Vì sao gọi nguyễn khuyến là tam nguyên yên đổ

Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (173.33 KB, 24 trang )

Tam Nguyên Yên Đổ - Nguyễn Khuyến
Nguyễn Khuyến lúc nhỏ tên là Thắng, sinh năm Ất Mùi (1835) ở quê
mẹ, làng Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định; nhưng ông lớn lên và
sống chủ yếu ở quê cha, làng Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Thủa nhỏ chăm học. Năm 17 tuổi, ông đi thi cùng một khóa với cha,
nhưng bị hỏng. Sau đó cha mất, nhà nghèo, Nguyễn Khuyến phải đi dạy
học để kiếm sống và nuôi mẹ. Ông nghè Vũ Văn Lí, học trò cũ của ông
bác Nguyễn Khuyến thương tình cảnh của Nguyễn Khuyến, đem về nuôi
cho ăn học tiếp.
Năm 1864, Nguyễn Khuyến thi hương đậu giải nguyên (đậu đầu); năm
sau thi hội bị hỏng, ông vào kinh theo học trường Quốc Tử Giám. Năm
1871, ông thi lại lần nữa và đỗ liền cả Hội nguyên và Đình nguyên.
Nguyễn Khuyến đậu đầu cả ba kỳ nên người ta thường gọi ông là ông
Tam nguyên hay Tam nguyên Yên Đỗ.
Ông Tam nguyên Yên Đỗ đã từng làm ở nội các Huế, rồi làm Đốc học
Thanh Hóa, Án sát Nghệ An, rồi Biện lí bộ Hộ, Thời gian Nguyễn
Khuyến ra làm quan, Pháp đánh chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ và đang đánh
ra miền Bắc.
Cuối năm 1883, Nguyễn Khuyến được cử làm quyền Tổng đốc Sơn Tây
thay cho Tổng đốc Nguyễn Đình Nhuận đã bỏ Sơn Tây lên Hưng Hóa
chống thực dân Pháp, nhưng Nguyễn Khuyến từ chốị Sau đó Hoàng Cao
Khải Kinh lược sứ Bắc Kì mời ông đến nhà dạy học, rồi Lê Hoan - Tuần
phủ Hưng Yên tổ chức thu vịnh Kiều cũng mời ông làm giám khảọ
Hoàng Cao Khải, Lê Hoan là những kẻ cộng tác với thực dân Pháp. Từ
chối lời mời của họ ông biết sẽ sinh chuyện lôi thôi nên đành miễn
cưỡng nhận lờị
Nguyễn Khuyến làm quan tất cả hơn 10 năm, rồi từ quan về nhà. Phần
lớn cuộc đời của Nguyễn Khuyến là ở thôn quệ Ông mất năm 1909, thọ
75 tuổị
SỰ NGHIỆP THƠ CA:
Sáng tác của Nguyễn Khuyến hầu hết được làm sau lúc từ quan, hiện


còn khoảng hơn 400 bài, gồm thơ, văn, câu đối bằng chữ Hán và chữ
Nôm. Có bài ông viết bằng chữ Hán rồi tự dịch ra chữ Nôm, cả hai đều
rất điêu luyện. Sáng tác của ông chủ yếu xoay quanh ba nội dung:
- Bộc bạch tâm sự của mình;
- Viết về con người, cảnh vật và cuộc sống ở quê hương - một vùng
đồng chiêm nghèo ở Bắc Bộ;
- Chế giễu, đả kích những kẻ tham lam, ích kỉ, tùy thời, cơ hội lúc bấy
giờ.
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ được đào tạo theo khuôn mẫu của đạo
đức của Nho giáọ Đối với ông, con người sinh ra ở đời sau khi học hành,
đỗ đạt thì phải ra làm quan để "thờ vua giúp nước", thực hiện nghĩa vụ
"trí quân trạch dân" (vừa giúp vua, vừa làm cho dân được nhờ) mà đạo
lý nhà nho đã quy định.
Trong một thời buổi bình thường chắc Nguyễn Khuyến sẽ trở thành một
ông quan thanh liêm, mẫu mực. Nhưng thời Nguyễn Khuyến sống, Pháp
đang đánh chiếm Việt Nam, triều đình vì bạc nhược nên đã lần lượt đầu
hàng giặc. Trong một bối cảnh như thế nếu Nguyễn Khuyến cứ làm
quan thì không khác nào tiếp tay cho giặc, đó là điều mà các nhà nho
chân chính rất sợ. Nguyễn Khuyến lúng túng trong thái độ ứng xử. Cuối
cùng ông quyết định từ quan.
Trong thơ ông có rất nhiều bài thể hiện cái tâm trạng ấỵ Lúc đầu ông do
dự "mình bỏ nước về nhưng bạn bè đâu phải không có người ở lạị Và về
như thế chắc gì con cháu đã khen".
Về sau ông mới dứt khoát cho rằng lui về là phải, và ông tiếc là một số
bạn bè đã không hành động như ông. Có điều thời cuộc thì mỗi ngày
một xấụ Thực dân Pháp ngày một lấn tới, bọn cơ hội, tùy thời lúc đầu
còn rụt rè, về sau thì công khai ra cộng tác với giặc. Nguyễn Khuyến
cảm thấy buồn vô hạn. Ông viết về tiếng con cuốc kêu và đó cũng là
tiếng lòng của ông đối với non sông đất nước:
Năm canh máu chảy đêm hè vắng,


Sáu khắc hồn tan bóng nguyệt mờ.
Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,
Hay là nhớ nước vẫn nằm mợ
Và cho đến lúc nghĩ là mình sắp từ giã cuộc đời, trong bài Di chúc, ông
vẫn nói:
Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹo trời!
Phần lớn cuộc đời của Nguyễn Khuyến là ở nông thôn. Quê ông là một
miền đồng chiêm nghèo trũng nước. Nguyễn Khuyến sống ở quê và
quan hệ thân tình với mọi ngườị Ông làm thơ tặng bạn bè, tặng anh vợ,
tặng ông hàng thịt, làm câu đối viếng người làng, viếng người thợ
rèn, mừng đám cưới, mừng nhà mới, Nguyễn Khuyến viết nhiều về
con người, về thiên nhiên, cảnh vật ở nông thôn. Trước Nguyễn
Khuyến, trong văn chương Việt Nam thỉnh thoảng có những tác phẩm
viết về nông thôn, nhưng hình ảnh nông thôn trong văn học nói chung
còn mờ nhạt. Có thể nói, với Nguyễn Khuyến lần đầu tiên nông thôn
Việt Nam mới thực sự đi vào văn học.
Nguyễn Khuyến xứng đáng được gọi là nhà thơ của nông thôn. Dưới
ngòi bút của ông, cuộc sống ở nông thôn dường như lúc nào cũng khó
khăn, túng thiếu:
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa,
Chợ búa, trầu cau chẳng dám mua .
(Chốn quê)
Nỗi ám ảnh thường xuyên của người nông thôn là lo mất mùa, lụt lội:
Năm nay cày cấy vẫn chân thua,
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùạ
(Chốn quê)
Hay:
Quai Mễ Thanh Liêm đã vờ rồi,
Vùng ta thôi cũng lụt mà thôị


