Ví dụ phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành

Hiện nay, theo pháp luật hình sự Việt Nam thì các giai đoạn thực hiện tội phạm là các bước trong quá trình phạm tội do cố ý, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành. Tùy vào mỗi giai đoạn phạm tội khác nhau mà mức độ truy cứu trách nhiệm hình sự cũng khác nhau. Trong bài viết này, Công ty Luật Quốc tế DSP cung cấp cho bạn đọc những thông tin cơ bản của giai đoạn phạm tội chưa đạt theo pháp luật hình sự Việt Nam.

Ví dụ phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành
Phạm tội chưa đạt theo pháp luật hình sự Việt Nam – Hình minh họa

1. Khái niệm phạm tội chưa đạt 

Điều 15 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định như sau:

“Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội”.

2. Các dấu hiệu của phạm tội chưa đạt 

Thứ nhất, người phạm tội đã bắt tay vào thực hiện tội phạm bằng việc thực hiện một trong hai hành vi:

– Thực hiện hành vi khách quan của tội phạm cụ thể. Ví dụ như A định giết B và đã đâm B nhưng mới chỉ đâm sượt qua vai của B thì bị bắt.

– Thực hiện hành vi đi liền trước hành vi khách quan của tội phạm cụ thể. Ví dụ như A định giết B nhưng mới chỉ vung tay lên để chém thì có người gần đó can ngăn, hay C mới chỉ giương súng lên để bắn D thì bị bắt.

Thứ hai, người phạm tội không thực hiện được tội phạm đến cùng, tức tội phạm chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu pháp lý được quy định trong cấu thành tội phạm. “Không thực hiện được tội phạm đến cùng” có nghĩa là không thực hiện được kết quả cuối cùng mà người phạm tội đã đặt ra, mong muốn nó xảy ra. Cách xác định tội phạm không thực hiện được đến cùng là căn cứ vào loại cấu thành tội phạm.

– Đối với tội phạm có cấu thành vật chất, tức là có dấu hiệu hậu quả trong mặt khách quan của tội phạm, “không thực hiện được tội phạm đến cùng” có nghĩa là hành vi phạm tội chưa gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội như dấu hiệu hậu quả được quy định trong cấu thành tội phạm đó. Ví dụ, người phạm tội giết người mong muốn giết chết nạn nhân nhưng chém trượt nên mới chỉ gây thương tích. Trong trường hợp này, mặc dù hành vi này đã gây thiệt hại nguy hiểm, ảnh hưởng đến sức khỏe của nạn nhân nhưng hậu quả gây thương tích cho nạn nhân không phải là hậu quả được quy định trong cấu thành tội phạm tại Điều 123 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là gây chết người.

– Đối với tội phạm có cấu thành hình thức, nghĩa là cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu hành vi mà không có dấu hiệu hậu quả, thì “không thực hiện được tội phạm đến cùng” là hành vi của người phạm tội chưa thỏa mãn hết các dấu hiệu hành vi trong mặt khách quan của tội phạm đó. Ví dụ, người phạm tội hiếp dâm đã dùng vũ lực đối với nạn nhân nhưng chưa giao cấu được thì bị bắt giữ. Trong trường hợp này, hành vi phạm tội chưa thỏa mãn hết hai dấu hiệu hành vi cơ bản quy định tại Điều 141 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể chống cự của nạn nhân và hành vi giao cấu, thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác.

Thứ ba, nguyên nhân tội phạm không thực hiện được đến cùng là do khách quan, ngoài ý muốn của người phạm tội. Khi bắt đầu thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp thì bao giờ người phạm tội cũng mong muốn cho hậu quả của tội phạm xảy ra. Tuy nhiên thì không phải bao giờ ý định, mong muốn của tội phạm cũng xảy ra mà nhiều lúc, có thể do nhiều yếu tố khách quan, ngoài ý muốn của người phạm tội như nạn nhân tránh được, có người can thiệp,…mà tội phạm không được thực hiện đến cùng.

3. Phân loại 

– Căn cứ vào mục đích thực hiện hành vi phạm tội của người thực hiện, phạm tội chưa đạt chia làm hai loại là phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành và phạm tội chưa đạt hoàn thành.

+ Phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành là trường hợp người phạm tội chưa thực hiện hết những hành vi mà người đó cho là cần thiết để hoàn thành tội phạm do những nguyên nhân ngoài ý muốn.

Ví dụ A định giết B và đã đâm B. Nhưng mới đâm được một nhát sượt qua bả vai thì bị bắt giữ nên không thể đâm tiếp như ý muốn. Kết quả B chỉ bị thương. Trong trường hợp này, người phạm tội biết hành vi của mình chưa thể gây hậu quả chết người mà mình mong muốn.

+ Phạm tội chưa đạt hoàn thành là trường hợp người phạm tội đã thực hiện hết hành vi mà người đó cho là cần thiết để hoàn thành tội phạm nhưng phạm tội chưa hoàn thành do nguyên nhân khách quan, ngoài ý muốn.

Ví dụ A định giết B và đã chém B nhiều nhát, A tin chắc rằng B đã chết nên không chém nữa nhưng B đã không chết do được phát hiện và cấp cứu kịp thời. Trong trường hợp này, người phạm tội tin là hành vi của mình đã gây ra hậu quả chết người mà mình mong muốn.

Trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là người phạm tội đã kết thúc hành vi phạm tội của mình và cho rằng những hành vi đó đã đủ và cần thiết để gây ra hậu quả của tội phạm, ý thức chủ quan của người phạm tội cũng tin rằng hậu quả tội phạm tất yếu sẽ xảy ra. Còn trường hợp phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành, người phạm tội chưa kết thúc hành vi của mình và ý thức chủ quan của họ cũng biết rằng hành vi của mình là chưa đủ để gây ra hậu quả của tội phạm. So với phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành thì phạm tội chưa đạt hoàn thành có mức độ thực hiện tội phạm gần nhất với tội phạm hoàn thành. Vì vậy, phạm tội chưa đạt đã hoàn thành có mức độ nguy hiểm nhất trong các trường hợp phạm tội chưa đạt. Bởi lẽ, một người đã thực hiện hết hành vi mặt khách quan của cấu thành tội phạm mà hậu quả vẫn không xảy ra hoặc hậu quả xảy ra nhưng đó không phải là ý muốn của người phạm tội. Do đó, trách nhiệm hình sự đối với trường hợp phạm tội chưa đạt đã hoàn thành cũng nặng hơn, nghiêm khắc hơn so với phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành.

– Căn cứ vào nguyên nhân dẫn đến tội phạm không thực hiện được đến cùng thì có thể chia phạm tội chưa đạt thành phạm tội chưa đạt vô hiệu và các trường hợp phạm tội chưa đạt khác.

+ Phạm tội chưa đạt vô hiệu là trường hợp phạm tội chưa đạt, trong đó do sai lầm trong việc đánh giá về đối tượng tác động, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm của người phạm tội nên tội phạm không thực hiện được đến cùng. Vì vậy, ở đây ta thấy có thể xảy ra các trường hợp sau:

Người phạm tội sai lầm trong việc đánh giá đối tượng tác động nên hoặc là không có đối tượng tác động như định trộm tiền trong két sắt của cơ quan nhưng không biết rằng tiền đã được chuyển đi nơi khác, định đâm chết người nhưng lại đâm trúng cái gối giả, hoặc đối tượng tác động không có những đặc tính người phạm tội nghĩ là có như đưa hối lộ nhầm cho người không giữ chức vụ, quyền hạn.

Người phạm tội đánh giá sai lầm về tính năng, tác dụng của những công cụ, phương tiện mà mình sử dụng, cho rằng chúng sẽ đem lại kết quả như mong muốn nhưng thực tế lại không phải như vậy. Ví dụ bắn người khác để giết họ nhưng đạn không nổ do bị hỏng. Trong khi người phạm tội tin và mong muốn đạn sẽ nổ và gây chết người nhưng thực tế đạn đã không nổ. Một ví dụ khác là A định giết B bằng thuốc độc và đã cho B uống thuốc nhưng B lại không chết vì đó là thuốc giả.

+ Các trường hợp phạm tội chưa đạt khác là trường hợp chưa đạt do nguyên nhân không liên quan đến phương tiện phạm tội và đối tượng tác động của tội phạm.

4. Trách nhiệm hình sự khi phạm tội chưa đạt

Ví dụ phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành
Trách nhiệm hình sự khi phạm tội chưa đạt – Hình minh họa

Từ những phân tích trên, ta thấy rằng nguyên nhân khiến tội phạm không thực hiện được đến cùng không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của người phạm tội mà là do yếu tố khách quan, yếu tố nằm ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội vẫn muốn thực hiện đến cùng các hành vi để đạt được kết quả là gây tổn hại và xâm phạm đến các quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Do vậy, tuy trên thực tế, phạm tội chưa đạt tuy chưa phải là hành vi thực hiện tội phạm hoàn thành nhưng đã phần nào xâm hại trực tiếp đến khách thể hoặc trực tiếp đe dọa gây hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Vì vậy, Điều 15 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định: “Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt”.

Theo đó, khoản 1, 3 Điều 57 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt như sau:

“Điều 57. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt

1. Đối với hành vi chuẩn bị phạm tội và hành vi phạm tội chưa đạt, hình phạt được quyết định theo các điều của Bộ luật này về các tội phạm tương ứng tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, mức độ thực hiện ý định phạm tội và những tình tiết khác khiến cho tội phạm không thực hiện được đến cùng.

3. Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt, nếu điều luật được áp dụng có quy định hình phạt cao nhất là tù chung thân hoặc tử hình thì áp dụng hình phạt tù không quá 20 năm; nếu là tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.”

Bên cạnh đó, Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cũng quy định về quyết định hình phạt trong trường hợp phạm tội chưa đạt đối với người dưới 18 tuổi tại khoản 1, 3 Điều 102 như sau:

Điều 102. Quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt

1. Tòa án quyết định hình phạt đối với người dưới 18 tuổi trong trường hợp chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt theo nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 57 của Bộ luật này.

3. Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần ba mức hình phạt quy định tại Điều 100 và Điều 101 của Bộ luật này.

Mức hình phạt cao nhất áp dụng đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội chưa đạt không quá một phần hai mức hình phạt quy định tại các Điều 99, 100 và 101 của Bộ luật này.”

5. Cơ sở pháp lý

– Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Bài viết trên đây chỉ mang tính chất tham khảo.

Mọi vướng mắc bạn vui lòng trao đổi trực tiếp với bộ phận luật sư tư vấn qua Hotline: 089 661 6767 / 089 661 7728 hoặc gửi qua Email:  để nhận được sự tư vấn, hỗ trợ tốt nhất từ Công ty Luật Quốc tế DSP.