Giá trị lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam

GIÁ TRỊ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

19/01/2015 3:11:34 CH - Lượt xem: 10218

Giá trị lý luận, thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế

Ngày đăng: 21/09/2018 03:05
Mặc định Cỡ chữ

Tư tưởng Hồ Chí Minh không những có tác động tích cực đối với tiến trình lịch sử mà còn soi sáng con đường phát triển của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã khẳng định ý nghĩa và giá trị lý luận, thực tiễn, bởi đó là giá trị văn hóa của dân tộc Việt Nam và cũng là một phần giá trị của văn hóa nhân loại. Việc kiên định mục tiêu, con đường phát triển của dân tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng là yêu cầu tất yếu trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Ảnh minh họa: internet

1. Ý nghĩa và giá trị trước hết của tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện hiện nay là kiên trì mục tiêu và con đường phát triển của dân tộc

Hiện nay, đất nước ta đang tích cực, chủ động hội nhập quốc tế và phát triển trong xu thế toàn cầu hóa. Trong bối cảnh này, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục soi sáng cho cách mạng Việt Nam trước hết là ở sự kiên định mục tiêu và con đường phát triển của dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu phát triển của dân tộc Việt Nam là chủ nghĩa cộng sản, giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội. Đó là mục tiêu duy nhất đúng đối với dân tộc Việt Nam, nhất là trong và sau những biến động chính trị của thế giới từ cuối thế kỷ XX dẫn tới sự sụp đổ mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết.

Ở Việt Nam, không thể giải phóng dân tộc thắng lợi rồi quay trở lại củng cố chế độ phong kiến [Cần Vương], nếu quay trở lại là đi ngược lại xu thế phát triển tiến bộ của xã hội. Câu hỏi đặt ra là, có con đường giành độc lập dân tộc rồi đi lên chế độ dân chủ tư sản không? Phong trào yêu nước cuối thế kỷ XIX, nhất là đầu thế kỷ XX đã diễn ra theo cách này, tư tưởng dân chủ tư sản ở Việt Nam tuy là mới nhưng với thế giới tư tưởng này cũng đã đi vượt qua. Lúc này, lực lượng đứng ở trung tâm thời đại trên toàn thế giới là giai cấp công nhân với sứ mệnh lật đổ chế độ tư sản để xây dựng xã hội mới: xã hội cộng sản. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã đáp ứng được cách nhìn về hướng phát triển của dân tộc: chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng dân tộc một cách triệt để nhất. Giải phóng dân tộc chỉ có thể gắn liền với chủ nghĩa xã hội mới mang một ý nghĩa mở ra một thời đại mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam; đồng thời, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới làm cho độc lập dân tộc được củng cố vững chắc.

Việt Nam đã và đang chịu sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa, một quá trình làm thay đổi xã hội, tạo ra mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, tổ chức hay các cá nhân ở hầu hết các lĩnh vực trên quy mô toàn cầu. Toàn cầu hóa là một quá trình biến các vùng miền, các cộng đồng người khác nhau từ trạng thái biệt lập, tách rời nhau thành một trạng thái khác về chất, bằng sự liên kết gắn bó thành một thể thống nhất hữu cơ trên quy mô toàn cầu. Toàn cầu hoá, đặc biệt trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hiện nay đang tạo ra những ưu thế về khả năng phát triển, phổ cập công nghệ thông tin và các phương tiện truyền thông; thúc đẩy sự phát triển kinh tế, thương mại và tạo ra khả năng thực thi các luật lệ kinh tế khách quan trong một không gian toàn cầu rộng lớn; tạo điều kiện cho việc giao lưu văn hoá và tư tưởng rộng rãi, làm cho con người xích lại gần nhau hơn; đem lại khả năng giải quyết một số vấn đề chung.

Bên cạnh đó, toàn cầu hoá đang đặt ra cho các nước trên thế giới những thách thức và nguy cơ hết sức to lớn, đó là vấn đề sinh thái, ô nhiễm môi trường và cạn kiệt tài nguyên, vấn đề dân số và sức khoẻ cộng đồng, sự phân hoá giàu nghèo, tệ nạn xã hội và tội phạm mang tính quốc tế. Về mặt chính trị, đó là những thách thức nghiêm trọng đối với chủ quyền quốc gia. Hội nhập kinh tế tăng lên sẽ kéo theo sự hội nhập về chính trị. Với lôgíc đó công luận thường nói đến sự suy yếu của mô hình quốc gia dân tộc. Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay công luận thường đề cập nhiều về sự phụ thuộc lẫn nhau của các quốc gia dân tộc hơn là vấn đề độc lập hoàn toàn của các quốc gia đó.