(Nước lụt Hà Nam)
Ngày tết đến, nếu là năm được mùa thì còn có chút vui:
Trong nhà rộn rịp gói bánh chưng,
Ngoài cửa bi bô rủ chung thịt.
(Cảnh tết)
nhưng chẳng may gặp năm mất mùa thì tết nhất lại càng thê thảm:
Dở trời mua bụi còn hơi rét,
Nếm rượu tường đền được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
(Chợ Đồng)
Trong thơ Nguyễn Khuyến, thiên nhiên được miêu tả cũng là một thiên
nhiên nông thôn rất rõ. Cảnh mùa thu trong thơ của ông không phải là
mùa thu ở miền nào, thời nào, mà là mùa thu ở quê ông, vùng đông
chiêm Bắc Bộc lúc bấy giờ. Ta có thể nhận thấy điều ấy qua cái màu
"xanh ngắt" của bầu trời, đến cái nước "trong veo" của ao cá; hay từ
cái "Lưng giậu phát phơ màu khói nhạt, Làn ao lóng lánh bóng trăng
loe". Và cũng phải đến Nguyễn Khuyến, trong thơ Việt Nam mới có
những bữa trưa đặc biệt nông thôn như:
Chuông trưa vẳng tiếng người không biết,
Trâu thả sườn non ngủ gốc câỵ
(Nhớ cảnh chùa Đọi)
Viết về nông thôn với những tình cảm đằm thắm như thế, không phải
trước mà sau Nguyễn Khuyến cũng hiếm có người nào viết được như
ông.
Một mảng sáng tác khác cũng rất có giá trị của Nguyễn Khuyến là mảng
thơ trào phúng, đả kích. Nguyễn Khuyến thấy khá rõ cái xấu của xã hội
đương thờị Là một nhà nho đã từng làm quan, ông chú ý trước hết đến
cái xấu của đám nho sĩ, của bọn quan lạị Đi thi, làm quan trong thời
buổi nước mất nhà tan thì có gì là thực chất, thì làm được việc gì? Ông


gọi là "tiến sĩ giấy", là "phỗng đá", là anh hề chèọ Ông vạch trần bọn
quan lại chỉ lo cho túi mình đầy ắp và bất chấp tất cả mọi sự khen che
của dư luận. Ông đả kích thói rởm đời lố lăng, thứ con đẻ của cã hội
thực dân. Ngòi bút đả kích của Nguyễn Khuyến trở nên chua xót, cay
đắng khi ông thấy chính nhân dân bị bọn thực dân lừa gạt đã tham gia
một cách vô ý thức vào những trò chơi làm hạ phẩm giá của mình. Ông
tả cảnh ngày "Hội Tây" lúc bấy giờ và kết luận:
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêụ
Thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến ngoài bộ phận hướng vào cái xấu
của cã hội để đả kích, ông còn dành một số bài để tự chế giễu cái bất
lực, cái bạc nhược của bản thân mình. Trong những bài thơ này, cái
cười của ông thường trở nên chua chát, tội nghiệp.
Thơ Nguyễn Khuyến không những có nội dung thâm thúy mà nghệ
thuật cũng rất đặc đắc. Ông là người đã đưa chất trào phúng vào thờ
chữ Hán, và dùng cả "điển cố" lấy từ ca daọ
Trong thơ Nôm của Nguyễn Khuyến, ngôn ngữ dân tộc được nhà thơ sử
dụng là thứ ngôn ngữ hằng ngày giải dị, nhưng rất sinh động, tinh tế,
Nhà thơ khai thác được giá trị tạo hình của nhiều từ lấp láỵ Bút pháp
của Nguyễn Khuyến trong thơ về cơ bản là hiện thực trữ tình, thỉnh
thoảmg có điểm xuyết những yếu tố trào phúng. Cái cười trong thơ
Nguyễn Khuyến không vang lên thành tiếng, mà thường là cái cười kín
đáo, thâm trầm. Ông đã sử dụng hầu hết các thể loại thơ ca cổ mà thể
loại nào cũng rất thành công
================================
Thu Vịnh
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiụ
Nước biếc trông như tầng khói phủ
Song thưa để mặc ánh trăng vàọ


Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào ?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông đàọ (1)
(1) Ông đào: tức đào Tiềm, tự Uyên Minh, từ quan về ở ẩn đời nhà Tấn,
nổi tiếng thanh caọ
Thu điếu
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teọ
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèọ
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo,
Tựa gối, buông cần lâu chẳng được.
Cá đâu đớp động dưới chân bèọ
Thu Ẩm
Năm gian nhà cỏ thấp le te,
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòẹ
Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt,
Làn ao lóng lánh bóng trăng loẹ
Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt ?
Mắt lão không vầy cũng đỏ hoẹ
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy,
độ năm ba chén đã say nhè.
Ngày Xuân Răn Con Cháu
Tuổi thêm thêm được tóc râu phờ
Nay đã năm mươi có lẻ ba !
Sách vở ích gì cho buổi ấy ?
Áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
Xuân về ngày loạn còn lơ láo,


Người gặp khi cùng cũng ngất ngợ
Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng ?
Sao con đàn hát vẫn say sưa
Về Hay Ở
Văng vẳng tai nghe tiếng chích chòe;
Lặng đi kẻo động khách lòng quệ
Nước non có tớ càng vui vẻ,
Hoa nguyệt nào ai đã đắm mê ?
Quyên đã gọi hè quang quác quác,
Gà từng gáy sáng tẻ tè tẹ
Lại còn giục giã về hay ở ?
Đôi gót phong trần vẫn khỏe khoe
Lên Lão
Ông chẳng hay ông tuổi đã già,
Năm lăm ông cũng lão đây mà.
Anh em làng xóm xin mời cả,
Xôi bánh, trâu heo cũng gọi là.
Chú Đáo bên làng lên với tớ,
Ông Từ xóm chợ lại cùng tạ
Bây giờ đến bậc ăn dưng nhỉ,
Có rượu thời ông chống gậy rạ
Tự Trào
Cũng chẳng giàu mà cũng chẳng sang,
Chẳng gầy, chẳng béo chỉ làng nhàng.
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.
Mở miệng nói ra gàn bát sách,
Mềm môi chén mãi tít cung thang.
Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.


Tự Thuật
Tháng ngày thấm thoát tựa chim bay,
Ông ngẫm mình ông, nghĩ cũng haỵ
Tóc bạc bao giờ không biết nhỉ ?
Răng long ngày trước hãy còn đâỵ
Câu thơ được chửa, thưa rằng được,
Chén rượu say rồi, nói chửa saỵ
Kẻ ở trên đời lo lắng cả,
Nghĩ ra ông sợ cái ông nà
Mẹ Mốc
So danh gía ai bằng Mẹ Mốc,
Ngoài hình hài, gấm vóc cũng thêm ra,
Tấm hồng nhan đem bôi lấm xoá nhoà,
Làm thế để cho qua mắt tục.
Ngoại mạo bất cầu như mỹ ngọc,
Tâm trung thường thủ tự kiên kim. (1)
Nhớ chồng xa muôn dặm khôn tìm ,
Giữ son sắt cho tròn một tiết.
Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết,
Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ;
Đắp tai, ngoảnh mặt làm ngơ,
Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thâỵ
Khôn em dễ bán dại này ! (2)
(1) Ngoài mặt không cần đẹp như ngọc; Trong lòng vẫn giữ bền như
vàng.
(2) Mẹ Mốc quê ở gần làng Yên Đổ. Cô còn trẻ, có nhan sắc, có vốn
liếng, mà chồng lại đi xạ Trong hạt nhiều chàng chòng ghẹo toan ép
liễu nài hoạ Cô bèn giả điên dại, thoa tro than vào người, xé rách quần
áo, chủ ý che mặt bọn kia để khỏi bị quấy nhiều trong khi chờ chồng về.
Nguyễn Khuyến sau khi cáo quan về nghỉ ở nhà, người Pháp luôn tìm


