Vào ngày 22 -- 12 thời gian chiếu sáng ở bán cầu Bắc như thế nào

Vũ trụ. Hệ quả các chuyển động của Trái Đất

Câu 32: Hiện tượng chênh lệch độ dài ngày – đêm trong các ngày 21/3, 22/6, 23/9, 22/12 ở Xích đạo, các chí tuyến và các vòng cực diễn ra như thế nào? Tại sao?

Lời giải

* Ở Xích đạo: tất cả các ngày (21-3, 22-6, 23-9, 22-12) đều có số giờ chiếu sáng là 12 giờ. Do trục Trái Đất và mặt phẳng phân chia sáng tôi luôn luôn gặp

* Ở các chí tuyến và các vòng cực:

– Ngày 21-3 và ngày 23-9 đều có số giờ chiếu sáng trong ngày là 12 giờ. Do vào các ngày này, Trái Đất hướng cả hai nửa cầu về phía Mặt Trời như nhau, tia sáng mặt trời luôn chiếu vuông góc với Xích đạo, nên mọi nơi đều có số giờ chiếu sáng như nhau (12 giờ), ngày và đêm dài bằng nhau.

– Ngày 22-6 và 22-12, sô” giờ chiếu sáng trên các chí tuyến và các vòng cực ở hai nửa cầu trái ngược nhau.

– Ngày 22-6:

+ Chí tuyến Bắc: số giờ chiếu sáng trong ngày là 13,5 giờ, ngày dài hơn đêm. Chí tuyến Nam, số giờ chiếu sáng trong ngày là 10,5 giờ, đêm dài hơn ngày.

+ Ở vòng cực Bắc, sô” giờ chiếu sáng trong ngày là 24 giờ, không có đêm. Ớ vòng cực Nam, số giờ chiếu sáng trong ngày là 0 giờ, không có ngày.

+ Nguyên nhân: ngày 22-6, nửa cầu Bắc ngả về phía Mặt Trời, diện tích chiếu sáng lớn hơn diện tích khuất trong bóng tối, nên ngày dài hơn đêm. Nửa cầu Nam lúc này chếch xa phía Mặt Trời nên diện tích chiếu sáng ít hơn diện tích khuất trong bóng tối, đêm dài hơn ngày. Vòng cực Bắc hoàn toàn nằm trước đường phân chia sáng tối, nên có hiện tượng ngày dài 24 giờ. Trong khi đó, vòng cực Nam hoàn toàn nằm sau đường phân chia sáng tối nên có hiện tượng đêm dài 24 giờ.

– Ngày 22-12: hiện tượng chênh lệch ngày đêm ở các chí tuyến và vòng cực diễn ra ngược lại với ngày 22-6.

Dựa vào hình 25 SGK, cho biết: Vào các ngày 22-6 và ngày 22-12, độ dài ngày, đêm của các điểm D và D' ở vĩ tuyến 66033’ Bắc và Nam của hai nửa cầu sẽ như thế nào? Vĩ tuyến 66°33’ Bắc và Nam là những đường gì?

Đề bài

Dựa vào hình 25 SGK, cho biết:

+ Vào các ngày 22-6 và ngày 22-12, độ dài ngày, đêm của các điểm D và D' ở vĩ tuyến 66033’ Bắc và Nam của hai nửa cầu sẽ như thế nào? Vĩ tuyến 66°33’ Bắc và Nam là những đường gì?

+ Vào các ngày 22-6 và ngày 22-12 độ dài của ngày và đêm ở hai điểm Cực như thế nào?

Vào ngày 22 -- 12 thời gian chiếu sáng ở bán cầu Bắc như thế nào

Lời giải chi tiết

- Vào ngày 22-6, điểm Dở vĩ tuyến 66°33,B, có ngày dài suốt 24 giờ (ngày trắng),điểm D’ ở vĩ tuyến 66°33’N đêm dài suốt 24 giờ (đêm trắng).