Về kinh tế ở nước ta, trong thời kỳ này có nhiều công ty nước ngoài vào đầu tư, thương mại phát triển xuyên biên giới; Việt Nam gia nhập các tổ chức kinh tế thế giới, khu vực và đó là cơ hội phát triển. Toàn cầu hoá cũng làm cho sự phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng; mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam giao lưu với các nước trên thế giới, mở rộng quan hệ kinh tế, chính trị, ngoại giao. Tuy nhiên, Việt Nam cũng đang đứng trước những hiểm họa của thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường. Tác động về văn hoá, cùng với việc phục hồi, phát huy các giá trị, nền văn hoá Việt Nam có điều kiện tiếp thu các giá trị mới của nền văn hoá thế giới. Tuy nhiên, những hệ quả tiêu cực như một số giá trị văn hoá truyền thống không được bảo tồn, gìn giữ, nảy sinh tư tưởng thực dụng ở một bộ phận người dân; tình trạng tha hóa đạo đức, lối sốngv.v. ngày càng tăng.

Sự tác động của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu đối với Đảng trong quá trình lãnh đạo phải nhìn nhận đúng đắn hơn các nguồn lực xây dựng đất nước trên cơ sở khẳng định hai nguyên tắc cơ bản bất di bất dịch trong tư tưởng Hồ Chí Minh:

Một là, kiên định mục tiêu và con đường xã hội chủ nghĩa, phải luôn luôn đề phòng nguy cơ chệch hướng.

Hai là, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội, không chấp nhận đa nguyên chính trị và đa đảng đối lập.

2. Ý nghĩa và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế thể hiện ở sự kiên định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin “làm cốt”

Chủ nghĩa Mác - Lênin là khoa học về những quy luật chung nhất của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy; về cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động chống lại mọi sự bất công, nô dịch của chủ nghĩa tư bản để xây dựng xã hội cộng sản. Ngay từ sớm, để huấn luyện cho thanh niên Việt Nam yêu nước theo xu hướng đi theo cách mạng vô sản, những bài giảng của Hồ Chí Minh đến năm 1927 được tập hợp thành tác phẩm Đường kách mệnh. Trong tác phẩm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn ý của V.I.Lênin trong tác phẩm Làm gì? rằng, không có lý luận cách mệnh thì không có cách mệnh vận động… Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong, đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong. Với ý nghĩa như vậy, Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”[1].

Vào thập niên 20 của thế kỷ XX, khi hoạt động ở nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh khác so với nhiều nhân vật yêu nước Việt Nam cùng thời là ở chỗ Người đã giác ngộ được chủ nghĩa Mác - Lênin. Bằng sự dấn thân và trải nghiệm của cá nhân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin mục tiêu và con đường phát triển cho dân tộc một cách đúng đắn. Sứ mệnh lịch sử đã được đặt vào lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh với trách nhiệm là người tìm đường, người mở đường và là người dẫn đường cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là người tiên phong trên con đường dân tộc Việt Nam tiến lên phía trước. Sự chỉ dẫn, soi sáng cho sự phát triển của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ lý luận Mác - Lênin mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy, đã khẳng định và được Người đưa vào hành trang cho dân tộc Việt Nam phát triển.

Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là cái cốt để tư tưởng Hồ Chí Minh phát triển và tạo sức lan tỏa như là các giá trị văn hóa, như lớp lớp phù sa bồi đắp thường xuyên cho nền văn hóa Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa vào cách mạng Việt Nam một lý luận dẫn đường trong khi cuộc sống vẫn đòi hỏi phải làm giàu tri thức trong các bước đi lên của một dân tộc. Lý luận Mác - Lênin, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, vẫn luôn luôn là thế giới quan, nhân sinh quan, là dòng chủ lưu trong các luồng tư tưởng tiến bộ trên thế giới. Bằng cuộc đời hoạt động cách mạng sôi nổi và vô cùng phong phú, oanh liệt, Người đã khẳng định tư tưởng của mình vào lý luận tiên phong của thời đại - chủ nghĩa Mác - Lênin.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Thái độ của Người trong tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin ở chỗ: kiên định, kiên định hơn nữa; sáng tạo, sáng tạo hơn nữa. C.Mác và Ph.Ăngghen nói rõ rằng, lý luận là kim chỉ nam cho hành động chứ không phải là giáo điều. Còn V.I.Lênin thì khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng, những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt là cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy, thì xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga”[2].

Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin bằng cảm nhận trực tiếp và qua sự khảo nghiệm thực tế của bản thân trong quá trình hoạt động ở phong trào cộng sản và công nhân quốc tế cũng như suốt quá trình cùng Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, cách mạng Việt Nam phải luôn luôn trung thành với những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhưng trung thành không có nghĩa là giáo điều, mà phải tìm thấy ở đó bản chất khoa học và cách mạng để đưa dân tộc Việt Nam phát triển. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh không sa vào kinh viện, giáo điều. Người đi thẳng vào quan điểm nhân văn, nhân đạo, giải phóng triệt để con người của chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy đó làm tâm điểm cho mọi quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước. Đối với phương Đông nói chung và ở Việt Nam nói riêng rất khác so với phương Tây. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nếu xa rời những nguyên lý cơ bản cũng như giáo điều đối với chủ nghĩa Mác - Lênin thì cả hai đều tất yếu như nhau dẫn đến con đường chết của cách mạng.