mọi cách để mời ông ra giúp. Ông phải viện mọi lẽ để từ chốị Nhân thất
Mẹ Mốc giả điên dại, ông bèn làm bài ca trù này để ký thác tâm sự của
mình
Ông Phỗng Đá
Ông đứng làm chi đó hỡi ông ?
Trơ trơ như đá, vững như đồng.
Đêm ngày gìn giữ cho ai đó ?
Non nước đầy vơi có biết không ?
Hỏi Phỗng Đá
Mưỡu
Người đâu tên họ là chi ?
Hỏi ra trích trích tri tri (1) nực cườị
Vắt tay ngoảnh mặt trông đời,
Cũng toan lo tính sự đời chi đây ?
Nói
Thấy lão đá lạ lùng muốn hỏi,
Cớ sao mà len lỏi đến chi đây ?
Hay mảng vui hoa cỏ nước non này,
Chừng cũng muốn dang tay vào hội Lạc (2)
Thanh sơn tự tiếu đầu tương hạc,
Thương hải thùy tri ngã diệc âụ (3)
Thôi thôi đừng nghĩ chuyện đâu đâu,
Túi vũ trụ mặc đàn sau gánh vác.
Duyên hội ngộ là duyên tuổi tác,
Chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác,
Cuộc tỉnh say, say tỉnh một vài câu,
Nên chăng đá cũng gật đầu !(4)
(1) trích trích tri tri: trơ trơ không chuyển.
(2) hội Lạc: đời nhà Tống, Tiến sĩ Văn Ngạn Bác, làm quan đến Thái sư,
khi về hưu trí nhà ở Lạc Dương, cùng với Tư Mã Quang, Phú Bật và


nhiều học giả cao niên khác lập ra Lạc Dương Kỳ Anh Hội để đàm đạo
văn chương.
(3) Núi xanh tự cười đầu sắp trắng như chim hạc; Biển xanh ai biết ta
cũng như chim âu (ý ví người ẩn dật). Ý lấy từ hai câu thơ của Trương
Dưỡng Hạo đời nhà Nguyên:
Vân sơn tự tiếu đầu tương hạc
Doanh hải thùy tri ngã diệc âu
(4) Tương truyền Nguyễn Khuyến làm bài ca trù Hỏi Phỗng Đá này
trong buổi lễ mừng thọ năm mươi của quan Kinh lược sứ Hoàng Cao
Khảị
Đêm Mùa Hạ
Tháng tư đầu mùa hạ,
Tiết trời thật oi ả.
Tiếng dế kêu thiết tha,
Đàn muỗi bay tơi tả.
Nỗi ấy biết cùng ai ?
Cảnh này buồn cả dạ
Biếng nhắp năm canh chầy,
Gà đà sớm giục giã.
Hội Tây
Kìa hội thăng bình tiếng pháo reo
Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo !
Bà quan tênh hếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom ghé hát chèọ
Cậy sức, cây đu nhiều chị bám;
Tham tiền, cột mỡ lắm anh leọ
Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu, nhục bấy nhiêụ
Vịnh Kiều
Kiều nhi giấc mộng, bặt như cười


Tỉnh dậy: xuân sanh quá nửa rồi !
Số kiếp bởi đâu mà lận đận ?
Sắc tài cho lắm cũng lôi thôị
Cành hoa vườn Thúy duyên còn bén,
Giọt nước sông Tiền nợ chửa xuôị
Không trách chàng Kim đeo đẳng mãi,
Khăng khăng vớt lấy một phần đuôị
Văn Tế Ngạc-Nhi
Than ôi !
Một phút sa cơ
Ra người thiên cổ
Nhớ ông xưa:
Cái mắt ông xanh,
Cái da ông đỏ,
Cái tóc ông quăn,
Cái mũi ông lõ,
Đít ông cưỡi lừa
Miệng ông huýt chó.
Lưng ông đeo súng lục liên,
Chân ông đi giầy có mỏ.
Ông ở bên Tây,
Ông sang đô hộ.
Đánh giặc Cờ Đen,
Để yên con đỏ.
Nào ngờ:
Nó bắt được ông,
Nó chặt mất sỏ.
Cái đầu ông đây
Cái mình ông đó.
Khốn nạn thân ông,


Đù cha mẹ nó !
Tôi :
Vâng lệnh quan trên,
Cúng ông một cỗ,
Này chuối một buồng
Này rượu một hũ,
Này xôi một mâm,
Này trứng một rổ,
Ông có linh thiêng,
Mời ông xơi hộ,
Ăn uống no say,
Nằm yên một chỗ.
Ối ông Ngạc Nhi ôi !
Nói càng thêm khổ.
Bạn Đến Chơi Nhà
Đã bấy lâu nay bác tới nhà,
Trẻ thì đi vắng, chợ thời xạ
Ao sâu, sóng cả, khôn chài cá;
Vườn rộng rào thưa, khó đuổi gà.
Cải chửa ra cây, cà mới nụ;
Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoạ
Đầu trò tiếp khách, trầu không có,
Bác đến chơi đây, ta với tạ
Vịnh Tiến Sĩ Giấy
I
Rõ chú hoa man (1) khéo vẽ trò,
Bỡn ông mà lại dứ thằng cụ
Mày râu mặt đó chừng bao tuổi,
Giấy má nhà bay đáng mấy xu ?
Bán tiếng mua danh thây lũ trẻ,


Bảng vàng bia đá vẫn nghìn thụ
Hỏi ai muốn ước cho con cháu,
Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tụ
II
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đaị
Cũng gọi ông nghè có kém aị
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng, (2)
Nét son điểm rõ mặt văn khôị (3)
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ ?
Cái giá khoa danh thế mới hờị (4)
Ghế tréo, lọng xanh, ngồi bảnh chọe,
Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơị
(1) hoa man: người thợ làm nghề hàng mã.
(2) giáp bảng: bảng đề tên từ học vị tiến sĩ (thi đình) hay cử nhân (thi
hương) trở lên. Trái với ất bảng đề tên những người đỗ phó bảng (thi
đình) hay tú tài (thi hương).
(3) văn khôi: đầu làng văn, chỉ người đỗ đạc cao
Khóc Bạn
Bác Dương thôi đã thôi rồi,
Nước mây man mác ngậm ngùi lòng tạ
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhaụ
Kính yêu từ trước đến sau:
Trong khi gặp gỡ, khác đâu duyên trờị
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách;
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèọ
Có khi từng gác cheo leo,
Khúc vui con hát lựa chiều cầm xoang.
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp:
Chén quỳnh tương (1) ăm ắp bầu xuân.


Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích điển phần (2) trước saụ
Buổi dương cửu (3) cùng nhau hoạn nạn,
Miếng đẩu thăng (4) chẳng dám than trời,
Tôi già, bác cũng già rồi:
Biết thôi, thôi thế thời thôi mới là.
Đường đi lại, tuổi già thêm nhác,
Trước ba năm , gặp bác một lần,
Cầm tay, hỏi hết xa gần,
Mừng rằng bác vẫn tinh thần chưa can.
Tuổi tôi kể còn hơn tuổi bác,
Tôi lại đau trước bác mấy ngày,
Làm sao bác vội về ngay,
Chợt nghe tôi những chân tay rụng rời !
Ai chả biết chán đời là phải,
Vội vàng chi đã mải lên tiên.
Rượu ngon, không có bạn hiền,
Không mua, không phải không tiền không muạ
Câu thơ nghĩ đắn đo không viết,
Viết đưa ai, ai biết mà đưạ
Giường kia treo những hững hờ, (5)
Đàn kia gảy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn !
Bác chẳng ở, dẫu van chẳng ở;
Tôi tuy thương, lấy nhớ làm thương,
Tuổi già, hạt lệ như sương,
Hơi đâu ép lấy hai hàng chưá chan
Thơ Nguyễn Khuyến
1. Nguyễn Khuyến (1835-1909) là một trong những cây đại thụ của văn học dân tộc. Tuy
bóng mát của cây đại thụ ấy không rợp bóng thời gian suốt bao thế kỷ như Nguyễn Trãi,
Nguyễn Du, nhưng gốc rễ của nó đã ăn sâu vào đất Việt, góp phần tạo nên tâm hồn dân


Việt.
Nguyễn Khuyến là nhà thơ cuối thế kỷ thứ XIX nhưng ông vẫn còn viết cho đến tận những
năm đầu thế kỷ XX trên chặng đường chuyển tiếp hai thời kỳ văn học từ trung đại bước
sang cận đại. Ông là một trong những đại diện lớn nhất và cuối cùng của văn học Việt
Nam trung đại, người chứng kiến những bước thăng trầm bi thương vào loại bậc nhất của
lịch sử dân tộc, tận mắt chứng kiến sự thất bại của triều đình nhà Nguyễn và các phong
trào yêu nước trước một kẻ thù hoàn toàn xa lạ và ông cũng là người nhận thấy một cách
đau xót nhất sự sụp đổ của một hệ tư tưởng đã lỗi thời, cũng như sự bất lực đến hài hước
của một loại hình tri thức đại diện cho hệ tư tưởng ấy trước thực tế lịch sử.
Tưởng rằng cùng với sự kết thúc của thể chế xã hội lạc hậu ấy, nền văn học
Việt Nam trung đại sẽ rơi vào ngõ cụt của sự bế tắc với một phương thức phản ánh đã lỗi
thời. Nhưng thật kỳ lạ là từ trong sự suy thoái tưởng chừng đã đến đỉnh điểm lại xuất hiện
một tài năng thơ ca vào loại xuất chúng như Nguyễn Khuyến. Ông giống như một dấu
chấm cảm thán khẳng định tính cổ điển có sức làm lay động lòng người của văn học trung
đại vào giai đoạn cuối cùng của thời kỳ văn học dài hàng chục thế kỷ này của dân tộc.
Nguyễn Khuyến là vị đại diện khá tiêu biểu cho lớp người do xã hội phong kiến đào tạo.
Ông quyết chí đi thi và đỗ đầu cả ba kỳ thi, được vua Tự Đức ban cờ hiệu và hai chữ Tam
Nguyên, tài năng lừng lẫy một thời. Nhưng số người đỗ đạt cao mà tên tuổi lưu truyền cho
đến hậu thế như Nguyễn Khuyến không phải là nhiều bởi Nguyễn Khuyến đã thể hiện tài
năng của mình ở cả hai phương diện: tài học và tài thơ văn, cả hai đều xuất sắc. Cái trước
là cái của một thời, còn cái sau là cái của muôn đời. Ông không phải là anh hùng dân tộc
như Nguyễn Trãi, nỗi niềm của ông có điểm gần với Nguyễn Du: đều phải làm những việc
miễn cưỡng, đều có những nỗi dằn vặt có lẽ không tiện nói ra và đều mong hậu thế hiểu
cho lòng mình, cho nỗi khó xử của mình. Đó là những nhân cách lớn của lịch sử. Họ là
những người mang ơn sâu lặng của chế độ xã hội đã đào tạo và tôn vinh mình và đến khi
đạt đến đỉnh cao của vinh quang cũng là lúc họ chợt nhận ra mặt trái đen tối của xã hội mà
mình nguyện đem hết sức mình ra phụng sự, tôn thờ. Đó là một xã hội đang suy thoái, đày
đọa con người (thời Nguyễn Du); cũng vẫn xã hội đó nhưng đến lúc đã hết thời, hết vai trò
lịch sử và đi ngược lại lòng dân, đi ngược lại quyền lợi dân tộc (thời Nguyễn Khuyến).
Không phải người tri thức nào trong cơn phong ba của lịch sử cũng nhận ra được bộ mặt


thật của giai cấp mình, thừa nhận sự bất lực của nó trước lịch sử. Nguyễn Khuyến lớn
chính vì ông là một trong rất ít trí thức thời kỳ ấy sớm nhận ra sự bất lực của giai cấp
mình, của vốn học vấn được đào tạo theo kiểu "kinh bang tế thế" của mình trước thực tế
lịch sử, đem ra trào phúng, châm biếm thần tượng cao nhất của cả một thể chế xã hội đã
tồn tại hàng ngàn năm - ông Tiến sĩ, nay đã trở thành thứ đồ chơi bằng giấy để “dử thằng
cu”.
“Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi"
(Vịnh Tiến sĩ giấy)
Thật là một hình ảnh thảm hại! Giá trị phê phán càng trở nên sâu sắc hơn khi bản thân sự
phê phán lại chính là sự tự phê phán tự trào. Bởi trong số những “ông nghè tháng Tám ”
hết thời ấy có cả bản thân ông Tam nguyên làng Yên Đổ. Có lẽ Nguyễn Khuyến là người
tri thức đầu tiên trong thời đại ông có được cái nhìn như vậy. Con người ta tự hài hước
mình, tư “bôi nhọ” mình, tự hạ bệ và tự “ăn thịt mình” khó lắm, nhất là lúc mình đang ở
đỉnh cao của vinh quang, sự tự mãn, chủ quan, hoa mắt vì danh vọng là chuyện thường
tình. Biết rằng mình cũng có “khuyết điểm”, cũng có hạn chế đã là khó, biết dũng cảm
nhận “khuyết điểm” và sửa chữa hạn chế còn khó hơn. Còn việc dám đem cái lỗi thời của
mình ra để “nhạo báng”, châm biếm thì không phải ai, không phải giai cấp nào cũng dám
làm:
“Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng”
(Tự trào)
Ông cay đắng nhận thấy cả xã hội từ trên xuống dưới là một sân khấu hề mà những diễn
viên chính không ý thức được sự lố bịch gây cười của mình
“Vua chèo còn chẳng ra gì
quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề "
(Lời vợ người hát chèo)
Nhưng điều còn cay đắng hơn là Nguyễn Khuyến nhận ra bản thân mình cũng là một
"quan nhọ". Tính bi hài của hình tượng văn học như vậy càng trở nên sâu sắc gấp bội. Ông
chính là vị Tiến sĩ giấy, quan chèo, phỗng đá, ông cũng chính là bậc "ăn dưng", lão già già


