Lập dàn ý phân tích cảm nhân cách kết thực truyện Chuyện người con gái Nam Xương

1. Nhân vật Vũ Nương

a. Vẻ đẹp phẩm chất

* Mở đầu tác phẩm, tác giả đã có lời giới thiệu bao quát về Vũ Nương “Tính đã thuỳ mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp” tạo ấn tượng về một chân dung người phụ nữ tài sắc vẹn toàn.

* Sau đó ông đi sâu miêu tả vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất của nhân vật.

- Vũ Nương là người phụ nữ thuỷ chung, son sắt:

+ Trong cuộc sống vợ chồng, biết Trương Sinh vốn có tính đa nghi, nên nàng luôn “giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa” => một người vợ hiền thục, khôn khéo, nết na đúng mực.

+ Khi chồng đi lính: Vũ Nương rót chén rượu đầy, dặn dò chồng những lời tình nghĩa, đằm thắm, thiết tha: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong được đeo ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”.

=> Ước mong thật bình dị, lời lẽ dịu dàng, ân cần -> chứng tỏ nàng luôn coi trọng hạnh phúc gia đình mà xem thường mọi công danh phù phiếm.

+ Nàng cảm thông trước những nỗi vất vả gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng: “Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến thiếp ôm nỗi quan hoài, mẹ già triền miên lo lắng.”.

+ Qua lời nói dịu dàng, nàng cũng bộc lộ nỗi khắc khoải nhớ chồng của mình: “Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng”.

=> Trái tim ấy giàu lòng yêu thương, biết chịu đựng những thử thách, biết đợi chờ để yên lòng người đi xa, thật đáng trân trọng biết bao!

+ Khi xa chồng, Vũ Nương ngày ngày đợi chờ, ngóng trông đến thổn thức “Giữ trọn tấm lòng thủy chung, son sắt”, “tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liêu tường hoa chưa hề bén gót”. Nỗi nhớ thương dài theo năm tháng “Mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được”.

=> Tâm trạng cô đơn, khắc khoải, nỗi nhớ thương da diết

=> Thể hiện tâm trạng ấy, Nguyễn Dữ vừa cảm thông với nỗi đau khổ của Vũ Nương, vừa ca ngợi tấm lòng thủy chung, thương nhớ đợi chờ chồng của nàng.

+ Khi hạnh phúc gia đình có nguy cơ tan vỡ: ra sức cứu vãn, hàn gắn

+ Khi sống dưới thủy cung: vẫn không nguôi nỗi thương nhớ chồng con.

- Vũ Nương còn là người con dâu hiếu thảo, một người mẹ đảm đang, yêu thương con hết mực

Trong ba năm chồng đi lính, một mình nàng nuôi dạy con thơ, phụng dưỡng mẹ chồng

Với mẹ chồng, nàng là một cô con dâu hiếu thảo:

+ Khi bà ốm nàng đã thuốc thang lễ bái thần phật và lấy những lời khôn khéo để khuyên răn để bà vơi bớt nỗi nhớ thương con.

+ Đến khi bà mất, nàng đã hết lời thương xót, ma chay tế lễ cẩn trọng hệt như với cha mẹ đẻ của mình.

+ Lời trăng trối của người mẹ trước lúc chết thể hiện sự yêu thương, trân trọng đối với con dâu: “Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ lòng con như con đã chẳng phụ mẹ".

Với con thơ, nàng hết sức yêu thương, chăm chút:

+ Chi tiết nàng chỉ bóng mình trên vách và bảo đó là cha Đản cũng xuất phát từ tấm lòng của người mẹ, để con trai mình bớt đi cảm giác thiếu vắng tình cảm của người cha.

=> Nguyễn Dữ đã dành cho nhân vật một thái độ yêu mến, trân trọng qua từng trang truyện, từ đó khắc họa thành công hình tượng người phụ nữ với đầy đủ phẩm chất tốt đẹp.

b. Số phận oan nghiệt, bất hạnh:

- Là nạn nhân của chế độ nam quyền, một xã hội mà hôn nhân không có tình yêu và tự do: Trương Sinh xin mẹ trăm lạng vàng để cưới Vũ Nương.