Thế giới toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay đang có rất nhiều lý thuyết phát triển, nhưng ở Việt Nam chỉ có một: đó là chủ nghĩa Mác - Lênin mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một cách bất di bất dịch. Tất nhiên, trong xã hội hiện đại, muốn phát triển nhanh và bền vững, Đảng ta vừa phải vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời phải tiếp thu có chọn lọc những giá trị của các luồng lý luận, tư tưởng mới, tiến bộ. Cục diện chính trị thế giới thay đổi đã tác động đến việc hình thành các trào lưu/xu hướng chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Điều này đặt ra những thách thức lớn đối với Đảng trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Theo đó, phải có tư duy năng động, luôn vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và nắm bắt các nguồn lực trí tuệ tiên tiến trên thế giới; biết kế thừa, phát triển từ những yếu tố có thể kế thừa và phát triển được của các học thuyết, trào lưu chính trị - xã hội trên thế giới như chính bản thân C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã làm; phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, nghĩa là phải có tâm lành - đức dày, có tài cao - trí sáng - tầm nhìn xa, cao và rộng, có chí, có uy.

3. Ý nghĩa và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế thể hiện ở vấn đề then chốt nhất: xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng

Trong tác phẩm Đường kách mệnh [năm 1927], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cách mệnh trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy”[3].

Việc khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và những quan điểm về xây dựng một đảng chân chính cách mạng có vị trí rất lớn và quan trọng trong hệ thống các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện là một đảng chính trị tồn tại và phát triển theo những quan điểm của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng tạo trong việc nêu lên và thực thi đúng quy luật ra đời và phát triển của Đảng là sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Như vậy, so với lý luận Mác - Lênin thì Hồ Chí Minh đưa thêm vào yếu tố thứ ba, đó là phong trào yêu nước.

C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cho rằng, đảng cộng sản ra đời ở những nơi phong trào công nhân phát triển, nhất là nơi mà công nhân đại công nghiệp đóng vai trò nòng cốt trong xã hội. Ở Việt Nam, liệu có số lượng công nhân đông đảo không? Trên cái nền của một nước nông nghiệp lạc hậu, hoàn cảnh của một nước thuộc địa nửa phong kiến, có “biển” tiểu nông rộng lớn, liệu có thành lập và xây dựng được một đảng cộng sản theo chủ nghĩa Mác - Lênin không? Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: được. Bằng hành động thực tế, Người đã làm được như thế bởi vì Người nắm chắc quy luật vận động của xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, nơi có số lượng công nhân rất ít, nơi có phong trào yêu nước phát triển mạnh. Đồng thời, Người phát hiện ra rằng, phong trào yêu nước Việt Nam hoàn toàn kết hợp được với chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân. Chính việc đư¬a thêm yếu tố phong trào yêu nư¬ớc vào kết hợp với chủ nghĩa Mác - Lênin và phong trào công nhân đã làm nền móng vững chắc cho tư¬ tư¬ởng chiến lư¬ợc của Đảng trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cơ sở xã hội của Đảng không chỉ là giai cấp công nhân mà còn là toàn thể nhân dân lao động. Từ đây, có thể kết luận rằng, quan điểm của Hồ Chí Minh về quy luật hình thành và phát triển của Đảng chính là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của một n¬ước có giai cấp công nhân số lượng ít so với dân cư và nơi đó cũng chưa có nhiều số lượng công nhân đại công nghiệp¬.

Chủ tịch Hồ Chí Minh còn nêu quan điểm về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thành một đảng đạo đức, văn minh. Không phải C.Mác, Ăngghen, V.I.Lênin không đề cập đến vấn đề đạo đức của một đảng cộng sản, nhưng chúng ta thấy rằng, trong các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng, vấn đề này được thể hiện một cách sâu sắc hơn. Từ cuối thập niên 20 của thế kỷ XX, trong hệ thống các bài giảng cho Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, Hồ Chí Minh đưa lên đầu như là một bài nhập môn phần Tư cách của người cách mệnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giáo dục, rèn luyện cho toàn Đảng về đạo đức cách mạng, suốt đời phấn đấu hy sinh cho lợi ích của Đảng và dân tộc. Đó là một nhân tố cực kỳ quan trọng để tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, là yếu tố vững bền tạo nên truyền thống của Đảng ta. Trong quan niệm của Người, đạo đức đã bao hàm cả các yếu tố về năng lực, phẩm chất của cán bộ, đảng viên; luật pháp đúng đắn và đạo đức cách mạng tuy hai mà một, trong đạo đức có pháp luật và ngược lại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rõ lý luận Mác - Lênin, cho rằng bản chất giai cấp của Đảng là bản chất giai cấp công nhân. Đây là vấn đề mấu chốt trong quan niệm về bản chất giai cấp và cơ sở xã hội của Đảng. Người khẳng định: Đảng không chỉ là đảng của giai cấp công nhân mà còn là của nhân dân lao động và toàn dân tộc. Việc Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra cơ sở xã hội của Đảng là hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ngoài việc khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, Người rất coi trọng cơ sở “nhân dân lao động” và “toàn dân tộc”. Trong biên độ tập hợp lực lượng cách mạng rất rộng rãi của Hồ Chí Minh, có cái lõi, cái nền rất chắc là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản.

