Chức tước là gì


[ Nguồn : hoisachbachhop .com ]

\ ˚˚ /____\ ˚˚ /

A**** Tước vị chư hầu:

Vương: dùng để phong cho những người thuộc hoàng tộc và anh em trực hệ với vua, các hoàng tử.

Gồm có:

+ Quốc Vương: đứng đầu một nước.

+ Thân Vương: anh em của vua.

+ Quận Vương: con cháu thuộc hoàng tộc.

+ Vương: con hoặc anh em vua.


*Vương có tên ba chữ có vị trí thấp hơn Vương có tên hai chữ.
VD: Thanh Đô Vương sau khi lập nhiều chiến công mới được phong lên làm Thanh Vương.

*Một số trường hợp Vương cũng được phong cho người ngoài tộc, nhưng đa số vì người đó có công quá lớn và dưới sự bức bách của nhân dân.


Công: [Thấp hơn Vương] Dành cho các con hoàng thái tử và thân vương.

Gồm có:

+ Quốc công: Phong cho những người có binh quyền lớn hoặc thế tử của các Vương.

+ Quận công: Phong cho những người có binh quyền và công lao lớn không có huyết thống hoàng tộc.

Hầu: [Thấp hơn Công] Phong cho những người có công lao hoặc danh vọng lớn, hoặc con trưởng của các quốc công hoặc vương.

Bá: Phong cho cháu đời ba trong hoàng tộc [Tức là cháu của các vương], hoặc con trưởng của các công chúa.

Tử: Phong cho quan lại nhất phẩm, con thứ của công chúa, con trưởng của Hầu, Bá.

Nam: Phong cho quan lại phó nhất phẩm, con thứ của công chúa, con trưởng của Hầu, Bá.

*Nói chung tước thường đi kèm với quan chức, tuy nhiên về mặt quan trường thì có khi Nam tước còn cao hơn cả quan Thượng Thư.

B****Cấp bậc quan lại:

Quan lại được thay đổi qua nhiều triều đại, cấp bậc cũng từ đó thay đổi theo, nhưng tên và quyền hạn của các chức quan đó đa số đều không có nhiều thay đổi, trong đó:

I.Quan ở trung ương:

Các quan cao nhất chuyên phụ giúp cho vua có:

Tể tướng: Người đứng đầu của các quan văn trong triều, có thể thay mặt vua xử lý mọi việc hành chính quốc gia.

* Qua các triều đại còn có tên Bách Quỹ [Thời Ngu], Thừa tướng [Tần, Hán], Tướng quốc[Bắc Tề]

Thái sư, Thái phó, Thái bảo : thầy, nuôi nấng, dậy dỗ vua, ba chức lớn nhất. [gọi là Tam Công]

Thiếu sư, Thiếu bảo, Thiếu phó: quan dưới một bậc, chuyên giúp đỡ Tam Công.[Gọi là Tam Thiếu]

Thái tể, Thái tông, Thái sử, Thái chúc, Thái sĩ, Thái bốc: giúp vua xử lý chính vụ, đứng hai bên tả hữu vua. [Gọi là Lục Thái]

Ngũ Tư có:

+ Tư Đồ: giữ việc nông thương, cảnh sát, giáo dục, rèn đúc dân.

+ Tư Khấu: coi về hình phạt, kiện tụng.

+ Tư Mã: thống sáu quân, dẹp yên trong nước.

+ Tư Thổ: giữ lễ của nước [tế tự, triều sinh].

+ Tư Không: khuyến công, nông, việc thổ mộc, xét địa lợi, thiên thời.

Thái úy: coi binh quyền, quân sự, là chức quan tổng thống việc binh. [Là quan võ ngang với Tể tướng]

Đại học sĩ: là cố vấn của vua trong những việc trọng đại. Từ nhà Minh chức Tể tướng bị xóa, chỉ còn lại Đại học sĩ là cao nhất.

Ngự sử đại phu: chuyên can gián, kiểm soát các quan.


Các quan còn lại đa số đều là chức ở trong các khu riêng ở triều đình, gồm:


Lục bộ: [Được bắt đầu từ thời nhà Đường]

+ Lại bộ: Bổ nhiệm quan chức, phong tước, xét công, bãi nhiễm và thăng chức cho các
quan lại, quản lý quan lại.

