Cách chăm sóc măng cụt khi ra hoa

Măng cụt là loại trái cây khá phổ biến ở các nước Châu Á như Thái Lan, Mã lai, Indonesia và cả Việt Nam. Ở nước ta trồng chăm sóc măng cụt khá phổ biến ở miền Nam tại các tỉnh Đồng Bằng Sông Cửu Long. Giống cây măng cụt cho năng suất cao nên được bà con nơi đây trồng rộng rãi. Người tiêu dùng bình chọn đây là nữ hoàng của cây ăn trái nhiệt đới. Vì trái măng cụt hình dáng đẹp và hương vị thơm ngon giàu dinh dưỡng của chúng

1. Điều kiện sinh thái để trồng chăm sóc măng cụt

Đất trồng: Măng cụt không kén đất. Nhưng giống măng cụt phát triển tốt nhất trên đất tơi xốp, dễ thoát nước, giàu chất hữu cơ. Măng cụt không thích hợp trên đất mặn hoặc nhiễm mặn.

Nhiệt độ và ánh sáng: Măng cụt phát triển tốt ở nhiệt độ 25-35oC, không ưa trảng nên khi trồng cần phải che bóng cho măng cụt.

Nước: cần cung cấp nước đầy đủ trong mùa nắng và thoát nước tốt trong mùa mưa.

2. Kỹ thuật nhân giống để trồng chăm sóc măng cụt.

Nhân giống măng cụt bằng cách ghép đọt hoặc gieo hạt.

– Phương pháp ghép không đạt hiệu quả cao. Do cây măng cụt con có tỉ lệ hao hụt rất lớn. Cây măng cụt ghép cho trái nhỏ và ít hơn so với cây trồng bằng hạt măng cụt.

– Gieo hạt là phương pháp nhân giống phổ biến của măng cụt. Măng cụt đậu trái không thụ phấn, hạt măng cụt được phát triển từ phôi cái nên cây trồng từ hạt có đặc tính giống như cây mẹ.

Cách gieo hạt: hạt măng cụt mau mất sức nẩy mầm, do đó không nên dự trữ hạt lâu. Chọn hạt to, nặng > 1g từ những trái mặng cụt chín. Rửa sạch hạt và gieo vào bầu đất hoặc liếp ươm. Vật liệu của bầu hoặc liếp ươm là tro trấu, bột sơ dừa hoặc cát mịn trộn phân hữu cơ. Thường xuyên tưới nước giữ ẩm, 20-30 ngày sau hạt măng cụt nẩy mầm.  

Khi cây lớn thì chuyển sang bầu lớn chú ý không làm tổn thương rễ vì rễ măng cụt không có lông hút và rất yếu. Cây phát triển rất chậm, trung bình 2 tháng măng cụt mới cho 1 cặp lá. Khi được chăm sóc tốt, bón phân đầy đủ sẽ giúp cho măng cụt phát triển nhanh hơn.

3. Kỹ thuật trồng chăm sóc măng cụt: 

Chuẩn bị đất: nên trồng măng cụt trên mô của đất liếp, có bờ bao cống bọng để thoát nước tốt trong mùa mưa, cung cấp đủ nước trong mùa nắng.

Mật độ khoảng cách: măng cụt có tán cây lớn, tán là sum xuê, do đó nên trồng thưa cây cách nhau 7-10m, mật độ 100-200 cây/ha, với khoảng cách trồng nầy cây sẽ giao tán sau 30 năm trồng.

Chuẩn bị mô: mô cần được chuẩn bị 1-2 tháng trước khi trồng. Mô hình tròn có đường kính 0,6 –0,8m, cao 0,3-0,5m tùy theo địa hình cao hay thấp. Đất mô nên trộn với 10-20 kg phân chuồng hoai và 200g phân NPK 15-15-15.

Kỹ thuật trồng: Khi cây con được 2 năm tuổi thì đem đi trồng, lúc này cây có 12-13 cặp lá và 1 cành cấp 1, khoét lỗ trên mô vừa với bầu đất, nhẹ nhàng đặt cây vào, lấp đất ngang mặt bầu, cắm cọc giữa cây không bị đổ ngã. Khi đặt cây cần cẩn thận để không bị hư rễ.