- Vào ngày 22-12,điểm Dở vĩ tuyến 66°33,B, có đêm dài suốt 24 giờ (đêm trắng),điểm D’ ở vĩ tuyến 66°33’N ngày dài suốt 24 giờ (ngày trắng).

Như vậy, vĩ tuyến 66°33'B và 66°33’N là những đường giới hạn của vùng có ngày hoặc đêm dài suốt 24 giờ. Vì thế, vĩ tuyến 66°33'B và 66°33’N được gọi là các vòng cực.

- Vào ngày 22-6, điểm cực Bắc có ngày dài suốt 24h, điểm cực Nam có đêm dài suốt 24h. Vào ngày 22-12 thì ngược lại.

loigiaihay.com

  • Vào ngày 22 -- 12 thời gian chiếu sáng ở bán cầu Bắc như thế nào

    Ở hai miền cực số ngày có ngày, đêm dài suốt 24 giờ thay đổi theo mùa

    Các địa điểm nằm trên đường Xích đạo quanh năm có ngày đêm dài ngắn như nhau. Càng về về hai cực chênh lệch độ dài ngày - đêm càng lớn và thay đổi theo mùa

  • Vào ngày 22 -- 12 thời gian chiếu sáng ở bán cầu Bắc như thế nào

    Bài 1 trang 30 SGK Địa lí 6

    Dựa vào hình 24 SGK, hãy phân tích hiện tượng ngày, đêm dài ngắn khác nhau trong các ngày 22-6 và 22-12.

  • Vào ngày 22 -- 12 thời gian chiếu sáng ở bán cầu Bắc như thế nào

    Bài 2 trang 30 SGK Địa lí 6

    Từ sự phân tích trên, hãy rút ra kết luận về hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo vĩ độ trên Trái Đất.

  • Vào ngày 22 -- 12 thời gian chiếu sáng ở bán cầu Bắc như thế nào

    Bài 3 trang 30 SGK Địa lí 6

    Dựa vào bảng sau đây, hãy giải thích tại sao số ngày có ngày dài 24 giờ lại tăng từ vòng cực đến cực?

  • Vào ngày 22 -- 12 thời gian chiếu sáng ở bán cầu Bắc như thế nào

    Dựa vào hình 25 SGK, cho biết: Sự khác nhau của độ dài ngày, đêm tại các địa điểm A, B ở nửa cầu Bắc và các địa điểm tương ứng A', B’ ở nửa cầu Nam vào các ngày 22-6 và 22-12.

    Giải bài tập câu hỏi thảo luận số 1 trang 29 SGK Địa lí 6

Quan sát hình 7.1 và đọc thông tin trong bài, em hãy cho biết: Vào các ngày 22-6 và 22-12, bán cầu Bắc hay bán cầu Nam ngả về phía Mặt Trời nhiều ...

Trả lời câu hỏi trang 133 SGK Địa lí lớp 6 sách Chân trời sáng tạo – Bài 7: Chuyển động quanh mặt trời của trái đất và hệ quả

1. Hiện tượng mùa

Câu hỏi:Quan sát hình 7.1 và đọc thông tin trong bài, em hãy cho biết:

– Vào các ngày 22-6 và 22-12, bán cầu Bắc hay bán cầu Nam ngả về phía Mặt Trời nhiều hơn

– Ngày 22-6 ở bán cầu Bắc là mùa nóng hay mùa lạnh? Vì sao?

– Ngày 22-12 ở bán cầu Nam là mùa nóng hay mùa lạnh? Vì sao?

Trả lời:

– Vào ngày 22 – 6, bán cầu Bắc ngả về phía Mặt Trời nhiều hơn.

– Trong ngày 22-12 (đông chí), nửa cầu Nam ngả về phía Mặt Trời.

– Từ ngày 21 – 3 đến ngày 23 – 9 ở bán cầu Bắc là mùa nóng do Bán cầu Bắc ngả nhiều về phía Mặt Trời nên nhận được nhiều nhiệt.