+ Lễ bộ: Lo việc tổ chức yến tiệc, thi cử, lễ nghi trong triều đình, chuẩn bị áo mũ, ấn tín, tấu chươngvv.. Quản lý các lễ cống nạp của chư hầu, cũng như lo việc bói toán, đồng văn nhã nhạc.

+ Hộ bộ: Quản lý ruộng đất, thu phát bổng lộc liên quan đến đất đai như thóc gạoHay hôn nhân, hộ khẩu. coi phép lưu thông tiền tệ, vật giá đắt rẻ

+ Binh bộ: Quản lý cấm vệ quân, xe ngựa, vũ khí đạn dược, cũng như mọi thứ liên quan tới quân sự, bảo vệ đất nước.

+ Hình bộ: chính lệnh về pháp luật, xét lại những án nặng, tội còn ngờ.

+ Công bộ: Phụ trách mọi việc xây dựng cầu cống, đường xá, cung đình, sửa sang việc thổ mộc, đắp thành, đóng thuyền bè.

*Đứng đầu các bộ là Thượng thư, giúp việc có Tả thị lang, hữu thị lang. Dưới bộ còn có các Ty, Đứng đầu mỗi ty là Lang trung với Viên ngoại langchủ sự phụ giúp.

Các cơ quan hành chính:

Thượng thư tỉnh: giúp Tể tướng điều khiển trăm quan liên lạc với Thượng thư các Bộ.

Trung thư tỉnh: là cơ quan quyết định chính sách, phụ trách thảo luận, soạn thảo, ban hành chiếu lệnh của Hoàng đế.

Môn hạ tỉnh: chuyển lệnh vua đến các quan, tâu vua việc các quan thi hành lệnh vua, điều khiển lễ nghi trong cung.

*Tới đời Minh thì các Tỉnh này hoàn toàn bị xóa, chỉ còn lại Lục bộ.

Các khu khác:

Hồng lô tự: tổ chức, sắp xếp thể thức lễ nghi tiếp đón sứ giả nước ngoài, lễ Xuớng danh thi Ðình

Quang lộc tự: cung cấp, kiểm tra rượu lễ, thực vật trong các buổi tế tự, triều hội, yến tiệc.

Ðại lý tự: Cơ quan xét xử tối cao, xét lại các án còn ngờ.

Thái thường tự: trông coi đền chùa, thi hành thể thức lễ nghi, điều khiển ban âm nhạc.

Thái bảo tự: đóng ấn quyển thi Hội.


*Ðứng đầu là các TựTự khanh, rồi đến Thiếu khanh, Tự thừa, Viên ngoại, Chủ sự, Tư vụ, thư lại. Hàng ngũ phẩm trở xuống. Khu mật sứ: Cơ mật viện, coi việc cơ mật, nắm quyền binh.

Ngự sử đài: cơ quan giám sát, can gián các quan ở triều đình, sau còn được gọi là Đô sát viện.

Hàn lâm viện: Lo biên soạn văn thư.

Quốc tử giám: Lo dạy dỗ đào tạo con em giới cầm quyền, đứng đầu là Tế rửu.

Tư thiên giám / Khâm thiên giám: Coi thiên văn, lịch pháp.

Thái y viện: Lo việc thuốc men, chữa bệnh cho hoàng tộc, quan lại.

Nội các: là văn phòng vua, ghi chép tấu, sớ các nha dâng lên, khởi thảo chiếu, chế, sắc ban ra các cơ quan, thi Ðình thì đằng lục các chế sách và cấp quyển thi.

Tôn Nhân phủ: là cơ quan quản lý nội bộ hoàng tộc, trông nom sổ sách, ngọc phả, đền miếu trong hoàng tộc; giải quyết các vấn đề có liên quan đến các thân vương, công tử, công tôn

Nội vụ phủ: là nơi quản lý các thái giám, cũng như công việc hành chính ở hậu cung.

II.Quan ở địa phương:

Trung Quốc được chia ra làm các Châu [hay tỉnh], mỗi châu gồm nhiều quận, mỗi quận lại gồm nhiều huyện, dưới là các xã, làng.

Phủ thì tương đượng với huyện, nhưng có mức độ hành chính quan trọng hơn, thường thuộc kinh thành.

Ở thời nhà Hán trở về trước, thì quận là lớn nhất, sau này mới đổi gọi thành châu.


