Bảo hiểm thất nghiệp bắt đầu từ năm nào năm 2024

[TBKTSG Online] - Mở rộng đối tượng tham gia, bổ sung quy định về điều kiện hưởng, mức hưởng trợ cấp thất nghiệp,… là một số thay đổi đáng kể về chính sách bảo hiểm thất nghiệp quy định tại Luật Việc làm có hiệu lực từ ngày 1/1/2015.

Hiện tại, các nội dung về bảo hiểm thất nghiệp [BHTN] được quy định tại Luật Bảo hiểm xã hội [BHXH]. Tuy nhiên, bắt đầu từ ngày 1/1/2015, các nội dung này được quy định tại Luật Việc làm sẽ có hiệu lực thi hành và có những điểm đáng lưu ý sau:

Đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp

Theo quy định hiện hành, đối tượng bắt buộc tham gia BHTN là người sử dụng lao động [NSDLĐ] sử dụng từ 10 người lao động [NLĐ] trở lên và NLĐ Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động [HĐLĐ] không xác định thời hạn hoặc xác định thời hạn từ đủ 12 tháng đến 36 tháng.

Kể từ ngày 1/1/2015, đối tượng bắt buộc tham gia BHTN bao gồm tất cả NSDLĐ có thuê mướn, sử dụng lao động theo HĐLĐ và mở rộng thêm đối với NLĐ làm việc theo HĐLĐ mùa vụ hoặc theo một công việc nhất định có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng bên cạnh NLĐ làm việc theo HĐLĐ không xác định thời hạn hoặc có xác định thời hạn.

Lưu ý, trong trường hợp người lao động giao kết và đang thực hiện nhiều HĐLĐ thì NLĐ và NSDLĐ của HĐLĐ giao kết đầu tiên có trách nhiệm tham gia BHTN.

Các quyền lợi khi tham gia BHTN

Bên cạnh các quyền lợi khi tham gia BHTN theo quy định hiện tại như trợ cấp thất nghiệp, hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm, Luật Việc làm đã bổ sung chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ kỹ năng nghề để duy trì việc làm cho NLĐ.

Tiền lương làm căn cứ đóng BHTN

Theo quy định mới, tiền lương tháng đóng BHTN là tiền lương làm căn cứ đóng BHXH bắt buộc thực hiện theo quy định của Luật BHXH. Trường hợp mức tiền lương tháng đóng BHTN cao hơn 20 tháng lương tối thiểu vùng thì áp dụng bằng 20 tháng lương tối thiểu vùng theo quy định tại thời điểm đóng BHTN. Khác với quy định hiện tại căn cứ vào mức lương tối thiểu chung.

Điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp [TCTN]

Theo quy định tại Luật Việc làm, NLĐ chỉ được hưởng TCTN khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện có phần chi tiết, khắt khe hơn so với quy định hiện tại, cụ thể:

1. Khi chấm dứt HĐLĐ, trừ các trường hợp sau đây:

  1. NLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật;
  1. Hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hằng tháng.

2. Đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi chấm dứt HĐLĐ đối với HĐLĐ không xác định thời hạn và HĐLĐ xác định thời hạn. “Đối với HĐLĐ theo mùa vụ hoặc công việc có thời hạn từ đủ 3 tháng đến dưới 12 tháng, NLĐ phải đóng BHTN từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 36 tháng trước khi chấm dứt HĐLĐ.”

3. Đã nộp hồ sơ hưởng TCTN tại trung tâm dịch vụ việc làm;

4. Chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày nộp hồ sơ hưởng TCTN, trừ một số trường hợp như: thực hiện nghĩa vụ quân sự; bị tạm giam hoặc chấp hành hình phạt tù,…

Mức và thời gian hưởng TCTN

1. Theo quy định mới, mức hưởng TCTN hằng tháng của NLĐ bằng 60% mức bình quân tiền lương tháng đóng BHTN của 6 tháng liền kề trước khi thất nghiệp “nhưng tối đa không quá 5 lần mức lương tối thiểu vùng theo quy định tại thời điểm chấm dứt HĐLĐ”, trong khi quy định hiện tại không giới hạn về mức tối đa.

2. Thời gian hưởng TCTN được tính theo số tháng đóng BHTN. Theo đó, NLĐ đã đóng BHTN từ đủ 12 tháng đến đủ 36 tháng thì được hưởng 3 tháng TCTN. Sau đó, cứ mỗi 12 tháng đóng đủ thì NLĐ được hưởng thêm 1 tháng TCTN nhưng tổng thời gian hưởng TCTN tối đa là không quá 12 tháng.

Chấm dứt hưởng TCTN

Về cơ bản, các trường hợp chấm dứt hưởng TCTN theo quy định tại Luật Việc làm kế thừa các quy định hiện hành tại Luật BHXH và có bổ sung một số trường hợp như: NLĐ thực hiện nghĩa vụ công an; đi lao động ở nước ngoài theo hợp đồng; đi học tập có thời hạn từ đủ 12 tháng trở lên; bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật BHTN; bị tòa án tuyên bố mất tích; bị tạm giam.

