Chẩn đoán sơ bộ là gì

Có nhiều loại lỗi nhận thứ, mặc dù việc tránh những lỗi này quan trọng hơn là phân biệt chúng khi chúng đã xảy ra rồi, tuy nhiên phân loại các lỗi nhận thức có thể giúp bác sỹ lâm sàng nhận biết và tránh chúng.

Các lỗi nhận thức có thể được phân loại như sau

  • Đánh giá sai về xác suất thử nghiệm trước [đánh giá quá cao hoặc đánh giá thấp khả năng mắc bệnh]

  • Không xem xét nghiêm túc tất cả các khả năng liên quan

Cả hai loại lỗi đều có thể dẫn đến việc xét nghiệm không đúng [quá nhiều hoặc quá ít] và chẩn đoán không đúng.

Lỗi khả dụng xảy ra khi các bác sĩ lâm sàng đánh giá sai số xác suất trước của bệnh do dựa vào kinh nghiệm gần đây. Kinh nghiệm thường dẫn đến sự đánh giá quá cao về xác suất khi có một sự ghi nhớ ấn tượng về một trường hợp lâm sàng không mong muốn hoặc liên quan đến kiện tụng Ví dụ, một bác sĩ lâm sàng đã bỏ lỡ chẩn đoán tắc mạch phổi ở một phụ nữ trẻ khỏe mạnh bị đau ngực, nhưng không có những yếu tố nguy cơ rõ ràng, từ đó có thể đánh giá quá cao nguy cơ tắc mạch phổi ở những bệnh nhân tương tự và dẫn đến chỉ định chụp MSCT mạch phổi cho những ca nguy cơ thấp tương tự. Kinh nghiệm cũng có thể dẫn đến đánh giá thấp khả năng bị bênh. Ví dụ, trong một quần thể dân cư, có một số ca đau ngực không nguy hiểm, lành tính, từ đó dẫn đến việc bác sĩ đánh giá qua loa những bệnh nhân đau ngực sau đó và bỏ sót chẩn đoán

Lỗi đại diện xảy ra khi các nhà lâm sàng đánh giá xác suất của căn bệnh dựa trên mức độ tương đồng chặt chẽ giữa các triệu chứng tìm được với các biểu hiện đặc trưng của bệnh mà không tính đến nguy cơ mắc bệnh của từng bệnh nhân Ví dụ, bệnh nhân nam 60 tuổi, thể trạng gầy, xuất hiện triệu chứng đau ngực mơ hồ trong vài giờ, và không có tiền sử gì đặc biệt trước đây, dù những triệu chứng này không phù hợp với triệu chứng của nhồi máu cơ tim điển hình, tuy nhiên cũng không được bỏ sót chẩn đoán nhồi máu cơ tim ở những bệnh nhân này, vì nhồi máu cơ tim rất phổ biến ở độ tuổi đó, và triệu chứng lâm sàng của nhồi máu cơ tim rất biến đổi. Ngược lại, có thể nghi ngờ tách thành động mạch chủ trên đối tượng nam khỏe mạnh 20 tuổi khởi phát đau ngực và đau lưng dữ dội, vì tách thành động mạch chủ thường có những triệu chứng lâm sàng như vậy. Lỗi nhận thức ở đây là việc bác sĩ lâm sàng đã không tính đến khả năng mắc tách thành động mạch chủ ở lứa tuổi này là rất thấp, từ đó loại trừ bệnh lý này và, thay vào đó cân nhắc các nguy cơ khác nhiều khả năng hơn như tràn khí màng phổi, viêm màng phổi. Lỗi đại diện cũng xảy ra khi các bác sĩ lâm sàng không nhận ra rằng các kết quả xét nghiệm dương tính trong một quần thể hiếm khi thực hiện xét nghiệm này, tỷ lệ dương tính giả cao hơn so với dương tính thật.

Kết luận sớm là một trong những lỗi phổ biến nhất; bác sĩ lâm sàng đưa ra một chẩn đoán nhanh [thường dựa trên việc nhận dạng mẫu], không xem xét các chẩn đoán phân biệt khác và ngừng thu thập dữ liệu [đi đến kết luận]. Chẩn đoán nghi ngờ thậm chí không được khẳng định bằng các xét nghiệm thích hợp. Các lỗi kết luận sớm có thể xảy ra bất cứ khi nào nhưng nó đặc biệt phổ biến khi bệnh nhân xuất hiện những triệu chứng của một bệnh lý đã biết trước - ví dụ, nếu một bệnh nhân nữ có tiền sử đau nửa đầu nhiều năm, nay xuất hiện đau đầu dữ dội, bác sĩ dễ chẩn đoán ngay là một cơn đau nửa đầu, mặc dù thực sự bệnh nhân đang có tình trạng xuất huyết dưới nhện. Một biến thể khác của chẩn đoán sớm xảy ra khi các nhà lâm sàng tiếp theo [ví dụ như chuyên gia tư vấn các ca bệnh phức tạp] dễ dàng chấp nhận các chẩn đoán trước đó mà không thu thập và xem xét dữ liệu liên quan một cách độc lập. Hồ sơ y tế điện tử có thể làm trầm trọng thêm các lỗi kết luận sớm, vì chẩn đoán không chính xác trước đây có thể tiếp diễn cho đến khi chúng bị loại bỏ.