Trồng cây che bóng và cây chắn gió trước khi trồng chăm sóc măng cụt:

Măng cụt không chịu được ánh nắng trực tiếp, do đó cần che bóng cho cây trong 4-5 năm đầu. có thể trồng xen măng cụt với chuối hoặc trồng dưới tán dừa [hạn chế trồng chuối sứ vì chuối sứ có bộ rễ phát triển mạnh nên sẽ cạnh tranh dinh dưỡng với măng cụt].

Cần trồng cây chắn gió cho măng cụt vì gió có thể làm hại lá và trái.

Tưới nước:

Bộ rễ măng cụt không có lông hút và phát triển kém cho nên cần cung cấp đầy đủ, thường xuyên cho cây trong mùa nắng và thoát nước tốt trong mùa mưa. Nếu thiếu nước cây sẽ chậm lớn. Đặc biệt giai đoạn sau trổ hoa, mang trái, nếu thiếu nước trái măng cụt nhỏ và có phẩm chất kém.

Tỉa cành, tạo tán:

Khi cành còn nhỏ cần tỉa bỏ các cành vượt, cành đan chéo nhau để tạo tán cho cây cân đối sau này.

Khi cây đã cho trái, sau thu hoạch cần tỉa bỏ cành sâu bệnh, giập gãy, cành vượt. Chú ý không tỉa quá nhiều làm cho gốc trơ trụi, ánh nắng mặt trời chiếu thẳng vào gốc sẽ gây hại cho cây. Để tạo tán cho cây lùn và tròn đều thì tiến hành cắt ngọn khi cây cao 8-10 m.

4. Bón phân và xử lý ra hoa cho cây măng cụt 

4.1 Bón phân cho cây măng cụt

Cần bón cho cây 10-20kg phân chuồng/năm/cây vào đầu hoặc cuối mùa mưa. Ngoài ra, cần bón thêm phân NPK có hàm lượng N cao để giúp cây tăng trưởng nhanh.

– Giai đoạn cây chưa cho trái: năm đầu sau trồng bón 0,5kg/cây, các năm sau tăng dần lên mỗi năm 0,5kg. Có thế bón 2 lần trong năm, vào đầu và cuối mùa mưa.

– Giai đoạn cây cho trái ổn định: hàng năm bón cho cây phân chuồng và 10-12 kg phân NPK. Chia làm 3 lần bón:

+ Lần 1: sau thu hoạch bón toàn bộ phân chuồng = 3-4kg NPK 20-20-15.

+ Lần 2: trước khi ra hoa 30-40 ngày, bón phân có hàm lượng N thấp, P và K cao, mỗi gốc bón 3-4 kg DAP + Kali theo tỉ lệ 1:1.

+ Lần 3: sau đậu trái, khi đường kính trái 2cm, bón phân có hàm lượng K cao, để tăng phẩm chất trái. Mỗi gốc bón 3-4kg phân 20-20-15.        

Tuy nhiên, mỗi lượng phân bón có thể gia giảm tùy thuộc vào tán cây, vào tình trạng sinh trưởng của cây, cây càng lớn lượng phân bón ngày càng tăng, năm trúng mùa bón nhiều hơn năm thất mùa. Nếu cây phát triển chậm thì tăng cường thêm phân Urea.

4.2 Xử lý ra hoa sớm:

Để măng cụt ra hoa sớm và bán được giá cao thì ngay sau thu hoạch tiến hành tỉa cành, bón phân để giúp cây sớm đâm tược non. Khi thấy cây chậm ra tược có thể phun thêm urea trên lá với liều lượng 50-100g/bình.