– Từ 23 – 9 đến ngày 21 – 3ở bán cầu Nam là mùa nóng do Bán cầu Nam ngả nhiều về phía Mặt Trời nên nhận được nhiều nhiệt.

2. Hiện tượng ngày, đêm dài ngắn theo mùa


Dựa vào hình 7.2 và thông tin trong bài, em hãy:

– Xác định trục Trái Đất ( Bắc- Nam) và đường phân chia sáng tối (ST)

Cho biết:

– Ngày 22-6, Mặt trời chiếu thẳng góc vào mặt đất ở vĩ tuyến nào? Thời điểm đó, ngày dài hơn đêm ở bán cầu bắc hay bán cầu nam?

– Ngày 22-12, Mặt trời chiếu thẳng góc vào mặt đất ở vĩ tuyến nào? Thời điểm đó, ngày dài hơn đêm ở bán cầu bắc hay bán cầu Nam?

Vào ngày 22 -- 12 thời gian chiếu sáng ở bán cầu Bắc như thế nào

Trả lời:

– Xác định trục Trái Đất và đường phân chia sáng tối trên hình 7.2.

– Vào ngày 22 – 6, Mặt trời chiếu thẳng góc vào mặt đất ở vĩ tuyến 23o27′B, ngày dài hơn đêm ở bán cầu Bắc.

– Vào ngày 22 – 12, Mặt trời chiếu thẳng vào mặt đất ở vĩ tuyến 23o27′N, ngày dài hơn đêm ở bán cầu Nam.


    Bài học:
  • Bài 7: Chuyển động quanh mặt trời của trái đất và hệ quả (Chân trời sáng tạo)
  • Chương 2: Trái Đất - hành tinh của hệ mặt trời (Chân trời sáng tạo)

    Chuyên mục:
  • Lớp 6
  • Lịch Sử và Địa Lí 6 sách Chân trời sáng tạo


Bài trướcQuan sát hình 7.1 và đọc thông tin trong bài, em hãy: Cho biết Trái Đất chuyển động xung quanh Mặt Trời theo hướng cùng chiều hay ngược chiều
Bài tiếp theoQuan sát hình 7.3 và thông tin trong bài, em hãy: Xác định các điểm A,B,C So sánh độ dài giữa ngày và đêm ở các điểm A,B,C vào ngày 22-6 và 22-12

Mục lục

  • 1 Tên gọi
  • 2 Lịch sử
    • 2.1 Hình thành
    • 2.2 Quá trình tiến hóa của sự sống
    • 2.3 Tương lai
  • 3 Tính chất vật lý
    • 3.1 Hình dạng
    • 3.2 Thành phần hóa học
    • 3.3 Cấu trúc bên trong
    • 3.4 Nhiệt lượng
    • 3.5 Các mảng kiến tạo
    • 3.6 Bề mặt
    • 3.7 Thủy quyển
    • 3.8 Khí quyển
      • 3.8.1 Thời tiết và khí hậu
      • 3.8.2 Tầng khí quyển trên
    • 3.9 Từ trường
  • 4 Quỹ đạo và chuyển động tự quay
    • 4.1 Chuyển động tự quay
    • 4.2 Quỹ đạo
    • 4.3 Độ nghiêng trục và các mùa
  • 5 Mặt Trăng
  • 6 Bán vệ tinh
    • 6.1 Giả thuyết vệ tinh thứ hai
  • 7 Sự sống
    • 7.1 Sinh quyển
    • 7.2 Con người
      • 7.2.1 Địa lý con người
      • 7.2.2 Con người với Trái Đất
  • 8 Quan điểm văn hóa
  • 9 Xem thêm
  • 10 Chú thích
  • 11 Tham khảo
  • 12 Đọc thêm
  • 13 Liên kết ngoài