Những quan điểm về xây dựng một đảng cầm quyền ở Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở chỗ: Một là, có vai trò lãnh đạo xã hội một cách toàn diện. Hai là, luôn luôn xác định trách nhiệm của Đảng cầm quyền đối với Nhà nước và với nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nêu lên những căn bệnh làm tổn hại đến tư cách của Đảng cầm quyền - Đảng đã có chính quyền, cán bộ, đảng viên có quyền lực trong tay, có nguy cơ vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Bản thân Người cũng tự xác định việc làm Chủ tịch nước của mình giống như một người lính vâng lệnh quốc dân ra mặt trận, bao giờ nhân dân cho lui thì Người vui lòng lui. Do đó, trách nhiệm của đảng cầm quyền là phải vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Ba là, lực lượng đảng viên phải luôn luôn trong sạch, vững mạnh. Đây là yêu cầu chung cho tất cả các thời kỳ hoạt động của Đảng, kể cả trước khi có chính quyền và cả sau khi có chính quyền cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc cách mạng khó khăn, phức tạp hơn nhiều so với cách mạng dân tộc dân chủ. Đó là cuộc chiến đấu khổng lồ chống lại những gì cũ kỹ, hư hỏng, đòi hỏi đội ngũ đảng viên giai đoạn Đảng cầm quyền càng phải vững mạnh. Hai mặt cơ bản là đức và tài vẫn là điều mà Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh để rèn luyện đội ngũ đảng viên. Người nghiêm khắc chỉ ra việc phải chống chủ nghĩa cá nhân, căn bệnh gốc sinh ra nhiều căn bệnh khác làm tổn hại đến sức chiến đấu của Đảng. Phải ra sức học tập vì “ngày nay lãnh đạo không thể chung chung được nữa”. Người nhấn mạnh đến “tính đảng” của cán bộ, đảng viên, không cậy thế, cậy quyền ở những chức vụ cao để “phớt lờ” tổ chức.

Trong thời kỳ toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế hiện nay, ý nghĩa và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng một đảng cộng sản như thế vẫn tỏa sáng. Điều đó luôn được Đảng ta khẳng định trong các kỳ Đại hội: “xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt”.

Sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng không tự nhiên mà có và không phải cứ tự nhận mà được. Sự lãnh đạo, cầm quyền đó là kết quả của bao hy sinh, phấn đấu của Đảng, từ sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Nhân dân đã tin tưởng trao cho Đảng vai trò lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo Nhà nước và tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Nhưng, Đảng sẽ mất vai trò lãnh đạo, mất vai trò cầm quyền nếu Đảng không trong sạch, vững mạnh, nếu Đảng bị suy thoái, không được nhân dân tin yêu nữa. Do đó, Đảng tất yếu phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn để làm trong sạch đội ngũ, xứng đáng với niềm tin yêu của nhân dân. Đó là một thông điệp cực kỳ quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh./.

GS.TS. Mạch Quang Thắng - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

------------------------------

Ghi chú:

[1],[3] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H.2011, tr.289, tr.289.

[2] V.I.Lênin, toàn tập, tập 4, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1974, tr.232.

tcnn.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Về những cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh

09/07/2021

NGUYỄN MẠNH TƯỜNG[*]

Tư tưởng Hồ Chí Minh là một khoa học, dựa trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam. Độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi, xuyên suốt tư tưởng và sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Nội dung đó được thể hiện không chỉ ở tư tưởng của Người về dân tộc, về quan hệ dân tộc – giai cấp và cách mạng giải phóng dân tộc; về chủ nghĩa xã hội và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội; về đại đoàn kết dân tộc; về sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; về Đảng Cộng sản và xây dựng Nhà nước của dân, do dân, vì dân mà còn ở tư tưởng đạo đức và văn hoá Hồ Chí Minh.

Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII [tháng 6 - 1991] Đảng Cộng sản Việt Nam đã trịnh trọng ghi vào Cương lĩnh và Điều lệ của mình: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”[1]. Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX [tháng 4 - 2001], một lần nữa, điều đó lại được Đảng ta khẳng định. Sự khẳng định này đã thể hiện bước phát triển mới trong nhận thức và tư duy lý luận, tư duy chính trị của Đảng ta. Chúng ta có thể coi đó là một quyết định có tầm lịch sử quan trọng, đáp ứng được những nhiệm vụ của thực tiễn đổi mới đất nước đang đặt ra, cũng như tình cảm, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân. Và, trên thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một bộ phận không thể thiếu trong đời sống tinh thần của xã hội ta, trở thành một bộ môn khoa học được đưa vào chương trình giảng dạy chính thức, trước hết là trong các trường đại học, cao đẳng và trung học chuyên nghiệp. Vì thế, việc học tập, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách một khoa học, có hệ thống để vận dụng và phát triển sáng tạo vào công cuộc đổi mới đất nước hiện nay là rất cần thiết và cấp bách.

Nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh bao hàm một hệ thống những quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam và cách mạng giải phóng dân tộc. Do vậy, trong khuôn khổ của bài báo này, chúng tôi không thể làm sáng tỏ tất cả, mà chỉ tập trung luận chứng cho những tiêu chí cần có để khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là một khoa học.

Trước hết, chúng ta có thể khẳng định rằng, cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư tưởng Hồ Chí Minh làchủ nghĩa Mác–Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lênin mà hạt nhân lý luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Nhờ có thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin mà Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã tiếp thu và chuyển hoá được những nhân tố tích cực, tiến bộ của truyền thống dân tộc và của nhân loại để tạo nên hệ thống tư tưởng của mình. Không có chủ nghĩa Mác – Lênin thì cũng không có tư tưởng Hồ Chí Minh sánh ngang tầm thời đại và có khả năng giải quyết được những nhiệm vụ thực tiễn của cách mạng Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin từ chủ nghĩa yêu nước được hình thành với một vốn học vấn uyên thâm, một năng lực trí tuệ sắc sảo nhờ phân tích, tổng kết các phong trào yêu nước chống Pháp từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX; với khả năng tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo mà nhờ đó, trong suốt thời gian bôn ba tìm tòi, khảo nghiệm, Người đã hoàn thiện trí tuệ của mình bằng vốn hiểu biết văn hoá, chính trị và thực tiễn cuộc sống phong phú của nhân loại. Khác với các trí thức tư sản phương Tây đến với chủ nghĩa Mác - Lênin chủ yếu như đến với một học thuyết nhằm giải quyết những vấn đề về tư duy hơn là hành động, Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là để tìm kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc, tức là từ nhu cầu của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc mình và giải phóng tất cả các dân tộc khác. Người tiếp thu chủ nghĩa Mác – Lênin theo phương pháp nhận thức mácxít và theo lối “đắc ý vong ngôn” của phương Đông, nghĩa là cốt nắm lấy cái tinh thần, cái cốt yếu, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm ra những chủ trương, giải pháp, đối sách phù hợp cho cách mạng Việt Nam.

“Tư tưởng Hồ Chí Minhlà một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,...

Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và dân tộc ta”[2].

“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”[3]. Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam, đem lại thắng lợi cho sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và cách mạng Việt Nam suốt hơn 70 năm qua và đang soi sáng sự nghiệp đổi mới của chúng ta ngày nay.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là nhằm làm rõ những nội dung chủ yếu của tư tưởng ấy, khẳng định giá trị khoa học, ý nghĩa cách mạng của những luận điểm chủ yếu trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là nghiên cứu cách thức Người kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại trong suốt tiến trình của cách mạng Việt Nam để trên cơ sở đó, vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng nước ta trong giai đoạn hiện nay. Điều đó cho thấy việc nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh không thể chỉ là sự mô tả giản đơn các sự kiện, các biến cố lịch sử cụ thể, rời rạc về cuộc đời và hoạt động cách mạng của Người, mà cần phải làm rõ lôgíc tư tưởng về quá trình ấy, nghĩa là nghiên cứu nguồn gốc, quá trình hình thành và phát triển từng nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời chỉ ra những giá trị hiện thời của tư tưởng ấy.

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cần phải dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận của triết học Mác - Lênin và phải nắm vững đối tượng nghiên cứu nhằm phản ánh chân thực quá trình hình thành và phát triển tư tưởng ở Người. Trong quá trình nghiên cứu cần phải nắm vững những quan điểm phương pháp luận của Hồ Chí Minh, như lý luận gắn liền với thực tiễn, quan điểm thống nhất biện chứng giữa lập trường dân tộc với lập trường giai cấp, quan điểm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, thống nhất tính đảng với tính khoa học, toàn diện và phát triển. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, còn cần phải kết hợp phương pháp lịch sử với lôgíc, đồng thời sử dụng các phương pháp khác, như phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, điều tra xã hội học, tiếp xúc nhân chứng lịch sử,...

Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh, trước hết cần làm rõ nội dung cốt lõi, chủ yếu, hay vấn đề cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời là mục tiêu của cách mạng Việt Nam cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai -độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa xã hội. Đây là vấn đề xuyên suốt sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh, của Đảng ta và của dân tộc Việt Nam từ những năm đầu thế kỷ XX cho đến nay. Trong sự thống nhất ấy, học thuyết về chủ nghĩa xã hội được bổ sung thêm cách nhìn từ phía một dân tộc thuộc địa ở phương Đông bị áp bức, bóc lột nhưng tư tưởng về độc lập dân tộc đã vươn lên ngang tầm thời đại, được soi rọi bởi ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và lập trường của giai cấp vô sản. Nếu chủ nghĩa Mác - Lênin lấy mục tiêu giải phóng giai cấp, giải phóng con người làm điểm trung tâm, làm động lực của cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội, thì tư tưởng Hồ Chí Minh đặt vấn đề giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người và lấy đó làm nguồn lực của cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, Người đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc, chống đế quốc thực dân, phong kiến lên hàng đầu và xác định trước hết phải giành cho được độc lập dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Hồ Chí Minh xác định, muốn cách mạng thành công thì dân chúng [công nông] là gốc, đồng thời phải có Đảng vững bền, phải đoàn kết và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, dân tộc cách mạng phải liên hệ chặt chẽ với thế giới cách mạng. Nói tóm lại, độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội và người cách mạng phải có đạo đức cách mạng, có lòng khoan dung, độ lượng, có khí phách kiên cường, không hề run sợ trước sức mạnh của kẻ thù, không sợ phải hy sinh, gian khổ, có niềm tin vững chắc vào sự lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội không chỉ có giá trị đối với cách mạng Việt Nam, mà còn đối với cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa trên thế giới. Độc lập dân tộc thống nhất với chủ nghĩa xã hội đã và đang thấm sâu vào đời sống xã hội; trở thành động lực tinh thần to lớn trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay; đồng thời khẳng định quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn là xu hướng của thời đại hiện nay, thể hiện khát vọng độc lập trong hòa bình và tự do cũng như sức mạnh trường tồn của dân tộc ta và nhiều dân tộc khác trên thế giới.

Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về sự thống nhất độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội đã hàm chứa cả một hệ thống tư tưởng về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng theo con đường cách mạng vô sản.

Dưới đây, chúng tôi xin trình bày một số tư tưởng cơ bản trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh.

1. Tư tưởng về vấn đề dân tộc, mối quan hệ dân tộc - giai cấp và cách mạng giải phóng dân tộc.Vấn đề dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, về thực chất, là vấn đề dân tộc thuộc địa trong thời đại cách mạng vô sản và độc lập, tự do là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của tất cả các dân tộc. Ở đó, có sự kết hợp nhuần nhuyễn lập trường dân tộc với lập trường giai cấp vô sản trong bản chất và tổng thể. Nhưng trong giai đoạn cách mạng giải phóng dân tộc, lợi ích giai cấp thống nhất với lợi ích dân tộc, nhiệm vụ giải phóng giai cấp gắn liền với nhiệm vụ giải phóng dân tộc và do vậy, lợi ích và nhiệm vụ giải phóng giai cấp phải gắn liền với lợi ích và nhiệm vụ giải phóng dân tộc. Xét đến cùng và trong toàn cục thì cách đặt vấn đề như vậy về dân tộc cũng là vì giai cấp công nhân. Từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp vô sản là bước nhảy vọt căn bản về nhận thức mà Hồ Chí Minh là người đầu tiên thực hiện trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhờ giác ngộ giai cấp mà Người hiểu sâu hơn vai trò và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời càng sâu sắc hơn trong giác ngộ dân tộc, xác định và kiên trì lý tưởng phục vụ lợi ích giai cấp công nhân và dân tộc. Với Người, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản, phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, phải xây dựng được khối đoàn kết toàn dân trên nền tảng của liên minh công nông, phải được tiến hành chủ động, sáng tạo và phải được thực hiện bằng con đường bạo lực cách mạng.

2. Tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, nhiều nhà tư tưởng đã không nhận thức được tính tất yếu và sự cần thiết của việc thay đổi xã hội. Thế hệ các nhà yêu nước mà hai cụ Phan là tiêu biểu đã nhận thức được điều đó, song cái ý thức hệ tư sản mà các cụ tiếp thu đã trở nên lạc hậu ở phương Tây. Hồ Chí Minh không chỉ nhận thức được tính tất yếu và sự cần thiết của việc thay đổi xã hội, mà còn tiếp thu được hệ tư tưởng vô sản làm nền tảng cho việc xây dựng một xã hội mới của dân, do dân, vì dân và mang một nội dung nhân văn sâu sắc. Đó là xã hội xã hội chủ nghĩa, vì theo Người, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đảm bảo vững chắc cho một nền độc lập thật sự và đưa lại hạnh phúc, tự do thật sự cho nhân dân.