Khi đọt non được 9-10 tuần tuổi thì rút nước ra khỏi mương vườn và ngưng tưới trong 3-4 tuần, đến khi là có biểu hiện héo thì tiến hành cho nước vào mương và tưới đẫm trở lại: thực hiện 1-2 lần cây sẽ ra hoa. Nếu cây chưa ra hoa có thể tạo khô hạn lại lần

5. Phòng trừ sâu bệnh cho cây măng cụt 

5.1 Sâu vẽ bùa:

Sâu non phá hại bằng cách đào những đường ngoằn ngoèo, ăn lớp biểu bì của lá làm cho lá bị biến dạng, mặt trên của lá bị khô, lá bị rụng. Bướm đẻ trứng trên là, làm nhộng trên những hầm ở lá.

Phòng trị: phun các loại thuốc như Vertimec, cyperan, polytrin, D.C. Tronplus, confidor.

5.2 Nhện đỏ:

Ấu trùng màu vàng nhạt hoặc nâu nhạt, khi trưởng thành có màu đỏ. Nhện đỏ tấn công lên là và trái, chích cạp và hút nhựa lá và trái. Trên lá, vết thương tạo thành những chấm nhỏ li ti trên mặt lá, khi bị nặng vết chấm lan rộng và có màu ánh bạc, sau đó là có thể bị khô và rụng.

Trên trái, nhện thường sống tập trung ở phần cuống trái và đáy trái. Khi trái còn non, nhện chích và hút dịch ở lớp biểu bì là vỏ trái bị sần sùi.

Phòng bệnh: nhện đỏ thường lờn thuốc, do đó cần luân phiên các loại thuốc đặc trị nhện như: Comite, Trebon, Danitol,…

5.3 Hiện tượng chảy nhựa vàng:

Có thể do bọ trĩ tấn công từ khi cây ra hoa đến sau đậu trái. Bọ trĩ làm cho trái bị chảy nhựa, làm giảm giá trị thương phẩm. Ngoài ra, 1-2 tháng trước khi trái chín nếu gặp mưa lớn và mưa liên tục cũng làm cho trái dễ bị chảy nhựa vàng, nếu nặng thì phần thịt trái bị đắng, không ăn được.

Phòng bệnh: phun các loại thuốc như Cyperan, Confidor, trebon, Regent, Comite,…

Ngoài ra, măng cụt còn có các loại côn trùng khác tấn công như rệp dính, bọ xít,…

5.4 Bệnh hại:

Chết nhánh: do nấm Pastaliotopsis sp. Làm cháy là và chết nhánh nhỏ trên cây, bệnh có thể lây lan nhanh làm cho cây xơ xác.. Phòng trị bằng cách phun các loại thuốc trừ nấm như: Manzate, Rovral, Derosal, Daconil,…

Bệnh đốm rong: do nấm Cephaleuros virescens tấn công lên nhanh, thân tạo thành các đốm đồng tiền màu vàng hoặc màu xám xanh. Phòng trị bằng cách cạo vết bệnh và bôi thuốc có gốc đồng hoặc vôi quét tường lên vết bệnh.

6. Thu hoạch măng cụt 

Khoảng 4 tháng sau khi hoa thụ phấn thì có thể thu hoạch, thu khi màu vỏ vừa chuyển qua màu đỏ, thu non lúc vỏ mới chuyển màu hồng thì cơm trong; thu già khi màu vỏ trái tím sẫm thì trái cứng. Ở Việt Nam cây 7 – 8 tuổi mới chỉ có 10 – 20 quả bói. Dùng sào tre làm lồng để thu quả, tránh giựt làm quả rớt xuống đất sẽ khó bảo quản sau này. Thu hái, chuyên chở cẩn thận. Khi tồn trữ lâu vỏ quả rắn lại, còn thịt quả có khuynh hướng chuyển qua màu nâu.

Ấn tượng đầu tiên của nhiều người về những quả măng cụt là loại quả vỏ cứng, chát nhưng ruột lại thơm, ngọt mát. Măng cụt là loại trái cây được dùng phổ biến tại khu vực Châu Á, các nước láng giềng Việt Nam như Thái Lan, Mã Lai, Indonesia… cũng là những nước trồng nhiều loại quả này. Ở Việt Nam thì măng cụt được trồng chủ yếu ở miền Nam tại các tỉnh thuộc khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. Măng cụt là loại quả cho năng suất cao và doanh thu tốt nên rất nhiều người trồng măng cụt, tuy nhiên cần phải biết kỹ thuật trồng và chăm sóc măng cụt nhằm đạt chất lượng mùa vụ tốt.