Tên gọiSửa đổi

Từ Earth trong tiếng Anh hiện đại bắt nguồn từ eorðe trong tiếng Anh cổ.[25] Từ này chung gốc với nhiều từ chỉ Trái Đất khác trong ngữ tộc German, đều bắt nguồn từ *erþō của tiếng German nguyên thủy. Trong chứng thực sớm nhất của nó, từ eorðe đã được sử dụng để dịch nhiều nghĩa như là terra trong tiếng Latinh và γῆ (gē trong tiếng Hy Lạp nghĩa là mặt đất, vùng đất khô cằn, thế giới, bề mặt đất bao gồm cả biển, và địa cầu). Giống như Terra trong thần thoại La Mã và Gaia trong thần thoại Hy Lạp, Trái Đất có thể là một nữ thần được nhân cách hóa trong tà giáo Đức: Trong hậu thần thoại Bắc Âu bao gồm Jörð ("mẹ Trái Đất"), một nữ thần khổng lồ thường được coi là mẹ của thần sấm Thor.[26]

Lịch sửSửa đổi

Hình thànhSửa đổi

Các nhà khoa học đã có thể khôi phục lại các thông tin chi tiết về quá khứ của Trái Đất. Những ngày đầu tiên của hệ Mặt Trời là vào khoảng 4,5672[27] ± 0,0006 tỷ năm trước, vào khoảng 4,54 tỷ năm trước (độ sai lệch nằm trong khoảng 1%)[14][15][16][17] Trái Đất và các hành tinh khác trong hệ Mặt Trời đã hình thành từ tinh vân Mặt Trời – đám mây bụi và khí dạng đĩa do Mặt Trời tạo ra. Quá trình hình thành Trái Đất được hoàn thiện trong vòng 10 triệu đến 20 triệu năm.[28] Lúc đầu ở dạng nóng chảy, lớp vỏ ngoài của Trái Đất nguội lại thành chất rắn trong khi nước bắt đầu tích tụ trong khí quyển. Mặt Trăng hình thành ngay sau đó cách đây khoảng 4,53 tỷ năm,[29] là kết quả của sự va chạm sượt qua giữa một vật thể có kích thước bằng Sao Hỏa (đôi khi được gọi là Theia) và có khối lượng bằng khoảng 10% khối lượng của Trái Đất, với Trái Đất.[30] Một phần khối lượng của vật thể này đã sáp nhập vào Trái Đất, phần còn lại bắn vào không gian theo một quỹ đạo phù hợp tạo ra Mặt Trăng.

Khoảng 3,5 tỷ năm trước, từ trường Trái Đất được hình thành. Khí thải và các hoạt động của núi lửa tạo ra các yếu tố sơ khai của bầu khí quyển. Quá trình ngưng tụ hơi nước gia tăng bởi băng và nước ở dạng lỏng được cung cấp bởi các thiên thạch và các tiền hành tinh lớn hơn, các sao chổi, và các vật thể ở xa hơn Sao Hải Vương tạo ra các đại dương.[31] Hai giả thiết chính về sự phát triển của các lục địa được đề xuất là:[32] phát triển từ từ cho đến ngày nay [33] hoặc nhanh chóng phát triển trong quá khứ.[34] Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng phương án thứ hai khả quan hơn, với tốc độ phát triển ban đầu nhanh của các lớp vỏ lục địa[35] theo sau bởi một quá trình phát triển diện tích lục địa chậm và dài.[36][37][38] Trong niên đại địa chất, khoảng thời gian hàng trăm triệu năm, bề mặt Trái Đất liên tục thay đổi hình dạng của chính nó dưới dạng các lục địa hình thành và phân rã. Các lục địa di chuyển trên bề mặt, đôi khi kết hợp với nhau để tạo thành một siêu lục địa. Khoảng 750 triệu năm trước, một trong những siêu lục địa được biết sớm nhất là Rodinia, đã bắt đầu chia tách. Các lục địa sau đó lại kết hợp với nhau để tạo ra Pannotia, 600 – 540 triệu năm trước, cuối cùng là Pangaea chia tách vào khoảng 180 triệu năm trước.[39]