điếc, v.v. Có lẽ Nguyễn Khuyến là nhà thơ có những bài thơ tự trào vào loại sâu sắc nhất
trong văn học Việt Nam, người giã từ thế kỷ XIX bằng những bài thơ cười ra nước mắt
“Năm canh máu chảy đêm hè vắng”. Sắc điệu thẩm mỹ này có phần mờ nhạt hơn trong thơ
trào phúng của Tú Xương- nhà thơ lớn cùng thời với ông.
Màu sắc trữ tình rất đậm đà trong thơ trào phúng Nguyễn Khuyến đã tạo nên những âm
hưởng trào phúng đa dạng. Buồn là âm hưởng rõ nét xuyên suốt đời thơ Nguyễn Khuyến.
Thơ ông thời kỳ về ở ẩn hiếm bài có tâm trạng vui. Ngay cả ba bài thơ thu nổi tiếng của
ông cung chứa đựng một nỗi buồn mang mác thắm đượm trong từng chi tiết, từng hình
ảnh. Nỗi buồn ấy thể hiện nhân cách của một ngòi bút trước tình cảnh đất nước, trước
những thăng trầm của cuộc đời, nó cũng làm nên vẻ đẹp thơ Nguyễn Khuyến.
Thơ văn trào phúng Việt Nam phải đến Nguyễn Khuyến và Tú Xương mới trở thành một
dòng thật sự. Phải nói rằng sự thông minh hóm hỉnh và cái “tạng” của Nguyễn Khuyến rất
phù hợp với thơ trào phúng. Ở rất nhiều bài thơ của ông già Yên Đổ chúng ta đều thấy
thấp thoáng một nét cười hóm hỉnh đằng sau những câu chữ. Trong những bài thơ trào
phúng của mình ông thường tóm tắt được ở đối tượng những điểm yếu gây cười hết sức
sắc sảo, lột tả được bản chất của hiện tượng cần trào phúng. Nhưng thơ Nguyễn Khuyến,
kể cả thơ trào phúng đều mang tính tư tưởng rõ rệt. Một số bài thơ còn thể hiện một cách
nhìn khách quan mới mẻ so với các nhà thơ đương thời. Khác với nhiều nho sĩ có quan
điểm cực đoan lúc bấy giờ, Nguyễn Khuyến không chỉ nhìn thấy mặt xấu xa của giặc Pháp
bên cạnh việc tố cáo cái gọi là “khai hoá văn minh” của kẻ thù đã đày đọa thân phận bao
người dân vô tội vào nơi “rừng xanh núi đỏ hơn ngàn dặm”, tố cáo hành động ăn cướp
“khoét rỗng ruột gan trời đất cả” (Hoài cổ) của non sông đất nước mình, ông còn nhìn thấy
cái “khéo”, cái giỏi của xứ người qua hội “đấu xảo”
“Thi khéo bày ra kể có vần
Khéo mà lại mới, khéo vô ngân ”
Ở đây một lần nữa chúng ta lại được chứng kiến cái nhìn tỉnh táo, khách quan của Nguyễn
Khuyến khi ông đem “quan” ra trưng bày như một giống vật lạ của xứ thuộc địa trong sự
đối lập hài hước với những thứ tinh xảo “khéo mà lại mới” của xứ người:
“Xứ tôi xoàng xĩnh không gì khéo,
Tượng gỗ cân đai tạm góp phần”


Nguyễn Khuyến, mặc dù chưa được tiếp cận với những tư tưởng mới của thời đại, với tân
thư như thế hệ tri thức sau ông, nhưng bằng những tình cảm nhạy bén của một tài năng thơ
xuất chúng ông đã phần nào nhìn thấy những mặt mâu thuẫn, hạn chế của giai cấp và xã
hội đã sản sinh ra ông. Những điều ấy phải vài năm sau mới được các nhà tân thư, các chí
sỹ cách mạng làm sáng tỏ. Rõ ràng là những vần thơ của Nguyễn Khuyến mang tính tư
tưởng, cho dù ngay chính bản thân nhà thơ cũng chưa ý thức đầy đủ điều đó. Đó là những
báo hiệu cho sự cáo chung của một hệ tư tưởng đã lỗi thời, sự thừa nhận tư tưởng trung
quân đã mất vai trò lịch sử, điều mà các nhà nho trước ông, ngay cả những người từ quan
về ở ẩn, lẫn những sĩ phu, văn thần trong phong trào Cần vương cũng chưa làm được. Điều
đó lý giải cách tiếp cận mới mẻ trong phong thơ Nguyễn Khuyến; nó vừa như một sự tiếp
tục truyền thống lại như một sự bứt lên tách khỏi truyền thống.
2. Dằn vặt đau đớn vì mình không làm được người anh hùng nơi hòn tên mũi đạn như bao
nghĩa sĩ Cần vương khác, Nguyễn khuyến hết sức cảm phục hành động xả thân vì nghĩa
lớn của các bạn bè đồng liên và thẹn cho mình còn “dủng dẳng” (thoan tuần) không theo
được họ (Đêm xuân thương con thiêu thân). Về mặt này Nguyễn Khuyến là một con người
cô độc, ông luôn sợ mọi người không hiểu và coi thường mình. Nỗi niềm đau đớn cho
mình là kẻ bỏ cuộc, chạy làng luôn dằn vặt ông cho đến tận những ngày cô đơn cuối đời.
“Cờ dang dở cuộc không còn nước
Bạc chưa thâu canh đã chạy làng”
Nguyễn Khuyến trở về vườn Bùi, nơi anh khóa Thắng (tên của nhà thơ lúc nhỏ khi đi thi
Hội không đỗ đổi thành Khuyến) đã hăm hở bước chân vào con đường hoan lộ, quyết giật
cho được ngôi vị cao nhất chốn trường ốc. Đó là sự trở về không hề đơn giản chứa đựng
trong đó biết bao nhiêu dằn vặt nghĩ suy. Bởi một con người khác trong ông vẫn còn hăm
hở với đời lắm, chừng vẫn còn nuối tiếc muốn “đan tay vào hội lạc”, không muốn vứt bỏ
một cách dễ dàng những gì mình phải khó nhọc bao năm trời mới giành giật được từ cuộc
đời. Nhưng may mắn thay cho lịch sử văn học dân tộc, “con người thứ hai” lớn hơn, con
người đầy nhân cách và trách nhiệm với non sông đất nước, con người tỉnh táo trước thực
tế lịch sử trong Nguyễn Khuyến đã chiến thắng. Sự trở về vườn Bùi của Tam nguyên Yên
Đổ là sự thể hiện sáng rõ của một nhân cách, là sự bất hợp tác với kẻ thù dân tộc. Và cao
hơn là sự từ bỏ phần nào nhưng không kém day dứt với tư tưởng trung quân đã lỗi thời,


với một hệ tư tưởng đã không còn hấp dẫn. Trở về làng quê là tìm về với sự thanh thản của
cõi lòng, để quên đi những dằn vặt đớn đau.
Văn học luôn song hành cùng lịch sử nhưng văn học cũng có những quy luật riêng của
mình. Không phải cứ giai đoạn nào xã hội thịnh vượng thì văn học phát triển hơn các giai
đoạn lịch sử khác. Chính là vào những thời điểm khốn cùng nhất, khi dân tộc tưởng chừng
như bị hủy diệt trước quân thù, hoặc khi Tổ quốc rên xiết trước nạn nội chiến, hay khi kẻ
thống trị ra mặt phản động, dìm dân tộc và người tri thức trong những bước đường cùng
thì lại là lúc xuất hiện những tác phẩm văn học và những tác giả vào loại kiệt xuất nhất.
Cuộc đời của một nhà văn cũng vậy, lúc mà anh ta đạt đến đỉnh cao của danh vọng, giàu
sang phú quý thì chưa chắc đã phải là lúc bút lực của anh ta thu phục được nhiều người
đọc nhất, có khi lại là lúc văn phong nhạt nhẽo hơn cả. Nhưng chính vào lúc anh ta phải từ
bỏ tất cả, lúc mà tưởng chừng cuộc đời nhấn chìm anh trong đau khổ thì lại là lúc những
tác phẩm nghệ thuật bất hủ được thai nghén. Các nhà nghiên cứu văn học đều đánh giá rất
cao hành động trở về Yên Đổ của Nguyễn Khuyến, coi đó là một bước ngoặt quan trọng
nhất của đời ông. Chính bắt đầu từ đó những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà thơ ra đời và
còn đọng lại mãi trong lòng bao thế hệ. Chính vị Tam nguyên về vườn ấy, chính con người
từ đỉnh cao danh vọng vốn áo mũ xênh xang ấy nay đã trở về hòa mình cùng người dân
nghèo “chân lấm tay bùn”, chân đi đất mình bận bộ quần áo thôn quê:
“Vườn Bùi chốn cũ,
Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây
Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây
Thú khâu hác lâm tuyền âu cũng thế ”
(Trở lại vườn cũ)
Nguyễn Khuyến đã bỏ lại sau mình những tầm thường, trích cú, những vay mượn ồn ào,
những vần thơ quý phái tẻ nhạt, đưa văn học về với cội nguồn dân tộc, với làng quê, với
người nông dân nghèo khó vất vả.
Nhưng nếu không có những ngày vinh quang sôi kinh nấu sử ở chốn kinh đô, không tắm
mình trong không khí văn chương bác học, quý phái chốn quan trường, không tiếp thu tự
do những giá trị nhân bản truyền thống thì cũng khó mà có được những vần thơ vừa sang
trọng, uyên bác, vừa gần gũi, dân giã nơi vườn Bùi. Không có những ngày ấy thì Nguyễn