Lỗi mỏ neo xảy ra khi các bác sĩ lâm sàng kiên định bám vào một ấn tượng ban đầu ngay cả khi dữ liệu xung đột và mâu thuẫn tích tụ. Ví dụ, một chẩn đoán viêm tụy cấp là khá hợp lý ở bệnh nhân nam 60 tuổi đau thượng vị và buồn nôn, có tiền sử mắc viêm tụy do rượu vài lần trước đó, bệnh nhân nói rằng cơn đau của mìnhlần này cũng giống như những lần trước. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân cho biết mình đã bỏ rượu nhiều năm nay, xét nghiệm enzyn tụy bình thường, bác sỹ lâm sàng sẽ phạm lỗi mỏ neo nếu đơn giản bỏ qua những dữ liệu này hoặc đưa ra các lý lẽ để bào chữa cho những dữ liệu không hợp lý với chẩn đoán [bệnh nhân đang nói dối, tuyến tụy bị phá hủy hoặc xét nghiệm sai]. Các bác sĩ lâm sàng nên xem việc mâu thuẫn giữa các dữ liệu này như là bằng chứng về sự cần thiết phải tiếp tục tìm ra chẩn đoán thật sự [nhồi máu cơ tim cấp], chứ không phải chỉ đơn giản là bỏ qua chúng. Có thể không có bằng chứng hỗ trợ [để chẩn đoán sai] trong một số trường hợp, trong đó có các lỗi neo.

Thiên kiến xác nhận xảy ra khi các bác sĩ lâm sàng chấp nhận dữ liệu lâm sàng một cách có chọn lọc, chọn dữ liệu ủng hộ một giả thuyết mong muốn và bỏ qua dữ liệu không hợp lí [lấp liếm bằng chứng]. Thiên kiến xác nhận thường gây ra một lỗi neo khi bác sĩ lâm sàng sử dụng dữ liệu xác nhận để hỗ trợ giả thuyết, ngay cả khi có bằng chứng mâu thuẫn rõ ràng. Ví dụ, bác sĩ có thể kiên định bám vào bệnh sử của bệnh nhân cho thấy hội chứng mạch vành cấp [ACS] để xác nhận nghi ngờ ban đầu của ACS ngay cả khi không có sự biến đổi động học trên điện tâm đồ và men tim.

Lỗi quy kết liên quan đến các ấn tượng tiêu cực khiến các bác sĩ lâm sàng bỏ qua hoặc giảm thiểu khả năng mắc các bệnh nghiêm trọng. Ví dụ, bác sĩ lâm sàng có thể cho rằng một bệnh nhân vô thức có mùi rượu là "say rượu" và bỏ lỡ tình trạng hạ đường huyết hoặc chấn thương nội sọ, hoặc bác sĩ có thể cho rằng bệnh nhân có tiền sử nghiện ma túy có biểu hiện đau lưng chỉ đơn giản là tìm kiếm ma túy và bỏ lỡ chẩn đoán áp xe ngoài màng cứng do dùng kim tiêm bẩn. Khi các bệnh nhân tâm thần xuất hiện bệnh lý thực thể, các bác sĩ lâm sàng dễ có khả năng mắc các lỗi quy kết trong chẩn đoán, không chỉ bởi vì các triệu chứng của họ các thể bị rập khuôn theo một khuôn mẫu, mà còn bởi vì họ thường không thể diễn tả các triệu chứng của bản thân một các rõ ràng, khiến cho bác sỹ lâm sàng dễ suy luận đó là một trạng thái rối loạn tâm thần chứ không phải thực thể.

Lỗi ảnh hưởng liên quan đến việc tránh các xét nghiệm hoặc kiểm tra cần thiết bởi điều đó gây khó chịu cho bệnh nhân [tránh khám vùng khung chậu khi bệnh nhân ngại, hoặc tránh cấy máu trên bệnh nhân bệnh nặng và khó lấy ven].

Đọc hiểu hồ sơ khám bệnh của khách hàng là một kỹ năng quan trọng đại lý bảo hiểm nhân thọ cần biết trong Thẩm định sơ bộ.