Quá trình tiến hóa của sự sốngSửa đổi

Cho tới nay, Trái Đất là ví dụ duy nhất về một môi trường cho phép duy trì sự tiến hóa.[40] Người ta tin rằng các chất hóa học giàu năng lượng đã tạo ra các phân tử tự sao chép trong khoảng 4 tỷ năm trước đây, và trong nửa tỷ năm sau đó thì tổ tiên chung cuối cùng của các dạng sống trên Trái Đất bắt đầu xuất hiện.[41] Sự phát triển của khả năng quang hợp cho phép năng lượng Mặt Trời được hấp thụ trực tiếp bởi các dạng sống; và sau đó oxy sản phẩm tích tụ dần trong bầu khí quyển và hình thành tầng ôzôn (một hình thức phân tử khác của oxy - O3) ở tầng cao của bầu khí quyển. Sự tập hợp các tế bào nhỏ trong một tế bào lớn hơn dẫn đến quá trình phát triển các tế bào phức tạp gọi là các sinh vật nhân chuẩn.[42] Các sinh vật đa bào thực sự hình thành dưới dạng các tế bào trong một tập đoàn cá thể ngày càng trở nên chuyên môn hóa. Nhờ tầng ôzôn hấp thụ các bức xạ tia cực tím có hại, sự sống bắt đầu phát triển trên bề mặt Trái Đất.[43]

Kể từ thập niên 1960, đã có một giả thiết rằng hoạt động của các sông băng trong khoảng từ 750 đến 580 triệu năm trước, trong đại Tân Nguyên sinh, đã phủ một lớp băng lên bề mặt Trái Đất. Giả thiết được gọi là "Địa Cầu tuyết", và được đặc biệt quan tâm vì nó tiếp nối giả thiết về sự bùng nổ sự sống trong kỷ Cambri, khi sự sống đa bào bắt đầu tăng trưởng mạnh.[44] Sau sự bùng nổ ở kỷ Cambri, khoảng 535 triệu năm trước, đã xảy ra năm cuộc đại tuyệt chủng.[45] Cuộc đại tuyệt chủng cuối cùng diễn ra cách đây 65 triệu năm, xảy ra có thể là do một thiên thạch đâm vào Trái Đất, đã gây ra cuộc đại tuyệt chủng của khủng long và các loài bò sát lớn, nhưng bỏ qua các loài động vật có kích thước nhỏ như các loài động vật có vú, mà khi đó trông giống như chuột. Trong 65 triệu năm qua, các dạng sống máu nóng ngày càng trở nên đa dạng, và một vài triệu năm trước đây thì một loài động vật dáng vượn ở châu Phi đã có khả năng đứng thẳng.[46] Điều này cho phép chúng sử dụng công cụ và thúc đẩy giao tiếp cũng như cung cấp các chất dinh dưỡng và các yếu tố kích thích cần thiết cho một bộ não lớn hơn. Sự phát triển của nông nghiệp, và sau đó là sự văn minh, cho phép con người trong một khoảng thời gian ngắn gây ảnh hưởng đến Trái Đất nhiều hơn bất kì một dạng sống nào khác,[47] thậm chí cả tính chất cũng như số lượng của các loài sinh vật khác. Các thời kỳ băng hà bắt đầu từ 40 triệu năm trước và phát triển trong suốt thế Pleistocen vào khoảng 3 triệu năm trước. Chu kì hình thành và tan băng lặp đi lặp lại trong các vùng cực theo chu kì 40-100 nghìn năm. Thời kỳ băng hà gần đây kết thúc vào khoảng 10.000 năm trước.[48]

Tương laiSửa đổi

Vòng đời của Mặt Trời (tỉ năm), từ trái sang:
Bắt đầu - Hiện tại - Nhiệt độ tăng dần - Sao khổng lồ đỏ - Suy sụp hấp dẫn - Sao lùn trắng...