Hồ Chí Minh còn nêu lên cách hiểu của mình về chủ nghĩa xã hội, về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, một cách hiểu thật giản dị, phổ cập, nhưng lại rất sâu sắc và thiết thực: "Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giầu nước mạnh"; “chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dânvà do nhân dân tự xây dựng lấy", "xây dựng chủ nghĩa xã hội là thay đổi cả xã hội, thay đổi cả thiên nhiên, làm cho xã hội không còn người bóc lột người, không còn đói rét, mọi người đều được ấm no và hạnh phúc"[4]. Người còn nêu ra tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phù hợp với từng đối tượng xã hội, như "việc làm cho mọi người", "ốm đau có thuốc chữa", "già yếu thì được nghỉ", "ai cũng được học hành", "những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ",...

Người khẳng định: "Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất. Chúng ta phải xây dựng một xã hội hoàn toàn mới xưa nay chưa từng có trong lịch sử dân tộc ta”. Do vậy, "không thể làm mau được mà phải làm dần dần"[5]. Thực tế lịch sử cách mạng Việt Nam, từ những thập niên đầu thế kỷ XX cho đến nay, đã chứng tỏ sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đó là hoàn toàn đúng đắn.

3. Tư tưởng về đại đoàn kết dân tộc. Từ nhận thức lý luận và hoạt động thực tiễn trong phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng thế giới, Hồ Chí Minh đã rút ra kết luận: “ Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công”. Tư tưởng về đại đoàn kết của Người đã được phát huy cao độ trong thực tiễn cách mạng Việt Nam, từ trong nội bộ Đảng đến toàn thể dân tộc. Người chỉ rõ: Nếu chỉ đoàn kết trong Đảng thì chưa đủ, mà Đảng còn phải đoàn kết xung quanh mình toàn thể dân tộc thì cách mạng mới thành công. Người chủ trương mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân mà cốt lõi là liên minh công - nông, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, không phân biệt ai, miễn là người Việt Nam yêu nước, chống đế quốc, tán thành xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Người viết: “Chúng ta phải đoàn kết chặt chẽcác tầng lớp nhân dân..., phải đoàn kết tốtcác đảng phái, các đoàn thể, các nhân sĩ trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện hợp tác lâu dài, giúp đỡ lẫn nhau, cùng tiến bộ..., phải đoàn kếtcác dân tộc anh em, cùng nhau xây dựng Tổ quốc..., phải đoàn kết chặt chẽ giữađồng bào lương và đồng bào tôn giáo, cùng nhau xây dựng đời sống hoà thuận ấm no, xây dựng Tổ quốc”[6]. Hồ Chí Minh hiểu rõ đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế có quan hệ mật thiết, gắn bó chặt chẽ với nhau.

4. Tư tưởng về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và trên lập trường giai cấp vô sản, Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm xây dựng, củng cố liên minh chiến đấu giữa phong trào công nhân chính quốc với phong trào giải phóng dân tộc thuộc địa nhằm phát huy sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược. Với Người, “Quan sơn muôn dặm một nhà. Bốn phương vô sản đều là anh em”. Mở rộng khối đại đoàn kết quốc tế trên cơ sở của tình hữu ái vô sản, có lý, có tình, Người đã thực hiện quan điểm thêm bầu bạn, bớt kẻ thù. Theo Người, mở rộng khối đoàn kết là tìm thấy những người bạn quốc tế dân chủ và tiến bộ của dân tộc. Có thể nói, tư tưởng về sự thống nhất giữa chủ nghĩa yêu nước chân chính của dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân đã trở thành một trong những đặc điểm mới của tư tưởng Hồ Chí Minh, bổ sung cho tư tưởng về độc lập dân tộc của Người và đưa tư tưởng ấy lên ngang tầm thời đại.

5. Tư tưởng về Đảng Cộng sản Việt Nam. Là người sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xây dựng và rèn luyện Đảng ta thành một đảng cách mạng chân chính, bộ tham mưu sáng suốt và kiên cường của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam. Người khẳng định Đảng là nhân tố quyết định hàng đầu để lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi công cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đảng Cộng sản Việt Nam là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, là Đảng của giai cấp công nhân cũng đồng thời là Đảng của dân tộc Việt Nam. Đảng phải lấy chủ nghĩa Mác – Lênin “làm cốt” và phải được xây dựng theo những nguyên tắc của Đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người “đầy tớ” thật trung thành của nhân dân và do vậy, Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới về chính trị, tư tưởng và tổ chức để xứng đáng là “Đảng của đạo đức và văn minh”.