- Là nạn nhân của chiến tranh phi nghĩa:

+ Nàng lấy Trương Sinh, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc kéo dài chưa được bao lâu thì chàng phải đi lính để lại mình Vũ Nương với mẹ già và đứa con còn chưa ra đời.

+ Suốt ba năm, nàng phải gánh vác trọng trách gia đình thay chồng.

+ Chiến tranh đã làm xa cách, tạo điều kiện cho sự hiểu lầm nảy sinh. Đó cũng là ngòi nổ cho thói hay ghen, đa nghi của Trương Sinh nảy nở, phát triển, dẫn đến cái chết oan uổng của Vũ Nương.

- Đỉnh điểm của bi kịch là khi gia đình tan vỡ, Vũ Nương phải tìm đến cái chết:

+ Nghe lời ngây thơ của con trẻ “Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.” Trương sinh đã nghi oan cho vợ, mắng nhiếc, đánh đuổi nàng đi bất chấp lời van xin khóc lóc của nàng và lời biện bạch của hàng xóm.

- Bế tắc, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để giải nỗi oan ức, bảo toàn danh dự của mình.

- Cái kết thúc tưởng là có hậu nhưng thực chất chỉ đậm tô thêm tính chất bi kịch của cuộc đời Vũ Nương: “Vũ Nương ngồi trên chiếc kiệu hoa...lúc ẩn, lúc hiện...Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.”

+ Có thể coi đây là một kết thúc có hậu, thể hiện niềm mơ ước của tác giả về một kết thúc tốt lành cho người lương thiện, niềm khát khao một cuộc sống công bằng nới cái thiện cái đẹp sẽ chiến thắng cái xấu, cái ác.

 + Nhưng sâu xa, cái kết thúc ấy không hề làm giảm đi tính chất bi kịch của tác phẩm. Sau giây phút trở về, nàng vẫn phải trở về chốn thủy cung, gia đình li tán. Hạnh phúc lớn nhất đời người đàn bà ấy là được sum họp bên chồng bên con nhưng cuối cùng vẫn không đạt được. Sự trở về trong thoáng chốc và lời từ biệt của nàng đã hé ra cái sự thực cay đắng là cái nhân gian đầy oan nghiệt, khổ đau này không có chốn dung thân cho người phụ nữ vì thế mà “Thiếp chẳng thể trở lại chốn nhân gian được nữa”.

=> Tuy có những phẩm chất tâm hồn đáng quý nhưng Vũ Nương đã phải chịu một số phận cay đắng, oan nghiệt. Cuộc đời của Vũ Nương chính là tiếng nói tố cáo xã hội phong kiến bất công phi lí đương thời chà đạp lên hạnh phúc của con người.

=> Xây dựng hình tượng Vũ Nương, một mặt nhà văn ngợi ca những phẩm chất tâm hồn đáng quý của người phụ nữ xưa, mặt khác thể hiện thái độ cảm thông thương xót cho số phận bất hạnh của họ và cực lực lên án xã hội phong kiến đương thời bất công, phi lí chà đạp, rẻ rúng con người đặc biệt là người phụ nữ.

2. Nhân vật Trương Sinh

- Nhân vật Trương Sinh có vai trò làm nổi bật tình huống truyện, khắc sâu hơn tấn bi kịch cuộc đời của nhân vật Vũ Nương.

- Trương Sinh được giới thiệu là con nhà nhà khá giả [hào phú] nhưng thất học, lại có tính hay đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá mức.

- Tính đa nghi, hay ghen của Trương Sinh đã gây ra tấn bi kịch cho cuộc đời Vũ Nương, ép nàng đến cái chết thương tâm: tin lời con nhỏ, Trương Sinh đã nghi là vợ hư, về nhà đã đem lời mắng nhiếc, đánh đập Vũ Nương, bỏ qua mọi lời biện minh của Vũ Nương và khuyên răn của hàng xóm => một người chồng vũ phu, tàn nhẫn, gia trưởng, ghen tuông một cách mù quáng.