Tương lai của hành tinh này có quan hệ mật thiết với Mặt Trời. Là kết quả của sự tăng cường nguyên tử heli một cách từ từ trong lõi của Mặt Trời, độ sáng của ngôi sao này đang từ từ tăng lên. Độ sáng của Mặt Trời sẽ tăng 10% trong 1,1 tỷ năm tới, 40% trong 3,5 tỷ năm tới.[49] Các mô hình khí hậu chỉ ra rằng việc các tia phóng xạ chạm đến Trái Đất nhiều hơn sẽ tạo nên các hậu quả khủng khiếp, bao gồm sự biến mất của các đại dương.[50]

Sự tăng nhiệt độ trên bề mặt Trái Đất sẽ đẩy nhanh chu trình CO2 phi sinh học, giảm mật độ của khí này cho đến khi các loài thực vật chết (10 ppm đối với thực vật C4) trong vòng 900 triệu tới 1,2 tỷ năm. Sự thiếu hụt các loại cây xanh sẽ tạo ra hiện tượng thiếu oxy trong bầu khí quyển, khiến cho các loại động vật trên Trái Đất sẽ bị tuyệt chủng hoàn toàn trong vài triệu năm sau đó, sự sống sẽ chỉ còn lại các dạng đơn giản sống trong các túi nước nằm sâu trong lòng đất hoặc ở 2 vùng cực.[51] Tới 1,3 tỷ năm sau, các sinh vật nhân chuẩn sẽ tuyệt chủng, chỉ còn các sinh vật nhân sơ còn sống. Tới 2,8 tỷ năm sau, nhiệt độ Trái Đất sẽ lên tới 147 độ C ngay cả ở vùng cực, toàn bộ nước trên bề mặt sẽ biến mất và sự sống sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt[19] và nhiệt độ trung bình toàn cầu sẽ đạt tới 70°C.[51] Trái Đất được mong đợi rằng có thể hỗ trợ sự sống thêm 500 triệu năm nữa,[52] dù thời gian này có thể kéo 2,3 tỉ năm nếu nitơ được loại bỏ khỏi bầu khí quyển.[53] Cho dù Mặt Trời có tồn tại vĩnh cửu và không thay đổi, quá trình lạnh đi của Trái Đất sẽ khiến cho lượng CO2 giảm dần do sự suy giảm của các hoạt động núi lửa[54] và 35% nước của các đại dương lặn xuống lớp phủ do quá trình lưu thông hơi nước của sống núi giữa đại dương giảm.[55]

Mặt Trời, trong quá trình tiến hóa của nó, sẽ trở thành một sao khổng lồ đỏ trong khoảng 5 tỷ năm nữa. Các mô hình cho thấy rằng Mặt Trời sẽ mở rộng, tăng bán kính lên gấp 250 lần hiện tại, xấp xỉ 1 AU (150.000.000km).[49][56] Tương lai của Trái Đất kém rõ ràng hơn. Dưới dạng một sao khổng lồ đỏ, Mặt Trời sẽ mất đi 30% khối lượng, khiến cho, không tính đến các ảnh hưởng về thủy triều, Trái Đất sẽ chuyển đến quỹ đạo 1,7 AU (250.000.000km) so với Mặt Trời khi ngôi sao này đạt đến bán kính tối đa. Do đó người ta hy vọng rằng Trái Đất sẽ thoát khỏi được lớp không khí bao quanh Mặt Trời, dù rằng phần lớn, không phải tất cả, các loài sinh vật còn lại cũng sẽ nhanh chóng bị tuyệt chủng khi độ sáng của Mặt Trời tăng lên.[49] Nhưng, các mô phỏng gần đây cho thấy quỹ đạo của Trái Đất sẽ biến mất do tác dụng của thủy triều và lực hút, làm cho nó bị hút vào vùng bao quanh Mặt Trời và bị phá hủy.[56]