Hẳn không ít lần các đại lý bảo hiểm được nhìn thấy hồ sơ y tế của khách hàng khi nộp về cty bảo hiểm. Hiểu được những thông tin quan trọng trong bộ hồ sơ khám bệnh đó sẽ giúp các bạn rất nhiều trong quá trình thẩm định sức khỏe khách hàng. Bài viết này sẽ giúp cho đại lý bảo hiểm biết những thông tin gì cần đặc biệt quan tâm.

Tại sao nên lưu giữ hồ sơ khám bệnh?

Người Việt Nam hiện tại vẫn chưa có thói quen lưu giữ hồ sơ y tế khám chữa bệnh trong quá khứ của bản thân. Thói quen này thực sự rất có lợi cho mọi người.

Giúp bác sĩ nắm được tiền sử của bệnh nhân [BN] một cách chính xác:

Thay vì dựa vào trí nhớ, lưu giữ hồ sơ khám bệnh sẽ giúp bác sĩ nhanh chóng nắm được tiền sử bệnh, từ đó đưa ra liệu pháp điều trị phù hợp.

Giúp bệnh nhân tiết kiệm chi phí khám

Rất nhiều trường hợp bác sĩ sẽ sử dụng lại những hồ sơ khám cũ của BN thay vì chỉ định làm lại các xét nghiệm. Chính vì thế sẽ giúp BN tiết kiệm được một khoản chi phí phát sinh.

Những lưu ý khi cầm trên tay một bộ hồ sơ khám bệnh

Hồ sơ khám bệnh tiêu chuẩn gồm những gì?

Một bộ hồ sơ khám bệnh sẽ gồm 5 thành phần sau:

  1. Sổ khám bệnh
  2. Phiếu chỉ định cận lâm sàng
  3. Phiếu kết quả cận lâm sàng + Phim XQ, CT, MRI, ảnh siêu âm…
  4. Đơn thuốc
  5. Phiếu công khai chi phí, hóa đơn…

Những điểm cần lưu ý khi đọc hồ sơ khám bệnh

Đối với sổ khám bệnh, cần lưu ý:

    • Phần chẩn đoán sơ bộ của bác sỹ. Chẩn đoán sơ bộ là chẩn đoán ban đầu dựa vào kết quả khám lâm sàng [sờ, nắn, nhìn, nghe, gõ].
    • Phần tiền sử bệnh: Là những bệnh khác của BN đã từng mắc [nếu có] qua lời kể.
    • Phần bệnh sử: Là diễn tiến của đợt bệnh mà BN đang đến khám.

Đối với phiếu kết quả cận lâm sàng, cần lưu ý so sánh giữa cột kết quả và các cột chỉ số tham chiếu. Các cột chỉ số tham chiếu sẽ có 3 mức chỉ số Cao, Bình thường và Thấp.

Đối với kết quả siêu âm, cần lưu ý phần kết luận của bác sỹ siêu âm.

    • Nếu kết luận siêu âm bình thường, BN có thể yên tâm bỏ qua
    • Nếu kết luận siêu âm có bất thường, hãy đọc kỹ hơn phần mô tả ở phía trên.

Đối với chẩn đoán xác định: Đôi khi bác sỹ có ghi thêm những chẩn đoán không thực sự liên quan đến đợt điều trị hiện tại. Vì vậy, hãy để ý đến phần chẩn đoán xác định này.

Kỹ thuật khai tiền sử bệnh của khách hàng

  • Kết hợp khéo léo giữa câu hỏi đóng và câu hỏi mở

Câu hỏi mở giúp tư vấn viên khai thác thông tin tiền sử của khách hàng. Các câu hỏi mở là các câu bắt đầu bằng các từ như “khi nào, ở đâu, tại sao, như thế nào…”

Câu hỏi đóng lại giúp tư vấn viên chốt lại luận điểm, kiểm chứng lại thông tin. Các câu hỏi đóng là những câu hỏi có câu trả lời là Có/Không hoặc Đúng/Sai

  • Luôn giả định rằng khách hàng có hơn một tiền sử y tế

Thống kê chỉ ra rằng, 60% người trưởng thành có hơn một tiền sử y tế. Vì vậy, hãy luôn giả định rằng khách hàng của mình có hơn một tiền sử y tế.

Mời các bạn tham khảo video phân tích chi tiết bên dưới:

Có thể bạn quan tâm:

Nếu như bạn đang cho rằng: “Các cty bảo hiểm chi trả cho MỌI bệnh ung thư biểu mô tại chỗ”. Bạn đang hiểu sai. …

134 Bệnh lý nghiêm trọng của Manulife Việt Nam có phải là nhiều nhất thị trường? Bài viết sẽ phân tích chi tiết danh sách …

Bài giảng Thẩm định sơ bộ cho đại lý bảo hiểm nhân thọ của Dr. QuynhMai Nguyễn.

Video liên quan

Chủ Đề