- Trương Sinh còn là một kẻ vô tình bạc nghĩa:

+ Vũ Nương vốn dĩ vợ chàng, là người có công phụng dưỡng mẹ già lúc chàng đi lính.Thế nhưng, Trương Sinh đã không mảy may tưởng đến.

+ Khi Vũ Nương chết, Trương Sinh tuy giận cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng nhưng không thấy. Sau đó cũng không cất công tìm thêm nữa.

+ Ngay cả khi nhận ra vợ bị oạn thì sự ăn năn, hối hận của Trương Sinh cũng rất mờ nhạt.

=> Nguyễn Dữ đã rất thành công khi xây dựng nhân vật Trương Sinh. Bản chất của Trương Sinh hay cũng chính là bản chất bất công thối nát của xã hội phong kiến đương thời đã chà đạp lên số phận con người.

- Tính cách cố chấp, bảo thủ của Trương Sinh phản ánh chế độ nam quyền, trọng nam khinh nữ đã gây nên biết bao tấn bi kịch thương tâm.

3. Ý nghĩa chi tiết cái bóng

- Cái bóng là một chi tiết đặc sắc, là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo làm cho câu chuyện hấp dẫn hơn so với truyện cổ tích.

- Cái bóng là đầu mối, điểm nút của câu chuyện. Thắt nút là nó, mà mở nút cũng là nó.

- Nó góp phần thể hiện tính cách nhân vật:

+ Bé Đản ngây thơ.

+ Trương Sinh hồ đồ, đa nghi.

+ Vũ Nương yêu thương chồng con.

- Cái bóng góp phần tố cáo xã hội phong kiến xung tàn, khiến hạnh phúc của người phụ nữ hết sức mong manh.

DÀN Ý 1:

A – Mở bài

Bước sang thế kỉ XVI, tình hình xã hội Việt Nam không còn ổn định như ở thế kỉ XV. Con người, nhất là phụ nữ, phải chịu nhiều đau khổ do chế độ phong kiến bất công gây nên.

Truyền kì mạn lục là một tập truyện viết bằng chữ Hán của Nguyễn Dữ, một nhà nho ở ẩn, sống ở thế kỉ XVI. Tác phẩm đã phản ánh những mặt xấu xa của chế độ phong kiến đương thời một cách có ý thức, qua đó tỏ bày thái độ của tác giả.

Chuyện người con gái Nam Xương cũng như nhiều truyện trong tập Truyền kì mạn lục có giá trị về nhiều mặt, trong đó nổi bật các giá trị hiện thực, nhân đạo, nghệ thuật dựng truyện.

B – Thân bài

Giá trị hiện thực : Truyện tố cáo xã hội phong kiến bất công, gây nhiều đau khổ cho người phụ nữ.

Phóng tác một câu chuyện xảy ra và được lưu truyền trong dân gian hàng trăm năm về trước [cuối đời Trần đến đời Hồ, tức từ cuối thế kỉ XIV đến đầu thế kỉ XV], Nguyễn Dữ muốn mượn chuyện xưa để nói chuyện nay [thế kỉ XVI, thời Nguyễn Dữ sống].

Chiến tranh, loạn lạc gây ra đau khổ cho con người

Trương Sinh ra lính, phải xa cách mẹ già, vợ trẻ.

+ Buổi chia li thật ngậm ngùi xót xa. Bà mẹ dặn con : “… nhưng trong chỗ binh cách, phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy”. Người vợ tiễn chồng : “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi”.

+ Xa con, bà mẹ nhớ con sinh ra ốm. Người vợ trẻ Vũ Thị Thiết vừa nuôi con thơ, vừa tận tình thuốc thang chạy chữa cho mẹ chồng. Nhưng không cứu nổi, mẹ chồng mất, nàng một mình lại lo liệu việc ma chay.

Người dân chạy loạn, đắm thuyền, chết đuối cả.

Lễ giáo phong kiến bất công khiến cho người đàn ông có được quyền hành hạ, ruồng rẫy người phụ nữ, dẫn đến cái chết đầy oan khuất của người vợ chung thủy, hiếu nghĩa. Đọc truyện, ta phẫn uất trước cái chết của Vũ Nương, một người phụ nữ tiết hạnh, chỉ có công chứ không có một chút tội lỗi nào.

Vì đâu gây nên nỗi oan khuất đó ?

+ Có phải do thói ghen tuông của Trương Sinh bởi cả tin ở lời của một đứa trẻ ? – Đúng là có điều đó.

+ Nhưng căn nguyên sâu xa là do sự bất công của lễ giáo phong kiến : trong quan hệ vợ chồng dưới chế độ phong kiến, chỉ có người chồng là có toàn quyền [nam quyền[1]] đối với người vợ, bất kể đúng sai, như trong truyện : Trương Sinh nghi oan cho vợ, không nói thẳng với vợ, không thèm nghe lời thanh minh, nên đã dẫn đến cái chết thảm thương của người vợ vô tội.

Giá trị tố cáo càng cao khi Vũ Nương tuy oan đã được giải, nhưng nàng không thể nào trở lại cõi trần với chồng con được nữa ; Vũ Nương thà trở về sống dưới thủy cung còn hơn sổng trên cõi đời đẩy oan khuất, đầy đau khổ của chế độ phong kiến đương thời.

Giá trị nhân dạo : Truyện để cao phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ : đảm đang, hiếu nghĩa, chung thủy.

Truyện đã xây dựng nên hình tượng Vũ Nương, một hình tương phụ nữ đẹp với những đức tính đáng quý :

+ Khi chồng ra lính, Vũ Nương đã một mình :

+ Nuôi dạy con thơ.

+ Nuôi dưỡng mẹ chồng, thuốc thang khi ốm đau, lo liệu ma chay khi mẹ chồng mất.

+ Với mẹ chồng, Vũ Nương giữ tròn chữ hiếu của người con đối với cha mẹ, thay chồng nuôi mẹ chồng, coi mẹ chồng như mẹ đẻ của mình.

[1] Xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử : [người phụ nữ] lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con [con trai]. Với chồng, Vũ Nương trước sau vẫn giữ trọn vẹn nghĩa tình :

+ Biết chồng vốn tính đa nghi, “nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hòa”.

+ Khi xa chồng, nàng không để xảy ra điều tai tiếng gì.

+ Khi bị nghi oan, không thể giãi bày được, nàng lấy cái chết để chứng thực nghĩa tình của mình.

+ Sau khi tự vẫn, được “cứu sống” [“sống” ở thủy cung], tuy cuộc sống thanh thản, sung sướng, nàng vẫn nhớ đến chồng, mong được chồng biết đến nỗi oan và giải oan cho mình.

c] Trong trắng, thủy chung

Vũ Nương hoàn toàn vô tội [giữ trọn nghĩa tình vợ chồng] nhưng lại bị nghi oan, dù có giãi bày cũng không gỡ ra được nên nàng phải chết với lời thề : “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Vũ Nương tin ở tấm lòng chung thủy, trong trắng của mình. Nên sau khi chết đã được như lời nguyền : “Các nàng tiên trong cung nước thương tôi vô tội, rẽ một đường nước cho tôi thoát chết, nếu không thì đã vùi vào bụng cá…”, rồi được Linh Phi cho sống sung sướng trong cung…

Tiết nghĩa của Vũ Nương là như vậy, nhưng như trên đã nói : oan được giải, gặp lại chồng nhưng nàng không thể trở lại sống ở cõi đời được. Câu chuyện càng thương tâm. Và tấm lòng nàng càng sáng tỏ.

