Các tác phẩm văn học cách mạng lớp 11

I. Nội dung

- Về mặt xã hội:

+ Sau gần nửa thế kỉ xâm lược, thực dân Pháp củng cố bộ máy chính quyền, liên tiếp khai thác thuộc địa, biến Việt Nam thành nước thực dân nửa phong kiến. Nhiều tầng lớp xã hội mới xuất hiện như công nhân, tư sản, tiểu tư sản, dân nghèo thành thị

+ Nhiều phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ để chống lại chế độ thống trị tàn bạo của thực dân, tinh thần yêu nước dẫn đến thắng lợi của cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945 và bộc lộ qua tốc độ phát triển của văn học thời kì này.

- Về mặt văn hóa:

+ Từ đầu thế kỉ XX, văn học Việt Nam dần thoát khỏi sự ảnh hưởng của văn hóa phong kiến Trung Hoa, tiếp xúc, giao lưu với văn hóa phương Tây và chịu ảnh hưởng mạnh mẽ nhiều xu hướng văn hóa tiến bộ trên thế giới.

+ Những tác phẩm văn học hiện đại tiêu biểu ở thể loại truyện ngắn gồm Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù, Chí Phèo, Vi hành, tình thần thể dục mang nét đặc sắc nghệ thuật riêng biệt ở tình huống truyện, xây dựng nhân vật, nghệ thuật trần thuật, ngôn ngữ nghệ thuật

+ Những tác phẩm tiểu thuyết tiêu biểu gồm Số đỏ [trào phúng], Cha con nghĩa nặng [có đặc điểm tiểu thuyết của giai đoạn văn học giao thời]

+ Tác phẩm kịch tiêu biểu có Vũ Như Tô.

+ Văn học nước ngoài tiêu biểu có kịch Rô-mê-ô và Giu-li-ét.

II. Phương pháp ôn tập

- Có thể sử dụng những hình thức như làm bài tập tại lớp, thuyết trình, thảo luận, viết báo.

- Ôn tập theo hệ thống các vấn đề như sau:

1. Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 [bộ phận, xu hướng, tốc độ phát triển].

+ Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 hình thành theo hai bộ phận và phân hóa thành nhiều dòng, vừa đấu tranh, vừa bổ sung để phát triển.

Hai bộ phận của văn học gồm văn học công khai [văn học hợp pháp, tồn tại trong vòng pháp luật của chính quyền thực dân phong kiến] và văn học không công khai [bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, phải lưu hành bí mật].

Do khác nhau về đặc điểm nghệ thuật, về khuynh hướng thẩm mĩ, nên văn học công khai phân hóa thành nhiều dòng, trong đó có hai dòng chính [văn học lãng mạn và văn học hiện thực].

* Dòng văn học lãng mạn là tiếng nói của các nhân vật tràn đầy cảm xúc, phát huy cao độ trí tướng tượng để diễn tả những khát vọng, ước mơ. Con người là trung tâm của vũ trụ, khẳng định "cái tôi" cá nhân, đề cao con người thế tục, quan tâm đến những số phận cá nhân và những quan hệ riêng tư. Tập trung vào các đề tài về tình yêu, thiên nhiên và quá khứ, thể hiện khát vọng vượt lên trên cuộc sống hiện tại chật chội, tù túng, dung tục, tầm thường.

* Dòng văn học hiện thực phơi bày thực trạng bất công, thối nát của xã hội đương thời, đi sâu phản ánh tình cảnh khốn khổ của các tầng lớp nhân dân bị áp bức bóc lột với thái độ cảm thông sâu sắc. Đấu tranh chống áp bức giai cấp, phản ánh mâu thuẫn, xung đột giàu nghèo giữa người dân lao động với tầng lớp thống trị. Phê phán xã hội trên tinh thần dân chủ và nhân đạo, chú trọng miêu tả, phân tích và lí giải chân thực, chính xác quá trình khách quan của hiện thực xã hội thông qua những hình ảnh điển hình.

+ Bộ phận văn học không công khai có thơ văn cách mạng bí mật, đặc biệt là thơ của các chí sĩ và các chiến sĩ cách mạng sáng tác trong tù. Văn học cách mạng đánh thẳng vào bọn thống trị thực dân cùng tay sai, nói lên khát vọng độc lập, đấu tranh giải phóng dân tộc, thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn và niềm tin vào tương lai tất thắng của cách mạng.

+ Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 phát triển nhanh chóng, thể hiện ở sự phát triển của thơ trong phong trào Thơ mới, các thể loại như truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, lí luận và phê bình văn học...

* Nguyên nhân làm cho văn học thời kì này phát triển nhanh chóng là do sự thúc bách của yêu cầu thời đại. Xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX đến năm 1945 đã đặt ra nhiều vấn đề về đất nước, về cuộc sống, con người và nghệ thuật đòi hỏi phải giải quyết.

* Sự phát triển của văn học thời kì này còn do sự thức tỉnh, trỗi dậy của cái tôi cá nhân. Chính "cái tôi" cá nhân này là một trong những động lực tạo nên sự phát triển và những thành tựu rực rỡ của văn học Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX theo hướng hiện đại hóa.

* Ngoài ra, thời kì này, văn chương đã trở thành hàng hóa, viết văn là một nghề để kiếm sống.

2. Sự khác biệt giữa tiểu thuyết hiện đại và trung đại. Những yếu tố trung đại trong tác phẩm Cha con nghĩa nặng.

+ Tiểu thuyết trung đại Việt Nam thường vay mượn đề tài, cốt truyện của văn học Trung Quốc; tập trung vào việc xây dựng cốt truyện li kì, hấp dẫn; kết cấu chương hồi và theo công thức; kết thúc có hậu; truyện được thuật theo trình tự thời gian; nhân vật thường phân tuyến rạch ròi; câu văn theo lối biền ngẫu...

+ Tiểu thuyết hiện đại xóa bỏ những đặc điếm trên, lấy tính cách nhân vật làm trung tâm, chú trọng tính cách hơn là cốt truyện, đi sâu vào thế giới nội tâm nhân vật. Tiểu thuyết trần thuật theo thời gian tự nhiên mà linh hoạt; kết thúc thường không có hậu; bỏ những ước lệ, dùng bút pháp tả thực; lời văn tự nhiên gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày...

+ Trước năm 1930, tiểu thuyết văn xuôi quốc ngữ xuất hiện chưa nhiều. Hồ Biểu Chánh là nhà văn đầu tiên khẳng định được chỗ đứng với hàng chục tác phẩm, dựng lên bức tranh hiện thực xã hội Nam Bộ đầu thế kỉ XX. Tuy nhiên tác phẩm của ông còn mô phỏng cốt truyện của phương Tây, chưa thoát khỏi kiểu kết cấu chương hồi, cách kết thúc có hậu, nhân vật có tính chất minh họa cho những quan điểm đạo đức, lối văn biền ngẫu... Các đặc điểm này đều được thhiện rõ trong tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng.

3. Tình huống trong các tác phẩm Vi hành, Tinh thần thể dục, Chữ người tử tù, Chí Phèo.

+ Mỗi truyện ngắn thường chứa đựng một tình huống; tài năng của nhà văn được thể hiện một phần ở chỗ sáng tạo nên những tình huống truyện độc đáo.

+ Ở Vi hành của Nguyễn Ái Quốc là tình huống nhầm lẫn của đôi trai gái người Pháp trong chuyến tàu điện ngầm: Nhìn người An Nam [nhân vật tôi] và cho đó là Khái Định. Nhờ sự nhầm lẫn mà hình ảnh Khải Định được miêu tả rất khách quan lại thật hài hước.

+ Trong Tinh thần thể dục của Nguyễn Công Hoan là tình huống trào phúng, mâu thuẫn giữa chính quyền với người dân nghèo, giữa sự khuếch trương của bọn quan lại thực dân phong kiến với ước mong xin được ở nhà của người dân, giữa việc đi cổ vũ với việc tìm mọi cách chạy chọt để được ở nhà thậm chí trốn tránh. Trên cơ sở những mâu thuẫn, mỗi cảnh tình riêng lại có những nét hài hước riêng.

+ Trong truyện ngắn Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân đã xây dựng một tình huống truyện độc đáo. Hai nhân vật Huấn Cao và quản ngục, trên bình diện xã hội hoàn toàn đối lập nhau [tử tù và quản ngục]; chính tình huống này đã làm nổi bật trọn vẹn vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao, đồng thời làm sáng tỏ tấm lòng trân trọng tài năng của viên quản ngục.