6. Tư tưởng về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Theo Hồ Chí Minh, nếu vấn đề cơ bản của một cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của một chính quyền là ở chỗ, nó thuộc về ai, phục vụ cho quyền lợi của ai. Chính vì vậy mà trên hành trình đi tìm một mô hình nhà nước tiến bộ cho dân tộc sau khi giành được độc lập, Người đã khảo sát những mô hình nhà nước ở các châu lục trên thế giới, vận dụng sáng tạo học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin và đi đến quyết định lựa chọn mô hình nhà nước dân chủ nhân dân, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Trong nhà nước ấy, mọi lợi ích, quyền hạn, lực lượng đều ở nơi dân và có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc.

7. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Đạo đức là một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu và xuyên suốt toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Hồ Chí Minh. Người không những đã để lại những tác phẩm lý luận về đạo đức, mà còn là hiện thân mẫu mực của những hành vi đạo đức. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo đức của dân tộc Việt Nam, những giá trị của tư tưởng đạo đức phương Đông và phương Tây, đặc biệt quan trọng là những tư tưởng đạo đức của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin. Hồ Chí Minh đã thực sự làm một cuộc cách mạng trên lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam. Nền đạo đức mới mang bản chất của giai cấp công nhân được gọi là đạo đức cách mạng. Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi người cách mạng phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp. Đức là gốc, nhưng đức và tài phải kết hợp, phải đi đôi với nhau. Điều đó cho thấy, theo Hồ Chí Minh, đạo đức là vấn đề mang tính toàn diện ở mọi con người, biểu hiện tập trung thông qua ba mối quan hệ: đối với mình, đối với người và đối với công việc. Người thường xuyên nhắc nhở chúng ta cần nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân.

8. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Với Hồ Chí Minh, “Trên đời ngàn vạn điều cay đắng; Cay đắng chi bằng mất tự do”. Từ nhận thức đó, Người quyết tâm ra đi tìm một hệ tư tưởng mới đủ sức giải quyết vấn đề giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn của xã hội Việt Nam. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có nguồn gốc từ sự kế thừa một cách sáng tạo những giá trị nhân văn truyền thống, những giá trị nhân văn trong lịch sử nhân loại, đặc biệt là tinh thần khoa học, cách mạng của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản ở các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin. Với lòng yêu thương vô hạn và sự cảm thông sâu sắc đối với mọi nỗi đau khổ của con người, Người kiên quyết đấu tranh, tố cáo những tội ác gây ra cho con người và đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh, phẩm giá, vào khát vọng vươn tới Chân, Thiện, Mỹ của con người. Theo Hồ Chí Minh, con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Trên cơ sở của niềm tin mãnh liệt vào con người, Hồ Chí Minh nguyện phấn đấu suốt đời cho hạnh phúc của con người trong một xã hội công bằng và coi chiến lược trồng người là chiến lược hàng đầu của cách mạng.

9. Tư tưởng văn hoá Hồ Chí Minh. Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra những phương tiện và công cụ cho sinh hoạt hàng ngày nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống của họ. “Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá”[7]. Chính vì vậy, theo Người, văn hoá có vị trí, vai trò, tính chất và chức năng quan trọng, to lớn trong đời sống xã hội; văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi, phải làm cho ai cũng có lý tưởng độc lập, tự chủ và có ý thức đấu tranh chống tệ nạn tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ. Người chỉ rõ ba lĩnh vực chính của văn hoá là văn hoá giáo dục, văn hoá văn nghệ và văn hoá đời sống. Mỗi lĩnh vực của văn hoá lại có vị trí, chức năng và nhiệm vụ riêng, song việc cải tạo, sửa đổi cái cũ và việc xây dựng, sáng tạo, phát minh cái mới luôn là những vấn đề bức thiết, vấn đề thời sự của cuộc sống.

Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt Nam. Chính vì vậy, Đảng ta khẳng định lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Nội dung cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh cũng đồng thời là mục tiêu của cách mạng Việt Nam, - đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo. Bài học này đòi hỏi phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan, phải tìm ra những hình thức, bước đi, cách làm phù hợp, phải luôn luôn biết gắn lý luận với thực tiễn, từ tổng kết thực tiễn mà bổ sung, làm phong phú thêm lý luận.

[*] Tiến sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.127.

[2]Đảng Cộng sản Việt Nam.Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.83-84.

[3]Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh.Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, .2003, tr.19 .

[4]Hồ Chí Minh.Toàn tập. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996, t.8, tr.226; t.10, tr.556; t.9, tr. 447.

[5] Hồ Chí Minh.Sđd.,t.8, tr.493, 226.

[6] Hồ Chí Minh.Sđd.,t.10, tr.605 – 606.

[7]Hồ Chí Minh.Sđd.,t.3, tr. 431

Nguồn:Tạp chí Triết học, số 5 [168] - 2005

In bài viết
Gửi Email
Các tin đã đưa ngày:

Video liên quan

Chủ Đề