Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước về văn hóa giáo dục - y tế

Quản lý nhà nước đối với giáo dục là sự tác động của Nhà nước có định hướng, mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp, nguyên tắc nhất định trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về giáo dục, đến các quan hệ xã hội liên quan tới giáo dục nhằm đạt được mục tiêu giáo dục. Vậy các nội dung và thực trạng quản lý nhà nước về giáo dục được quy định như thế nào?

Tư vấn pháp luật trực tuyến miễn phí qua tổng đài: 1900.6568

1. Nội dung quản lý nhà nước đối với giáo dục

Theo Luật giáo dục năm 2005, nền giáo dục Việt Nam là “nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” [khoản 1 Điều 3] và nền giáo dục đó được thực hiện theo bốn nguyên lý quan trọng là “học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất. lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội” [khoản 2 Điều 3].

Với những tính chất và nguyên lý giáo dục như vậy, nền giáo dục Việt Nam nhằm mục tiêu “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [Điều 2 Luật giáo dục năm 2005].

Hệ thống giáo dục quốc dân gồm hệ thống giáo dục chính quy và hệ thống giáo dục thường xuyên. Trong hệ thống giáo dục quốc dân có các cấp học và trình độ đào tạo như sau: giáo dục mầm non có nhà trẻ và mẫu giáo; giáo dục phổ thông có tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông; giáo dục nghề nghiệp có trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề; giáo dục đại học và sau đại học đào tạo trình độ cao đẳng, trình độ đại học, trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ [Điều 4 Luật giáo dục năm 2005].

Nội dung và phương pháp giáo dục luôn luôn là những nhân tố quan trọng tạo nên thành tựu của nền giáo dục trong mỗi quốc gia. Với ý nghĩa như vậy, Luật giáo dục năm 2005 quy định rõ, cụ thể những yêu cầu về nội dung và phương pháp giáo dục. Đối với nội dung giáo dục, “phải đảm đảm tính cơ bản, toàn diện, thiết thực và có hệ thống; coi trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân; kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp, bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý lứa tuổi của người học” [khoản 2 Điều 5]. Đối với phương pháp giáo dục, “phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên” [khoản 2 Điều 5].

Cùng với nội dung và phương pháp giáo dục, chương trình giáo dục cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển. Theo Điều 6 Luật giáo dục năm 2005, chương trình giáo dục phải đảm đảm bốn yêu cầu cơ bản: một là, phải thể hiện được mục tiêu giáo dục; quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, Activate Windows phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục, phương pháp và hình thức tổ chức hoạt động giáo dục, cách thức đánh giá kết quả giáo dục đối với các môn học ở mỗi lớp, mỗi cấp học hoặc trình độ đào tạo; hai là, phải đảm đảm được tính hiện đại, tính ổn định, tính thống nhất; kế thừa giữa các cấp học, các trình độ đào tạo và tạo điều kiện cho sự phân luồng, liên thông, chuyển đổi giữa các trình độ đào tạo, ngành đào tạo và hình thức giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân; ba là, yêu cầu về nội dung kiến thức và kỹ năng quy định trong chương trình giáo dục phải được cụ thể hóa thành sách giáo khoa ở giáo dục phổ thông, giáo trình và tài liệu giảng dạy ở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học, giáo dục thường xuyên và sách giáo khoa, giáo trình, tài liệu giảng dạy phải đáp ứng yêu cầu về phương pháp giáo dục; bốn là, phải được tổ chức thực hiện theo năm học đối với giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông; theo năm học hoặc theo hình thức tích lũy tín chỉ đối với giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học.

Về phương châm phát triển giáo dục, Hiến pháp năm 2013, tại Điều 35 và Luật giáo dục năm 2005, tại Điều 9, điều quy định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu” nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Tuy vậy, phát triển giáo dục cũng cần tuân theo những nguyên tắc nhất định, như phải gắn liền với nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội, tiến bộ khoa học, công nghệ, củng cố quốc phòng an ninh; thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; bảo đảm cân đối về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền; mở rộng quy mô trên cơ sở bảo đảm chất lượng và hiệu quả; kết hợp giữa đào tạo và sử dụng [Điều 9 Luật giáo dục năm 2005].
Trong quản lý giáo dục, Nhà nước ta luôn luôn dựa trên những quy định pháp luật về mục tiêu, tính chất, nguyên lý giáo dục; cơ cấu của hệ thống giáo dục quốc dân, các cấp học và trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân; yêu cầu về nội dung và phương pháp giáo dục; chương trình giáo dục; phương châm phát triển giáo dục.