+ Trong Chí Phèo là tình huống bi kịch thể hiện mâu thuẫn giữa khát vọng sống lương thiện, khát vọng làm người và tình trạng bị cự tuyệt quyền làm người.

4. Đặc sắc nghệ thuật của các truyện ngắn Hai đứa trẻ, Chữ người tử tù, Chí Phèo.

+ Hai đứa trẻ là truyện không có cốt truyện, toàn bộ câu chuyện chỉ kể về tâm trạng thao thức của Liên và An, mong mỏi chờ đợi một chuyến tàu đêm đi ngang qua. Trong truyện ngắn, Thạch Lam chú trọng đi sâu vào nội tâm nhân vật với những cảm xúc, cảm giác mơ hồ, mong manh. Những trang viết miêu tả tâm trạng nhân vật rất sâu sắc và tinh tế.

* Thạch Lam sử dụng rất thành công thủ pháp nghệ thuật đối lập, tương phản [một bên là ánh sáng tù mù, nhạt nhòa của ngọn đèn dầu nơi hàng nước của chị Tí và bên kia là ánh sáng như xuyên thủng màn đêm của đoàn tàu...], qua đó nhấn mạnh, làm nổi bật khung cánh nghèo nàn, vắng lặng của phố huyện nhỏ.

* Truyện còn đặc sắc ở lối kể chuyện thủ thỉ, phía sau những hình ảnh và ngôn từ là một tâm hồn đôn hậu, tinh tế, hết sức nhạy cảm với mọi biến thái của lòng người và vạn vật.

+ Đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân:

* Truyện thể hiện tài năng nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Tuân trong việc tạo dựng tình huống truyện độc đáo, trong nghệ thuật dựng cảnh, dựng người, tạo không khí cổ kính, trang trọng; trong việc sử dụng thủ pháp đối lập và ngôn ngữ rất giàu tính tạo hình.

* Các nhân vật của Nguyễn Tuân được miêu tả trong những khoảnh khắc đặc biệt nên rất ấn tượng. Nhân vật rất giàu tính cách, ngang tàng, tài năng, tâm hồn trong sáng.

* Đáng chú ý nhất là đoạn miêu tả cảnh cho chữ. Đoạn văn này thể hiện khả năng sử dụng bút pháp đối lập [thủ pháp đặc trưng của văn học lãng mạn] trong tạo dựng cảnh. Chính nhờ thủ pháp đối lập mà cảnh tượng này hiện lên với đầy đủ vẻ đẹp trang trọng, uy nghi, rực rỡ.

+ Đặc sắc nghệ thuật truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao:

* Ngôn ngữ trong tác phẩm rất sống động, vừa điêu luyện, nghệ thuật, vừa rất gần với lời ăn tiếng nói hàng ngày. Giọng điệu của nhà văn phong phú và biến hóa, có sự đan xen lẫn nhau.

* Nhà văn có khả năng chuyển từ vai này sang vai khác một cách tự nhiên, linh hoạt, gây hấp dẫn cho người đọc. Lúc thì trần thuật theo điểm nhìn của tác giả, lúc thì trần thuật theo điểm nhìn của nhân vật Chí Phèo, khi lại trần thuật theo điểm nhìn của nhân vật bá Kiến, thị Nở... tạo nên giọng điệu đan xen độc đáo.

5. Nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng trong đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia. Mục đích phê phán xã hội trước Cách mạng tháng Tám.

+ Những nét chính về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng thể hiện qua đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia:

* Nhan đề chương đã hàm chứa tính chất hài hước.

* Từ tình huống trào phúng cơ bản [hạnh phúc của một gia đình có tang], nhà văn triển khai mâu thuẫn theo nhiều tình huống khác nhau tạo nên màn hài kịch phong phú và biến hóa.

* Vũ Trọng Phụng sử dụng những chi tiết đối lập nhau gay gắt nhưng cùng tồn tại trong một sự vật, một con người, để từ đó làm bật lên tiếng cười. Đó là nghệ thuật miêu tả đám tang, ngôn ngữ mang giọng mỉa mai, giễu nhại.