Thứ sử: [Thời Tây Hán  Đường] giám sát, coi việc hành chính đứng đầu một quận quốc, hay một tỉnh, dù dưới quyền Thái thú, nhưng là người đại diện cho Thái thú khi vào kinh, sau khi chức Thái thú được bỏ thì Thứ sử là cao nhất.

Thái thú: quan đứng đầu một quận [tức là châu] ở thời nhà Tấn đến Hán, nhiệm vụ là thu nạp các cống phẩm của địa phương, nếu quận loạn lạc, sẽ được bổ nhiệm thêm một Đô úy có nhiệm vụ phụ trách quân sự, còn không Thái thú quản cả quân sự và dân sự của quận đó.

Tổng đốc [Triều Minh  Thanh]: Là viên quan đứng đầu một vùng bao gồm nhiều tỉnh thành, trông coi cả về dân sự và quân sự.

Tuần phủ [từ Minh]: là người lãnh đạo một tỉnh hoặc một bộ phận của tỉnh lớn, có quyền bổ nhiệm, bãi nhiệm các chức quan dưới quyền ở địa phương mình quản lý, có quyền lãnh đạo về hành chính, tài chính, quân sự cùa tỉnh. Nếu ở tỉnh đó có tổng đốc, thì tuần phủ phải nghe theo tổng đốc.

Tri phủ [tứ phẩm]: Đứng đầu một phủ hoặc châu, có quyền cả dân sự và quân sự.

Phủ doãn: quan thuộc cấp huyện, đàn áp cường hào, xét những vụ kiện do quan huyện xử mà kêu lại ở bản hạt, hàng ngũ phẩm. Nhưng ở thời Tống thì là quan đứng đầu ở phủ kinh thành, hàng Tam phẩm.

Án sát sứ: coi việc hành chính, kiện tụng, tư pháp, phong hóa, kỷ cương ở các tỉnh, dưới quyền Tổng đốc, Tuần phủ.

Tri huyện [bát phẩm]: Đứng đầu một huyện.

Huyện thừa [cửu phẩm]: lo công văn, sổ sách trong huyện, phụ giúp Tri huyện.

Xã trưởng: Là người đứng đầu một xã, giúp các quan lại quản lý việc thu thuế của dân, giữ gìn an ninh trật tự, chọn lính nhập ngũ hoặc chọn thí sinh đi thi cử.

Phong kiến là viết tắt của chữ phong tước  kiến điền, nghĩa là ban chức tước và cấp ruộng vườn, dịch từ chữ feodal của Anh  Pháp.
Chữ Phong kiến do các nhà làm luật Anh quốc [như H. Spelman chẳng hạn] đặt ra trong thế kỷ 17, dùng để gọi một thể chế luật pháp vào cuối thời trung cổ [thế kỷ 10-13].

Theo nghĩa hẹp : phong kiến là một hình thức giao ước [hay giao kèo] liên quan giữa vương[hay chúa] và hầu [hay quần thần].

Sau khi đế quốc La mã tàn vong, Âu châu rơi vào tình trạng sứ quân trong một thời gian dài, mạnh ai nấy xưng vương rồi mang quân chinh phạt nhau túi bụi. Để tạo thanh thế và vây cánh, các vị lãnh vương thu phục về dưới trướng của mình những thủ lãnh nhỏ, những người này được phong tước, được bảo vệ khi cần và được cấp phát đất đai cha truyền con nối về sau  vào thời ấy, đất đai là của cải vật chất duy nhứt  Quần thần nhận ơn mưa móc phải đổi lại bằng lòng trung thành tuyệt đối ngay cả việc xả thân hy sinh chết cho chủ tướng.
Những khế ước trao đổi thời ấy dám ngó chừng bình đẳng và có sự đồng thuận từ cả hai bên.


Theo nghĩa rộng : Sau này phong kiến từ từ bị biến nghĩa đi, nó chỉ một tình trạng xã hội có tổ chức kinh tế xã hội chánh trị trong đó liên hệ giữa con người thiếu hẳn đi chuyện bình đẳng. Khối thiểu số vương hầu, tựa vào nhau theo hệ thống chức quyền  với sự hổ trợ của tăng lữ  để phân chia cai trị khối đa số nông dân. Khế ước trao đổi thời gian này nếu có là một sự trao đổi cưỡng bách và áp đặt, chỉ có qua [từ tớ] mà không có lại [từ chủ]     [ Nguồn : dactrung.com ]

~[~ ]

Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa
Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa .

Chủ Đề