Khuyến có lẽ giỏi lắm cũng chỉ là một anh đồ quèn có vài ba bài thơ hài hước mà giá trị
không vượt quá khỏi luỹ tre làng. Có nhiều người đối lập hai thời kỳ làm quan và ở ẩn, coi
nhẹ thời kỳ trước trong cuộc đời Nguyễn Khuyến; nhưng mặc dù giữa hai thời kỳ đó có sự
khác nhau về chất song giữa chúng lại có mối quan hệ biện chứng liên kết nhau. Giai đoạn
lều chõng đi thi rồi làm quan chính là thời gian nhà thơ làng Yên Đổ góp mặt với đời, học
hành hết sức mình, bôn ba đây đó, tiếp xúc và chứng kiến bao sự đời, tham gia vào các
biến cố lịch sử, xã hội, mở rộng tri thức và tầm mắt. Chính vì vậy khi về ở ẩn mình nơi
thôn xóm, tầm nhìn và trí tuệ của ông không hề bị bó hẹp trong giới hạn của lũy tre làng,
nó vẫn bắt nhịp cùng với thời đại và góp phần tạo nên sự phát triển liên tục cho văn học
dân tộc.
Sự trở về Yên Đổ là một bước ngoặt quyết định quan trọng trong sự nghiệp văn học của
Nguyễn Khuyến. Và thơ văn ông chính là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa những
cái tinh hoa của văn học bác học dân gian được chắt lọc từ ngàn đời của dân tộc. Ở mỗi
một thời kỳ của lịch sử văn học, nhất là ở những giai đoạn phát triển rực rỡ thường xuất
hiện những tài năng có năng lực kết hợp ở mức độ cao hơn tinh hoa của văn học dân gian
và văn học bác học. Văn học dân gian chính là cội nguồn nuôi dưỡng văn học dân tộc,
giúp văn học dân tộc thoát khỏi những bế tắc và ràng buộc. Nhưng cũng chính văn học bác
học với những tri thức thông minh, bác cổ đã góp phần vô cùng quan trọng gìn giữ, phát
huy, sáng tạo giúp cho văn học dân gian phát triển.
Sự kết hợp quan trọng nhất trong văn học Việt Nam bắt đầu từ Nguyễn Trãi, ông đã tạo ra
một bước ngoặt và sự khởi đầu hết sức quan trọng cho văn học dân tộc, trong đó thể hiện
rõ sự kết hơp thuần nhuyễn giữa trí tuệ bác học và dân gian, đem lại cho văn học tinh thần
của thời đại và hơi thở của dân tộc điều mà trước đó còn mờ nhạt.
Nguyễn Du cùng với Truyện Kiều đã làm một bước tổng hợp lớn tiếp theo có giá trị khẳng
định sự lớn mạnh của văn học dân tộc, một lần nữa đưa văn học dân tộc lên đỉnh cao mới.
Sự kết hợp lần này là hết sức lớn cả về chất lượng và quy mô đã góp phần tạo nên một giai
đoạn văn học rực rỡ.
Bước tổng hợp ở Nguyễn Khuyến có phần khiên tốn hơn nhưng không phải là không có
những thành tựu mới mẻ tạo nên một dáng vẻ riêng biệt. Ông không có những “thiên cổ
hùng văn”, những tác phẩm dài tầm cỡ, ông đặc biệt thành công ở những thể loại nhỏ - ở


đó tinh hoa của nền thơ ca gần một ngàn năm của dân tộc được chắt lọc, chưng cất của
từng câu chữ tạo nên những tác phẩm như có ma lực hấp dẫn và gần gũi ngay cả với những
người nông dân bình thường. Sự gần gũi và dân giã đó, những bậc thi hào trước ông cũng
khó có thể có được.
Sự trở về của Nguyễn Khuyến cũng chính là sự trở về với nhân dân, sự hòa mình với môi
trường sống, môi trường văn học vốn gần gũi với ông từ thủa lọt lòng. Và cũng chính ở đó
những phẩm chất vốn tiềm tàng trong con người thơ của ông được phát huy và phát hiện
trở lại. Thơ ông là sự kết hợp thuần nhuyễn của nhiều phẩm chất thơ ca: dân gian và bác
học, trữ tình và trào phúng, v.v. là sự hội tụ nhiều phẩm chất của thơ ca dân tộc và của các
bậc thi hào trước ông. Điều đó đã khiến cho giọng điệu trong thơ Nguyễn Khuyến trở nên
đa dạng, là sự kết hợp, đan xen, hòa trộn của nhiều màu sắc thẩm mỹ. Nguyễn Khuyến
cũng là người viết được rất nhiều thể loại thơ trữ tình, trào phúng, các thể thơ thất ngôn,
ngũ ngôn, tứ tuyệt, lục bát, song thất lục bát. Ông còn là một nhà soạn câu đối vô địch, là
người viết báo nói có biệt tài và đầy sáng tạo, một dịch giả suất sắc, thơ Nôm, thơ Hán của
ông đều rất hay.
Ở đây có thể nói đến một sự trở về mang tính triệt để hơn so với truyền thống. Khác với
Nguyễn Trãi khi về Côn Sơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm khi về Bạch Vân Am, Nguyễn Du khi
bôn ba trong thiên hạ, Nguyễn Khuyến trở về vườn Bùi và sống thật sự đời sống của người
dân. Ông không có tâm trạng day dứt ở-đi, đi-ở, ở ẩn chỉ là tạm lánh của Nguyễn Trãi, hay
như thế ở ẩn để làm thầy thiên hạ của Trạng Trình. Ông dứt áo về quê là về hẳn, bởi làm
quan ở thời buổi ông đồng nghĩa với làm tay sai cho giặc, nhà thơ chỉ còn một chút băn
khoăn là chưa trả hết được ân nghĩa cho nhà vua và triều đình đã tôn vinh ông nhưng ông
cũng chẳng còn vua hiền để thờ phụng, mọi điều học được từ sách vở thánh hiền đều đã
trở nên vô dụng. Vì vậy ông Tam nguyên trở về với dân chúng Yên Đổ mà chịu rất ít sức
ép của tư tưởng chính thống. Ông thật sự trở về với vườn cà, luống cúc đúng với nghĩa đen
của nó. Đó là một sự trở về triệt để cả trong tư tưởng lẫn trong nghệ thuật.
Nguyễn Khuyến sống đời sống của người nông dân quê ông và ông viết về cuộc đời họ,
cảnh đời của họ. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử gần nghìn năm của văn học dân tộc
đời sống nghèo khó của người nông dân với những quang cảnh sinh hoạt bình thường ở
thôn quê trở thành đối tượng phản ánh của thơ ca. Rất lạ đó lại là nền thơ ca của một đất