Kiến thức sơ lược về măng cụt

Kiến thức sơ lược về măng cụt

Măng cụt là một trong những loại trái cây được nhiều người ưa thích. Măng cụt có bắt nguồn từ các nước Myanma, Malaysia, Thái Lan, Indonesia… chủ yếu tập trung phát triển mạnh nhất ở các vùng quốc gia nhiệt đới gió mùa như vùng châu Á. Cây măng cụt sinh sống và phát triển ưa nhiệt đới, ẩm.

  • Măng cụt có thân cây giống thân gỗ như nhãn hay vú sữa, khá to và cao khi nhiều năm tuổi.
  • Chiều cao trung bình mỗi cây măng cụt trưởng thành khoảng 10m.
  • Cây măng cụt thuộc dạng tán rộng, tròn, nhiều cành và nhiều lớp lá dày, lá màu xanh thẫm, cỡ trung.
  • Rễ măng cụt thuộc rễ nông [chủ yếu ở trên mặt đất] và phát triển rễ khá chậm.
  • Trái măng cụt vừa lòng bàn tay, không quá to hay nhỏ.
  • Vỏ rất cứng và chát.
  • Phía cuống vỏ có 5-6 cánh trông rất đẹp mắt.
  • Ruột măng cụt chia thành các múi, có hạt bé hoặc không có hạt. Vị ngọt thanh, hơi chua rất nhẹ của măng cụt luôn để lại ấn tượng rất sâu.
  • Măng cụt ra hoa vào đợt tháng 3 hàng năm và thu hoạch từ tháng 5 tới tháng 8 hàng năm.

Măng cụt được sử dụng và ưa chuộng không đơn giản chỉ vì có hương vị ngon ngọt mà còn có nhiều công dụng cho người sử dụng. Măng cụt có các thành phần vitamin rất tốt giúp chống mệt mỏi, giảm huyết áp, cân bằng dịch dạ dày, giúp cải thiện làn da và cân bằng nhịp tim, nhịp thở… Ngoài ra, măng cụt cũng có công dụng trong làm thuốc chống viêm, chữa tiêu chảy, hen suyễn…

Măng cụt ở Việt Nam được trồng nhiều tại vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và Đông Nam Bộ – nơi có đất phù sa màu mỡ và nhiệt độ nóng ẩm quanh năm rất tương thích với điều kiện phát triển của cây.

Điều kiện sinh thái để măng cụt phát triển

Cây măng cụt ưa nhiệt cao. Nhiệt độ thích hợp cho sinh trưởng là khoảng  25 – 35 độ C. Vượt ngưỡng nhiệt độ trên cây vẫn có thể sinh trưởng nhưng sự phát triển sẽ bị ảnh hưởng lớn, thêm vào đó, khả năng sinh hoa đậu quả là điều khá khó khăn. Nếu dưới 50 độ C, cây sẽ chết hoàn toàn.

Cây măng cụt có thể sinh trưởng ở nhiều loại đất khác nhau nhưng phát triển tốt nhất nếu trồng bằng loại đất sét giàu hữu cơ, tầng canh tác dày, thoát nước tốt và gần nguồn nước tưới. Mặc dù sinh trưởng tốt vùng Đồng bằng Sông Cửu Long tuy nhiên măng cụt không thích hợp trên vùng đất mặn hoặc đất bị nhiễm mặn. Cây măng cụt phù hợp với khí hậu nhiệt đới có nhiệt độ và độ ẩm cao, kết hợp với lượng mưa lớn.