Trong một số trường hợp chấm dứt hưởng TCTN như: do tìm được việc làm, thực hiện nghĩa vụ quân sự,… NLĐ được bảo lưu thời gian đóng BHTN làm căn cứ để tính thời gian hưởng TCTN cho lần tiếp theo khi đủ điều kiện. Trong khi theo quy định hiện tại, NLĐ sẽ được hưởng TCTN một lần bằng giá trị còn lại của trợ cấp thất nghiệp.

Xin chào Luật sư, tôi là Ngọc. Tôi bắt đầu đi làm từ năm 2005. Tổng thời gian tôi tham gia đóng bảo hiểm xã hội là 12 năm nhưng tôi kiểm tra thời gian đóng bảo hiểm thất nghiệp lại chỉ có 9 năm. Tôi đang thắc mắc luật bảo hiểm thất nghiệp có từ năm nào và bảo hiểm thất nghiệp có hiệu lực từ năm nào để tôi tính được thời gian tham gia bảo hiểm thất nghiệp của tôi. Mong Luật sư giúp đỡ.

Cảm ơn chị đã tin tưởng Luật Quang Huy. Đây cũng là một trong những vấn đề nhận được sự quan tâm rất lớn từ người lao động. Qua bài viết này, Luật Quang Huy sẽ cung cấp thông tin cụ thể để hỗ trợ chị về vấn đề bảo hiểm thất nghiệp có từ năm nào như sau:

Giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội việc làm là vấn đề luôn được Nhà nước quan tâm. Tuy nhiên, việc chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường có ảnh hưởng không nhỏ tới cung và cầu lao động. Nền kinh tế mới, năng động đòi hỏi cao về kỹ thuật, trình độ tay nghề, năng lực tổ chức quản lý… trong khi số lượng lao động trong nước tuy đông nhưng lại chưa đáp ứng kịp những đòi hỏi đó. Đây chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng thất nghiệp.

Để bảo vệ quyền lợi cho người lao động mất việc, Nhà nước đó có nhiều chính sách song chưa đầy đủ, vẫn còn nhiều bất cập, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Việc thanh toán chế độ cho người lao động nghỉ việc lại quy hết vào trách nhiệm của người sử dụng lao động. Do đó, muốn san sẻ bớt gánh nặng chi trả chế độ, hỗ trợ doanh nghiệp, đòi hỏi Nhà nước cần phải có những biện pháp, giải pháp hữu hiệu, mang tính toàn diện.

Nhằm khắc phục điều đó, ngày 29/6/2006, Quốc hội đã chính thức thông qua Luật bảo hiểm xã hội. Đây là văn bản pháp lý cao nhất, Luật bảo hiểm xã hội năm 2006 có hiệu lực từ ngày 1/1/2007 và hiện nay đã được thay thế bằng Luật bảo hiểm xã hội năm 2014. Tuy nhiên, Khoản 1 Điều 140 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 có quy định về hiệu lực thi hành của bảo hiểm thất nghiệp như sau:

Điều 140. Hiệu lực thi hành Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2007; riêng đối với bảo hiểm xã hội tự nguyện thì từ ngày 01 tháng 01 năm 2008, đối với bảo hiểm thất nghiệp thì từ ngày 01 tháng 01 năm 2009.

Bên cạnh đó, Khoản 4 Điều 2 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 quy định:

Điều 2. Đối tượng áp dụng

Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động.

… 4. Người sử dụng lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp là người sử dụng lao động quy định tại khoản 2 Điều này có sử dụng từ mười lao động trở lên.

Theo quy định, bảo hiểm thất nghiệp được áp dụng kể từ ngày 01/01/2009. Ngày 16/11/2013, Quốc hội đã thông qua Luật Việc làm và có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Theo đó, chế định về bảo hiểm thất nghiệp được quy định tại Chương VI.

Bảo hiểm thất nghiệp có từ năm nào?

So với các quy định trước đây về bảo hiểm thất nghiệp, nội dung của Luật cho phép mở rộng đối tượng bắt buộc tham gia bảo hiểm thất nghiệp, bỏ quy định về đăng ký thất nghiệp, bổ sung chế độ hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, bổ sung điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp, thay đổi cách tính thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp, giới hạn mức hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng, bỏ trợ cấp một lần và bảo lưu thời gian đó đóng bảo hiểm thất nghiệp, mở rộng điều kiện người lao động được hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tối đa 1% quỹ tiền lương tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp và quy định cụ thể đơn vị tiếp nhận hồ sơ.

Đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến việc thời gian tham gia bảo hiểm xã hội và bảo hiểm thất nghiệp có sự chênh lệch với nhau. Ví thử như trường hợp của bạn, thời gian bạn làm việc theo hợp đồng lao động và thời gian đóng bảo hiểm xã hội là 12 năm. Tuy nhiên, thời gian tham gia bảo hiểm thất nghiệp lại chỉ bắt đầu từ năm 2009 nên tổng thời gian tham gia bảo hiểm thất nghiệp sẽ ít hơn so với thời gian đóng bảo hiểm xã hội.

Trên đây là phần giải đáp thắc mắc của chúng tôi về vấn đề bảo hiểm thất nghiệp có từ khi nào? Trong quá trình giải đáp nếu còn vấn đề gì không rõ thì bạn có thể liên hệ trực tiếp đến Tổng đài tư vấn luật bảo hiểm thất nghiệp trực tuyến qua HOTLINE 19006588 của Luật Quang Huy để được giải đáp.

Chủ Đề