nước nông nghiệp và người nông dân là lực lượng chiếm đại đa số trong xã hội.
Nguyễn Khuyến chính là nhà thơ viết về nông thôn số một của văn học dân tộc. Điều kỳ lạ
là nông thôn Việt Nam đã tồn tại hàng nghìn năm và đã xuất hiện trong thơ ca của nhiều
hế hệ nhà thơ nhưng một lần nữa lại vừa như được phát hiện lại qua thơ văn Yên Đổ ở
những góc độ không ngờ. Thử hỏi các nhà thơ lớn trước Nguyễn Khuyến đã viết được
những gì về làng quê và người nông dân? Quả thật phải đến Nguyễn Khuyến văn học mới
thật sự bước xuống đồng ruộng. Đến với người dân nơi thôn dã và từ cuộc sống lam lũ mà
cũng không kém phần thơ mộng của làng cảnh Việt Nam, thơ ca mới được kết tinh trở nên
chân thực, chi tiết, sinh động đến mức như vậy. Nông thôn và đời sống người nông dân
trong thơ có trước Nguyễn Khuyến đi vào văn học không phải như một đối tượng để nhà
thơ phản ánh mà như chỉ như một duyên cớ để các tác giả tỏ bày đạo lý. Nhà thơ đưa vào
thơ hình ảnh của một con trâu, một mái nhà tranh, một nông phu không phải với mục
đích phản ánh cuộc sống đích thực của những con người và cảnh trí đó. Thuờng thì đó là
những hình tượng trưng, ước lệ thiếu sức sống. Không nói đến những bài thơ xướng họa
trong “Hồng Đức quốc âm thi tập”, trong đó người nông dân hiện nên không giống như họ
trong thực tế, quang cảnh đồng quê ở đây cũng trừu tượng và ước lệ; hoạ hoằn lắm trong
thơ cổ ta mới bắt gặp những cảnh trí đồng quê thật và sống như trong thơ Thái Thuận
(1441-?), một “Nhà cỏ tuôn làn khói”, một tiếng “vắt trâu” trong sương sớm, một đàn “cò
trắng giật mình bay” v.v. Nhưng quả thật những hình ảnh đó còn thi vị hóa và xa lạ lắm
với cuộc sống lam lũ của người nông dân sau lũy tre làng.
Chỉ đến Nguyễn Khuyến mới làm được những điều mà thơ ca truyền thống chưa làm
được. (Và ngay cả trong thơ hiện đại có lẽ cũng chưa có được một “nhà thơ nông thôn”
nào tầm cỡ như Nguyễn Khuyến). Một nông thôn thật sự đã hiện ra trong thơ Yên Đổ. Đó
là một nông thôn đã từng gắn bó máu thịt với nhà thơ ngay từ thủa lọt lòng.
Tuy xuất thân từ một dòng họ có truyền thống khoa bảng nhưng gia đình Nguyễn Khuyến
rất nghèo, cha mất sớm, ông phải đi ở nhờ, đi dạy học để nuôi mẹ nên từ nhỏ đã gắn bó với
quê hương đồng chiêm trũng nghèo khó, gần gũi và am hiểu đời sống và công việc đồng
áng của người nông dân. Vì vậy thật dễ hiểu vì sao khi từ quan, từ bỏ đất kinh kỳ về lại
vườn Bùi, ông lại đễ hòa nhập như thế, sống như một lão nông nơi thôn giã
"Cổng reo trẻ đón ông về


Gậy chống già chào, bác đấy à”
(Hoàn gia tác)
Ngày ông lên lão cũng là ngày tụ họp bà con làng xóm, từ những người nghèo khổ nhất:
“Anh em làng xóm xin mời cả
Xôi bánh, trâu heo cũng gọi là,
Chú Đáo bên làng lên với tớ
Ông Từ ngõ chợ lại cùng ta”
(Lên lão)
Tình cảm xóm làng thật hết sức chân tình! Có thể nói trong số các thi hào dân tộc, Nguyễn
Khuyến là người sống gần gũi và hoà nhập nhất với người nông dân chân lấm tay bùn, lực
lượng xã hội lớn nhất ở Việt Nam. Rõ ràng Nguyễn Khuyến không chỉ dành những tình
cảm hết sức sâu nặng và nồng thắm cho vợ con, bạn bè thân thiết qua những bài thơ viết
cho con, câu đối khóc vợ, khóc con, bài thơ viếng bạn. Cũng vẫn những tình cảm thắm
thiết như vậy, ông đã dành cho những người dân nghèo khó quê mình. Một điều hết sức
đáng quý là những tình cảm ấy luôn mang dấu ấn cá nhân của người viết, điều mà trong
văn học truyền thống trước đó đôi khi khó tìm thấy. Trước Nguyễn Khuyến thật khó có
một ông quan đại thần nào lại bỏ công làm những câu đối thật hay thật độc đáo để tặng
những vợ người hoạn lợn khóc chồng, vợ hàng thịt khóc chồng con, cô dâu khóc mẹ, vợ
thợ rèn khóc chồng, anh hàng gà khóc mẹ. Cũng thật khó có thể tưởng nổi một ông quan
tổng đốc, một ông Tam nguyên đỗ đầu cả 3 kỳ thi, nghĩa là văn chương đã đến đỉnh cao,
nhưng ông lại có những tri thức như một lão nông thực thụ và những vần thơ “quê mùa”,
quê mùa ngay cả trong thơ chữ Hán
“Cày sâu đất mới tơi
Bừa kỹ, cỏ không sót
Bón vào đất thêm màu
Cào rồi, sạch như chuốt
Đêm ngày không nghỉ ngơi
Tâm hao lực cũng sút
Còn sợ trời mưa dầm
Còn ghê sông nước lụt


Trơ dòng ngại gió lay
Đứng bóng e nắng đốt
Quanh năm nay thuận thời
Mới mong mùa lúa tốt
Nào ngờ lúa vừa tốt
Lại mắc ngay nạn chuột ”
(Diễn giả tự thuật - bản dịch)
Rõ ràng vị quan đại thần ấy hiểu đến chân tơ kẽ tóc của nghề nông:
“Thửa ruộng rạch ròi chân xấu tốt”
(Cáo quan về ở nhà)
Nông thôn Việt Nam trong thơ Yên Đổ hiện lên với đầy đủ những âm thanh và màu sắc
đặc trưng từ ngàn đời, độc đáo mà gần gũi, thân quen mà đẹp đẽ đến diệu kỳ. Một tiếng trẻ
bi bô học bài, tiếng ếch kêu vang rền như tiếng trống của trẻ nhỏ, tiếng chim ríu rít trên
cành tre, một đêm trăng trữ tình, một con “trâu già cọ gốc phì hơi nắng”. Đó còn là âm
thanh và màu sắc của những ngày hội, ngày xuân, đêm hè.
“Ình ịch đêm qua trống các làng
Ai ai mà chẳng rước xuân sang”
“Trước lũy nhấp nhô cò cụ Tổng
Cách ao lẹt đẹt pháo thày Nhang”
(Khai bút)
“Năm gian nhà cỏ thấp le te
Ngõ tối đêm sâu đóm lập lòe”
(Thu ẩm)
Đó cũng là nông thôn với cảnh đời lam lũ, cái lo toan tất bật của công việc đồng áng, vị
chua mặn của giọt mồ hôi vất vả, cảnh lụt lội nước ngập trắng đồng
“Bóng thuyền thấp thoáng dờn trên vách
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà”
(Vịnh lụt)
Trong một khung cảnh như vậy, hình ảnh người dân quê nhiều lúc hiện lên hết sức chân
thực và sinh động. Đó đều là những hình ảnh bình thường nên thơ và trở thành điển hình