Theo Điều 36 Hiến pháp năm  và Điều 14 Luật giáo dục năm 2005, Nhà nước trong nhất quản lý hệ thống giáo dục quốc dân về mục tiêu, chương trình. nội dung, kế hoạch giáo dục, tiêu chuẩn nhà giáo, quy chế thi cử, hệ thống văn bản, chứng chỉ; tập trung quản lý chất lượng giáo dục, thực hiện phân công, phân cấp quản lý giáo dục, tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục: phát triển cân đối hệ thống giáo dục gồm giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học: thực hiện phổ cập giáo dục trung học cơ sở; phát triển các hình thức trường quốc lập, dân lập và các hình thức giáo dục khác; ưu tiên đầu tư cho giáo dục, khuyến khích các nguồn đầu tư khác; thực hiện chính sách ưu tiên bảo đảm phát triển giáo dục ở miền núi, các vùng dân tộc thiểu số và các vùng đặc biệt khó khăn.

Xem thêm: Nguồn tài chính, ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục

Điều 99 Luật giáo dục năm 2005 quy định cụ thể nội dung quản lý nhà nước về giáo dục, gồm: xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển giáo dục; ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật về giáo dục; ban hành điều lệ nhà trường; ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của cơ sở giáo dục khác; quy định mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục; tiêu chuẩn nhà giáo; quy định tiêu chuẩn cơ sở vật chất và thiết bị trường học; quy định việc biên soạn, xuất bản, in và phát hành sách giáo khoa, giáo trình; ban hành quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ; tổ chức, quản lý việc bảo đảm chất lượng giáo dục và kiểm định chất lượng giáo dục; thực hiện công tác thống kê, thông tin về tổ chức và hoạt động giáo dục; tổ chức bộ máy quản lý giáo dục; tổ chức, chỉ đạo việc đào tạo, bồi dưỡng, quản lý nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; huy động, quản lý, sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp giáo dục; tổ chức, quản lý công tác nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ trong lĩnh vực giáo dục; tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục; quy định việc tặng danh hiệu vinh dự cho người có nhiều công lao đối với sự nghiệp giáo dục; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục; giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các vi phạm pháp luật về giáo dục.

2. Thực trạng quản lý nhà nước về giáo dục

– Trong lĩnh vực nhận thức tư tưởng đa số cán bộ và nhân dân đều nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của giáo dục và coi phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu, từ đó thấy được vai trò to lớn của công tác quản lý nhà nước đối với giáo dục; đều nhận thấy sự cần thiết phải đổi mới, cải cách nội dung, hình thức và phương pháp quản lý nhà nước đối với giáo dục, nhằm bảo đảm cho nền giáo dục nước nhà phát triển theo hướng tiên tiến, hiện đại và có chất lượng, hiệu quả cao.

Trong lĩnh vực tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về giáo dục: hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giải thích, giáo dục pháp luật về giáo dục thường xuyên được đẩy mạnh và đổi mới về nội dung, hình thức và phương pháp thực hiện; công tác tổ chức xã hội hoá giáo dục ngày càng có nề nếp, quy củ; việc đầu tư cho giáo dục ngày càng được Nhà nước quan tâm nhiều hơn; công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về văn hoá được tăng cường và nâng cao hiệu quả; việc tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm và đưa ra bài học cần thiết của việc thực hiện chính sách, pháp luật về giáo dục đã được chú ý trong những năm gần đây, do đó việc xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật mới về văn hóa, nhìn chung có cơ sở lý luận và thực tiễn,

Nhờ công tác tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về giáo dục được tiến hành khá tốt như nếu ở trên mà trong thời gian qua, hoạt động quản lý nhà nước đối với giáo dục đã | được những kết quả nhất định, thể hiện tập trung ở những mặt sau day:

Một là, Nhà nước đã tiến hành sắp xếp lại mạng lưới các trường học, gần đào tạo với nghiên cứu khoa học và sản xuất, nhờ đó mà mạng lưới trường phổ thông phát triển khá tốt, trường tiểu học đã về đến thôn, ấp, trường trung học cơ sở về đến xã hoặc liên xã; trường trung học phổ thông về đến quận, huyền hoặc cụm, xã, phường: các trường công lập tiếp tục được giữ vững và phát huy vai trò của mình, được xây dựng thêm ở nhiều nơi, đặc biệt tại các vùng kinh tế – xã hội còn khó khăn.

Hai là, Nhà nước đã tiến hành quy hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và dạy nghề, trong đó chú ý xây dựng các trường đại học, cao đẳng tại những vùng khó khăn; chỉ đạo bỏ kỳ thi chuyển giai đoạn, chấn chỉnh công tác tuyến sinh và chi tiến công tác tuyến sinh đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.

Ba là, Nhà nước đã xác lập được cơ chế, chính sách cho việc đa dạng hoá các loại hình trường, lớp và hình thức học tập; chân chính việc dạy thêm, học thêm; thực hiện chế độ đãi ngộ đối với nhà giáo.

Bốn là, Nhà nước đã quan tâm đến việc quản lý các chương trình hợp tác quốc tế về giáo dục.

Xem thêm: Trường bán công là gì? Điều lệ, đặc điểm, ưu nhược điểm?

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề