáo dục cho con người. Với những yếu tố thần kỳ đưa vào câu truyện, tác giả dân gian muốn đem đến một bài học nhẹ nhàng cho con người về tình yêu thương cho gia đình, sự lương thiện, thật thà.

Trong truyện, em thích nhất chi tiết: Khi chim lạ đến ăn khế, câu nói của chim chính là điểm đáng chú ý nhất để lại nhiều suy nghĩ trong người đọc: “Ăn một quả, trả cục vàng, may túi ba gang đem đi mà đựng”. Người em tốt bụng chỉ nghĩ chim nói vậy để được ăn khế thôi, nên cũng không suy nghĩ đến chuyện chim sẽ thực hiện đúng lời hứa của mình. Nhưng thật bất ngờ khi mấy hôm sau chim đã quay lại và đưa người em đến hòn đảo vàng bạc như đúng là lời hứa mà chim đã nói vậy. Đó là một điều đáng khen ngợi về đức tính biết giữ lời hứa và trả ơn cho người đã giúp đỡ mình.

2. Hãy tóm tắt chuyện Cây khế.

Tóm tắt chuyện Cây khế: Gia đình nọ có hai anh em, cha mẹ mất sớm và để lại cho anh em một khối gia tài. Vợ chồng người anh tham lam giành hết chỉ chừa lại cho người em một mảnh vườn nhỏ có cây khế. Vợ chồng người em chăm chỉ làm ăn và chăm sóc cây khế chu đáo. Đến mùa khế ra rất nhiều quả. Bỗng một hôm có con chim lạ đến ăn khế. Người em than khóc và đại bàng liền bảo người em may túi ba gang để chim trả ơn. Chim đưa người em ra đảo lấy vàng và người em trở nên giàu có nhất vùng. Người anh hay tin, lân la đến dò hỏi và đổi cả gia tài của mình để lấy mảnh vườn có cây khế. Đến mùa khế chín, chim đại bàng lại đến và cũng ngỏ ý sẽ trả ơn. Người anh vì tham lam nên đã may túi to để dựng được nhiều vang. Trên đường đi lấy vàng về vì quá nặng nên người anh đã bị rơi xuống biển và chết.

3. Truyện cổ tích thường mở đầu bằng những từ ngữ quen thuộc chỉ thời gian trong quá khứ, không gian không xác định. Em hãy tìm các từ ngữ đó trong truyện cây khế.

Các từ ngữ đó trong truyện cây khế: Ngày xửa ngày xưa.

4. Con chim đưa hai anh em ra đảo hoang có phải là con vật kỳ ảo không? Vì sao?

Con chim đưa hai anh em ra đảo hoang là con vật kỳ ảo. Chim thần nói “ ăn một quả trả một cục vang, may túi ba gang mang đi mà đựng”. Lời nói của chim tưởng đâu là bâng quơ nhưng người em tin là thật và đã thức đêm chuẩn bị chiếc túi ba gang như lời chim dặn. Sáng hôm sau, con chim đến chở người em ra đảo, một hòn đảo có rất nhiều vàng. Tác giả dân gian xây dựng tình huống truyện cùng với yếu tố kỳ ảo chim thần vi để cho người nhân vật người em được nhận một món quà vô cùng giá trị, nhưng đó cũng là những gì vợ chồng người em xứng đáng nhận được. Đây cũng là lời khẳng định cho một giá trị nhân văn rằng: người tốt nhất định sẽ được báo đáp và ở hiền chắc chăn sẽ gặp lành.

5. Trong lời kể của truyện cổ tích, tác giả dân gian thường xen vào những câu có dáng dấp ca dao, tục ngữ, lời có vần dễ thuộc, dễ nhớ. Trong truyện này, có câu nói nào như thế? Nhân vật nào đã nói câu nói đó?

Trong lời kể của truyện cổ tích, tác giả dân gian thường xen vào những câu có dáng dấp ca dao, tục ngữ, lời có vần dễ thuộc, dễ nhớ. Trong truyện này, cũng có câu như thế "Ăn một quả, trả một cục vàng, may túi ba gang, mang đi mà đựng". Đây là câu nói của chim thần. 

6. Đảo xa nơi con chim đưa người em đến có điều gì kì diệu? Điều kì diệu này đã giúp gì cho cuộc sống của người em sau đó?

Đảo xa nơi con chim đưa người em đến có điều gì kì diệu. Đó là hòn đảo xa có rất nhiều vàng. Hai vợ chồng từ đó sống sung túc hơn, có ruộng vườn nhà cửa. Chi tiết tưởng tượng, kỳ ảo về chú chim phượng hoàng ăn khế trả vàng là một chi tiết đặc sắc trong câu chuyện. Đó là chi tiết li kỳ giúp cho câu chuyện trở nên hấp dẫn và lôi cuốn. Không những thế, thông qua chi tiết này, tác giả dân gian thể hiện một triết lý sâu sắc. Chỉ cần chăm chỉ, ở hiền ắt sẽ gặp lành. Vợ chồng người em là biểu tượng của người dân lao động xưa luôn chăm chỉ, chịu thương chịu khó và hiền lành nên đã đạt được thành quả tốt đẹp.