trong thơ Nguyễn Khuyến. Tất cả lần đầu tiên đã đi vào văn học dân tộc không phải một
cách “dần dần”, “từ từ”, “từng bước” mà ào ạt thấm đẫm trong thơ của ông già Yên Đổ.
Nhà thơ cũng lo cái lo của người dân, sống cuộc sống bần hàn chạy ăn từng bữa, đo đếm
cân đong từng xu như họ.
"Năm nay cày cấy vẫn chân thua
Chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa
Phần thuế quan thu, phần trả nợ
Nửa công đứa ở nửa thuê bò
Sớm trưa dưa muối cho qua bữa
Chợ búa trầu cau chẳng dám mua”
(Nhà nông than thở)
Cách hàng mấy chục năm, trước khi Ngô Tất Tố viết “Tắt đèn”, Nguyễn Công Hoan viết
“Bước đường cùng”, ta đã được biết đến một nông thôn Việt Nam đói nghèo với cảnh mất
mùa năm này qua năm khác, cảnh công xá bèo bọt, cảnh thuế má quan lệ thúc đòi, cảnh nợ
nần với người cùng khổ “lãi mẹ, lãi con sinh đẻ mãi”, cảnh “sâu hạn liên miên úng lụt tràn
”, v.v. trong thơ Nguyễn Khuyến.
Sự gần gũi với cuộc sống bình thường, sự xa vời với phương thức phản ánh cũ nặng về
ước lệ tượng trưng, sự chối bỏ những chủ đề trung quân, ca ngợi “địa linh nhân kiệt”
chung chung, việc tiếp cận với những đề tài cuộc sống của người dân với nỗi lo toan hàng
ngày của họ đã khiến cho thơ văn Nguyễn Khuyến có phần tách rời khỏi truyền thống và
hết sức gần gũi với thơ ca hiện đại. Có thể nói rằng đó là những gạch nối đầu tiên giữa văn
học trung đại và văn học hiện đại. Có lẽ bản thân Nguyễn Khuyến cũng chưa ý thức nổi
điều đó, nhưng chính những bài thơ xuất chúng của ông lại chứa đựng sự tiếp nối này.
Trong những bài thơ hay của Nguyễn Khuyến có thể thấy rõ sự thành công của việc kết
hợp nhuần nhuyễn tinh hoa của những thủ pháp nghệ thuật cổ điển với một lối tư duy mới
mẻ, của sự thai ngén một phương thức phản ánh mới tiếp cận với cái hiện thực, cụ thể, chi
tiết của cuộc sống. Sự thành công của ba bài thơ thu là một ví dụ điển hình
“Mấy chùm trước giậu, hoa năm ngoái
Một tiếng trên không ngỗng nước nào”
(Thu vịnh)


“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
(Thu điếu)
“Lưng giậu phất phơ màu khói nhạt
Làn ao lóng lánh ánh trăng loe”
(Thu ẩm)
Trong những bài thơ này vừa như có thấp thoáng đâu đó lại vừa như không có những nét
tượng trưng, ước lệ của thơ cổ, bởi những hình ảnh trong bài thơ dường như được chắt lọc
từ hiện thực sống động của cuộc sống và mang đậm tâm trạng của tác giả, động mà lại
tĩnh, tĩnh mà lại như khắc vào lòng người. Ba bài thơ thu của Yên Đổ đã đi vào thơ ca cổ
điển Việt Nam và trở thành ba hạt minh ngọc vừa quen lại vừa lạ. Thơ Nguyễn Khuyến đã
tạc nên những hình ảnh mới cũng hết sức cổ điển, một hình ảnh “mấy chùm trước giậu,
hoa năm ngoái” một “ngõ trúc quanh co”, một tiếng khóc ngẹn giàu tình cảm “Bác Dương
thôi đã thôi rồi”, một “ao thu lạnh lẽo nước trong veo” v.v. đã trở thành của riêng ông mà
mỗi khi nhắc đến ai cũng biết đó là “điển” lấy từ thơ Yên Đổ.
Chỉ có thể giải thích sự xuất hiện đột xuất của một tài năng tầm cỡ như thế bằng những
biến đổi căn bản trong tư duy nghệ thuật, trong tư tưởng thẩm mỹ của nhà thơ. Chính hành
động trở về vườn Bùi đã giúp Nguyễn Khuyến không còn bị lệ thuộc hoàn toàn vào tư
tưởng trung quân đã lỗi thời, bớt đi những ảnh hưởng của không khí văn chuơng còn xa rời
với cuộc sống của người dân, ở chốn cung đình hạn chế tối thiểu những tần chương trích
cú, những ước lệ, tượng trưng sáo rỗng. Mặt khác Nguyễn Khuyến đã kế thừa được những
tinh hoa của văn chương truyền thống, kết hợp với những sáng tạo giàu cách tân của mình,
đem lại cho văn học dân tộc những tác phẩm hết sức có giá trị. Cũng chính sự gần gũi với
cuộc sống lam lũ của người dân đã giúp ông đưa được vào trong tác phẩm của mình những
hình ảnh hiện thực sống động, cụ thể, đa dạng mà không kém phần thú vị, lãng mạn.
Chính sự hòa mình vào cuộc sống hồn nhiên nơi thôn dã đã giúp cho nhà thơ giải tỏa được
tâm trạng luôn day dứt đau khổ và mặc cảm của mình. Nguyễn Khuyến đã tìm thấy trong
thiên nhiên, trong cuộc sống lam lũ của người nông dân quê ông sự thanh thản của tâm
hồn, niềm lạc quan yêu đời và những tình cảm xóm làng trong sáng. Và đằng sau những
bài thơ có vẻ như hiền lành của ông luôn chứa giấu một nỗi niềm nóng bỏng về vận mệnh


của đất nước về cuộc sống của dân lành.

Mục lục

  • 1 Xuất thân
  • 2 Hoàn cảnh lịch sử
  • 3 Tác phẩm
  • 4 Vinh danh
  • 5 Chú thích
    • 5.1 Ghi chú
    • 5.2 Tham khảo
  • 6 Thư mục
  • 7 Liên kết ngoài

Xuất thânSửa đổi

Cha Nguyễn Khuyến là Nguyễn Tông Khởi (阮宗起, 1796–1853), thường gọi là Mền Khởi, đỗ ba khóa tú tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (陳式湍, 1799 – 1874), nguyên là con của Trần Công Trạc (陳公鐲), từng đỗ tú tài thời Lê Mạc.

Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864 – 1865) ở trường Hoàng giáp cùng bạn học Phạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội.[2][3]

Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên tu chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám và đổi tên từ Nguyễn Thắng thành Nguyễn Khuyến, với hàm ý phải nỗ lực hơn nữa (chữ Thắng có chữ lực nhỏ, chữ Khuyến có chữ lực lớn hơn).

Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ (三元安堵).[4]

Năm 1873, ông được bổ làm Đốc Học, rồi thăng Án Sát tại tỉnh Thanh Hóa. Năm 1877, ông thăng Bố Chính tỉnh Quảng Ngãi. Sang năm sau, ông bị giáng chức và điều về Huế, giữ một chức quan nhỏ với nhiệm vụ toản tu Quốc Sử Quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây.[cần dẫn nguồn]