* Các thủ pháp cường điệu, nói ngược, nói mỉa, những cách chơi chữ, so sánh bất ngờ, độc đáo... đều được sử dụng đan xen linh hoạt. Cụ cố tổ chết khiến cho đại gia đình bất hiếu đều hạnh phúc, nhưng mỗi người lại có niềm hạnh phúc riêng, tùy theo hoàn cảnh của từng người; từ con cháu trong nhà tới bạn bè của cụ, thậm chí đến cả bọn cảnh sát. Đặc biệt, đám ma được tổ chức rất nhố nhăng, lố bịch như một đám rước; đi đưa ma là cơ hội để mọi người gặp gỡ, trò chuyện, đùa cợt nhau, tán tỉnh nhau.

+ Bằng nghệ thuật trào phúng sắc bén, qua chương Hạnh phúc của một tang gia, Vũ Trọng Phụng đã phê phán mãnh liệt bản chất giả dối và sự lố lăng, đồi bại của xã hội "thượng lưu".

6. Quan điểm nghệ thuật của Nguyễn Huy Tưởng trong Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài.

+ Trong đoạn trích Vĩnh biệt cửu Trùng Đài, mâu thuẫn giữa nhân dân lầm than với bọn hôn quân bạo chúa cùng phe cánh của chúng đã được giải quyết dứt khoát. Bạo chúa Lê Tương Dực bị giết; Nguyễn Vũ [đại thần của y] tự sát; đám cung nữ bị những kẻ nổi loạn nhục mạ, bắt bớ.

+ Thế nhưng mâu thuẫn giữa quan điểm nghệ thuật cao siêu, thuần túy với lợi ích thiết thực của quần chúng nhân dân chưa được tác giả giải quyết dứt khoát.

* Vũ Như Tô cho đến lúc chết vẫn không nhận ra sai lầm của mình, vẫn đinh ninh là mình vô tội. Vũ Như Tô không đứng về phía hôn quân nhưng lại muốn mượn uy quyền và tiền bạc của hắn để thực hiện hoài bão nghệ thuật của mình nên đã vô tình gây thêm nỗi khổ cho nhân dân.

* Vũ Như Tô có tội hay có công? Vũ Như Tô đúng hay những người giết Vũ Như Tô đúng? là những câu hỏi day dứt mà tác giả cũng không thể giải quyết một cách rạch ròi, dứt khoát.

7. Bình luận quan điểm nghệ thuật của Nam Cao: "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, biết khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có".

+ Quan điểm của Nam Cao thể hiện sự ý thức sâu sắc và đòi hỏi rất cao sự tìm tòi sáng tạo của nhà văn trong nghề văn.

+ Ý kiến khẳng định yêu cầu hết sức quan trọng đối với tác phẩm văn chương, người nghệ sĩ phải sáng tạo, phải phát hiện ra những cái mới.

+ Trong hai mảng sáng tác giai đoạn trước Cách mạng, ở mảng đề tài về người nông dân, Nam Cao tìm cách khám phá quá trình con người bị tha hóa, bị đè nén đến mức trở thành lưu manh, từ đó đặt ra các vấn đề có ý nghĩa xã hội và nhân sinh.

8. Khát vọng của Rô-mê-ô và Giu-li-ét trong đoạn trích Tình yêu và thù hận.

+ Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét diễn ra trong hoàn cảnh hai dòng họ có mối hận thù truyền kiếp. Nỗi ám ảnh về hận thù giữa hai dòng họ xuất hiện ở Giu-li-ét nhiều hơn, thái độ của Rô-mê-ô đối với hận thù giữa hai dòng họ quyết liệt hơn. Chàng sẵn sàng từ bỏ dòng họ của mình, thể hiện sự dũng cảm để đến với tình yêu.

+ Cả Rô-mê-ô và Giu-li-ét đều ý thức được sự thù hận, song nỗi lo chung của hai người là lo họ không được yêu nhau, họ không có được tình yêu của nhau. Cả hai đều nhắc tới hận thù song không nhằm khơi dậy, khoét sâu hận thù mà để vượt lên trên hận thù, bất chấp hận thù. Sự thù hận của hai dòng họ tuy là cái nền nhưng tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét không xung đột với hận thù ấy.

Video liên quan

Chủ Đề