Bộ rễ của măng cụt nông, ngắn và phát triển yếu, chậm nên cần được quang hợp đủ để nhanh phát triển. Tuy nhiên, nếu là cây con thì măng cụt lại không ưa sáng nên cần có lưới che trong râm để tiện phát triển. Khi cây đang trong giai đoạn đầu phát triển [chưa thu hoạch], cây cần được bón đầy đủ phân lân, đạm, kali. Khi cây có quả, cần bón thêm phân bón NPK. Để có thể thu hoạch, cây măng cụt thường được chăm sóc từ 6 – 8  năm.

Cách nhân giống cây măng cụt phổ biến

Cách nhân giống cây măng cụt phổ biến

Hai cách nhân giống măng cụt phổ biến nhất hiện nay là gieo hạt và ghép cành.

Gieo hạt

Đối với phương pháp gieo hạt nên chọn những hạt to, mẩy từ những quả chín không bị sâu bệnh. Kế đó tiến hành tách bỏ phần thịt bao quanh hạt sau đó rửa sạch và đem gieo vào bầu hoặc liếp ướm cây.

Đối với bầu ươm

  • Sử dụng giá thể chất xốp như tro trấu và xơ dừa.
  • Sau khi gieo hạt, cần tưới nước giữ ẩm và che nắng cẩn thận.
  • Khoảng 25 – 30 ngày sau hạt sẽ nảy mầm.

Đối với dùng liếp ươm

  • Làm bằng đất nhỏ, tơi xốp và trộn thêm ít trấu lên mặt liếp.
  • Liếp có độ rộng 1 – 1,2m, cao 20 – 30cm.
  • Gieo hạt cách nhau 20cm và hàng cách nhau 20 – 25cm.
  • Phủ lên một lớp đất mỏng hoặc xơ dừa, rơm… tưới nước giữ ẩm và che nắng cẩn thận.
  • Sau khi cây nảy mần khoảng 2,5 – 3 tháng thì chuyển cây sang bầu mới.

Khi cây lớn, tiến hành chuyển cây con sang bầu lớn hơn để cây phát triển rễ. Lúc này bà con cần cẩn thận để không làm tổn thương rễ của cây. Bộ rễ của cây măng cụt khá yếu nếu gây tổn thương bộ rễ ảnh hưởng không tốt đến quá trình phát triển.

Ghép cành

Đối với phương pháp ghép cành, có thể ghép giống cây quanh năm khi tiện tuy nhiên để tốt nhất nên thực hiện vào mùa mưa nhằm tăng tỷ lệ thành công.

Dụng cụ ghép cành bao gồm: dao ghép cành, dây nilon tự hủy, gốc ghép, cành ghép.

Lưu ý: Cần chọn những cây khoảng 2 năm tuối có trụ gốc thẳng, phát triển khỏe mạnh, không có bệnh, không bị sâu bệnh hại tấn công, ngoài ra chiều cao của cây giống cần đạt tối thiếu 60cm [tính từ mặt bầu ươm]. Cành ghép nên chọn những cành có 3 – 4 cặp lá, cành khỏe, không sâu bệnh và tốt nhất là cành nên có kích thước tương đối với gốc ghép.

Cách thực hiện:

  • Cắt bỏ phần ngọn tại gốc ghép cây, để lại khoảng 10 – 13cm.
  • Sử dụng dao sắc chẻ dọc thân gốc ghép khoảng 2 – 2,5cm.
  • Ở cành ghép cắt bỏ 1/3 phiến lá
  • Ở phần gốc cành ghép, vát theo hình nêm dài bằng vết chẻ ở trên gốc ghép.
  • Dùng dây nilon tự hủy quấn chặt vết ghép, dùng túi nilon đủ lớn để chụp ngọn ghép lại và sau đó bộc kín ở phía dưới.
  • Khoảng 20 ngày sau, tháo túi nilon và trong khoảng 25 – 30 ngày, tháo phần dây cuốn còn lại.
  • Sau khi ghép bà con cần che nắng và tưới nước đầy đủ, khoảng 2,5 – 3 tháng thì có thể đưa ra trồng cây mới.