7. Trong truyện, hai nhân vật người anh và người em luôn đối lập nhau về hành động. Hãy chỉ ra sự đối lập giữa họ và nêu nhận xét về đặc điểm của hai nhân vật này.

- Người anh: Nhân vật người anh trong câu chuyện cổ tích Cây khế là hình ảnh tiêu biểu cho những kẻ tham lam, ích kỉ.

Người anh là người ích kỉ và keo kiệt, khi cha mẹ qua đời anh ta đã chiếm hết mọi ruộng đất và chỉ để lại cho người em mỗi túp lều và cây khế. Bao nhiêu ruộng đất chiếm được, anh ta cho cày thuê nên ngày càng giàu có hơn. Bộ dáng tham lam của anh ta khi tranh ruộng đất với em mình thật khác hẳn với bộ dáng anh ta xun xoe, nịnh nọt người em đổi cho cây khế ngọt để lấy vàng. Anh ta mặc bộ quần áo thùng thình, vai khoác chiếc túi mười hai gang cùng cái bụng phệ loay hoay leo lên lưng chim ra đảo lấy vàng. Nhìn thấy nhiều vàng trên đảo, đôi mắt híp của anh ta sáng rực lên, bộ dạng hấp tấp, tham lam vơ vét, cố ních, cố nhét vào túi và ì ạch vác túi vàng nặng trĩu trên vai leo lên lưng chim để trở về. Nhưng rồi cuối cùng con người tham lam, ích kỉ ấy đã chới với trên lưng chim rồi lăn xuống biển.

Cái chết của người anh là lời cảnh báo cho những kẻ tham lam, chỉ muốn ăn mà không muốn làm, sống cạn tình nghĩa.

- Người em: Nhân vật người em trong câu chuyện cổ tích Cây khế là hình ảnh tiêu biểu cho những người tốt bụng, thật thà, lương thiện.

Người em hiền lành, tốt bụng và rất yêu mến anh trai của mình. Khi cha mẹ qua đời, nhà cửa ruộng vườn đều thuộc về anh. Người em chỉ có một túp lều nhỏ và một cây khế ở cuối vườn. Biết phận mình là em nên không dám đòi hỏi gì hơn, người em chỉ ngày ngày chắm chút cho cây khế, mong cây đơm quả ngọt. Điều may đến, người em được chim lạ đưa đi lấy vàng và có một cuộc sống sung túc. Vì tốt bùng, thật thà nên người em đã chia sẻ câu chuyện của mình với mọi người và đặc biệt là anh trai của mình. Khi anh trai nổi long tham muốn đổi gia tài của mình để lấy cây khế ngọt, người em cũng sẵn sàng chia sẻ điều đó với anh trai của mình. 

Hai vợ chồng người em được sống sung túc hơn, có ruộng vườn nhà cửa là cái kết có hậu cho những người "ở hiền gặp lành".

8. Từ những kết cục khác nhau đối với người anh và người em, tác giả dân gian muốn gửi gắm bài học gì trong truyện này?

Từ những kết cục khác nhau đối với người anh và người em, tác giả dân gian muốn gửi gắm bài học về đền ơn đáp nghĩa, niềm tin ở hiền sẽ gặp lành và may mắn đối với tất cả mọi người. Câu truyện ăn khế trả vàng còn mang tính giáo dục cho trẻ nhỏ để hình thành những đức tính tốt cho cuộc sống sau này.

Tưởng tượng ra một kết thúc khác cho chuyện Cây khế. Viết đoạn văn (khoảng 5-7 câu) kể về kết thúc đó.

     Một hôm người anh nghe mọi người trong vùng bàn tán xôn xao về sự giàu có bất ngờ của người em.. Sau khi nghe ngóng được toàn bộ câu chuyện, như một giấc mơ, anh vội vàng  đề nghị người em đổi cả gia tài của mình để lấy cây khế của. Người anh làm đúng như người em đã làm, chăm sóc cây khế đến ngày hái quả. Hôm ấy, cả đàn chim Thần đến ăn khế. Người anh ngồi dưới gốc cây giả vờ than khóc. Quả nhiên con chim đầu đàn bảo người anh hãy mang túi ba gang để đựng vàng. Người anh chợt nghĩ, dại gì không may túi lớn hơn để đựng được nhiều vàng. Do đó, người anh đã may túi 12 gang. Đến đảo, hắn thấy vàng bày la liệt, hắn tha hồ hốt đầy túi và nhét thêm vào người. Trên đường về giữa biển,  chim mỏi cánh van nài người anh bỏ bớt. Hắn tiếc  quá không bỏ được, chim không thể gượng nổi chao nghiêng cánh. Thế là người anh cùng túi vàng rơi xuống và không còn biết gì nữa cả.

Tỉnh lại người anh thấy mình nằm trên một hòn đảo. Có lẽ hắn đã bị sóng đánh dạt vào bờ. Trải qua sự việc này, người anh thấy mình thật dại dột đã để lòng tham làm mờ lí trí, hắn đã rút ra được bài học đích đáng cho mình. Từ đó, hắn phải sống cô đơn, lẻ loi trên hoang đảo đến suốt đời.