Phương pháp trồng cây măng cụt

Phương pháp trồng cây măng cụt

Tùy vào môi trường, địa hình và các điều kiện tự nhiên của vùng trồng mà lên kế hoạch tính toán mật độ trồng và cách chuẩn bị đất trồng khác nhau. Mật độ trung bình cây cách nhau 7 – 10m tương ứng với 100 – 200 cây/ha.

Thông thường, ở khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long nếu trồng theo cách đắp ụ thì cần chú ý bồi ụ thật kỹ để tránh tình trạng đất bị sạt lỡ ảnh hưởng đến bộ rễ của cây. Những khu vực có địa hình thấp nên tiến hành xẻ liếp, đào mương để tối ưu khả năng thoát nước, nâng cao tầng canh tác đất để tránh ngập úng.

Quy cách hố trồng: Đào với khoảng cách từ 60 x 60 x 60cm đến 80 x 80 x 80cm. Khi làm bồn xong, bón lót 2 – 3kg phân bón hữu cơ mỗi gốc. Đảo đều với đất, tưới nước để giữ ẩm cho đất và chờ sau 20 – 30 ngày mới xuống giống sẽ giúp cây có điều kiện tốt nhất để phát triển và tăng khả năng đề kháng với sâu bệnh hại.

Cách bón phân cho cây măng cụt

Giai đoạn cây con: mỗi năm bón từ 5 – 10kg phân chuồng + NPK 15-15-15 mỗi gốc. Liều lượng phân bón:

  • Năm 1: 0,3-0,5 kg/cây/năm
  • Năm 2: 0,5 – 0,7 kg/cây/năm
  • Năm 3: 0,7 – 1 kg/cây/năm
  • Năm 4: 1 – 1,5 kg/cây/năm

Giai đoạn cây ra trái:

  • Lần 1 [sau khi thu hoạch trái xong]: NPK 20-5-6 kết hợp 20 – 30kg phân chuồng/cây
  • Lần 2 [trước khi cây ra hoa 30 – 40 ngày]: NPK 20-20-15 lượng bón 1 – 2 kg/cây
  • Lần 3 [khi cây vừa đậu trái]: NPK 17-7-21 lượng bón 2 – 3kg/cây

Sâu bệnh hại trên cây măng cụt

1. Xì mủ, sượng trái

Xì mủ, sượng trái

Bệnh này thường thấy dấu hiệu trên vỏ trái măng cụt. Khi nhiễm bệnh, vỏ trái sẽ bị xì mủ, bị sượng phần ruột bên trong và không còn vị ngọt ban đầu. Thời điểm 2-3 tuần trước khi thu hoạch nếu có mưa liên tục và mưa lớn rất dễ làm bệnh này phát tán. Bệnh xì mủ làm hỏng chất lượng quả, giảm giá trị của thu hoạch và gây hại dinh dưỡng của cây.

2. Thán thư

Thán thư

Bệnh thán thư ở măng cụt thường thấy ở lá, quả và cành cây. Bệnh này bùng phát nhanh và mạnh vào mỗi mùa mưa khi có độ ẩm cao. Dấu hiệu nhận biết rất rõ rệt trên lá khi có xuất hiện những đốm đen trắng nhỏ li ti được bao bọc bởi các vòng xung quanh chính là những tế bào lá bị hỏng. Bệnh gây hại dinh dưỡng của cây.

3. Sâu vẽ bùa

Sâu vẽ bùa thường diễn ra từ những đợt lá còn non, giảm sinh trưởng và sức sống của cây. Loại sâu này thường gây hại khi buổi tối, vẽ và đục các đường ở lớp biểu bì lá để hút diệp lục. Lâu dần, lá bị khô hoàn toàn và mất khả năng quang hợp, bị rụng lá. Ngoài ra, cây măng cụt thường xuyên có nhiều bệnh khác như đốm rong, nhện đỏ…

Lời kết

Hi vọng những chia sẻ trên về kỹ thuật trồng và chăm sóc cây măng cụt sẽ mang lại cho các bạn, đặc biệt là bà con nông dân có thêm những kiến thức quan trọng để trồng măng cụt đúng cách, hiệu quả và có một mùa bội thu.

Video liên quan

Chủ Đề