Giá trị nghệ thuật : Truyện có nhiều thành công về nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật dựng truyện giàu kịch tính, tập trung làm nổi bật nỗi oan của Vũ Nương, gây xúc động đối với người đọc,

Xuyên suốt câu chuyện, trong mọi tình tiết, chi tiết, có dịp là tác giả giới thiệu, khẳng định, ca ngợi phẩm chất của Vũ Nương. Để nhân vật [Vũ Nương] nói nhiều lẩn trong tác phẩm, giọng nói khi thì thắm thiết, khi thì thống thiết khiến người đọc càng xúc động.

Cách xây dựng tình tiết, thắt nút, gỡ nút đẩy bất ngờ, đầy kịch tính, càng làm cho nỗi oan nổi rõ lên với tất cả cái bi thảm của nó :

+ Thắt nút bằng yếu tố bất ngờ : Một câu nói ngây thơ nghe như thật, của một trẻ thơ mà gây nên bão táp dây chuyển trong cuộc đời vợ chồng Trương Sinh, Vũ Nương : chồng nghi kị vợ, hạnh phúc gia đình tan vỡ và cuối cùng là cái chết bi thảm của người vợ trong tráng.

+ Gỡ nút cũng bằng yếu tó bất ngờ : Bấy nhiêu bão tố, bi kịch, oan khiên bỗng được làm sáng tỏ cũng bằng một câu nói ngây thơ của một trẻ thơ [“Cha Đản lại đến kia kìa !”], hay nói cho đúng hơn là lời nói đùa của người mẹ với con khi váng chồng.

c – Kết bài

Chuyên người con gái Nam Xương là một chuyện tình yêu đáy oan khuất. Người phụ nữ đẹp người, đẹp nết đã phải lấy cái chết để minh oan, Thật là vô lí và bất công khi toàn bộ bi kịch đó là do một lời nói đùa của người mẹ mà đứa con thơ dại đã ngây thơ nói lại. Người đọc càng thương cảm, phẫn uất khi hiểu ra rằng : Vũ Nương chỉ là một nạn nhân của lễ giáo phong kiến bất công đối với người phụ nữ mà Nguyễn Dữ đã phản ánh một cách khá chân thực trong tác phẩm của mình.

Vũ Nương là một hình tượng nhân vật phụ nữ đẹp trong văn chương Việt Nam, thế kỉ XVI. Cái chết bi thảm của Vũ Nương, ngoài giá trị lên án xã hội phong kiến đương thời, còn sáng ngời tiết nghĩa của một người phụ nữ đức hạnh, phù hợp với cách đánh giá của dân gian đối với hình tượng nhân vật này và câu chuyện đầy xúc động này

DÀN Ý 2

I. Mở bài: giới thiệu Chuyện người con gái Nam Xương

II. Thân bài: Phân tích Chuyện người con gái Nam Xương

1. Phẩm chất của nhân vật Vũ Nương trong truyện:

– Một người vợ rất chung thủy

– Vũ Nương là một người con hiếu thảo

– Cô gái đẹp người, đẹp nết

– Là biểu tượng cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam

2. Nỗi oan khuất của Vũ Nương:

– Vũ Nương luôn thủy chung với chồng, chăm sóc con chu đáo

– Chồng Vũ Nương chỉ vì một lời nói của con mà đã nghi oan cho Vũ Nương

– Khiến Vũ Nương chịu oan và chịu nhiều đau khổ

– Qua đó thể hiện định kiến của xã hội ngày xưa, những lí do lạc hậu, hủ tục mê tín của người xưa

3. Những hình ảnh, yếu tố kì ảo trong truyện:

– Chồng Vũ Nương nằm mơ rồi thả rùa

– Phan Lang lạc vào động rùa của Linh Phi

– Vũ Nương hiện về khi Phan Lang lập đàn giải oan

III. Kết bài: nêu cảm nhận của em về Chuyện người con gái Nam Xương

DÀN Ý 3:

A. MỞ BÀI:

– Giới thiệu về tác giả Nguyễn Dữ

– Tác phẩm: là chuyện thứ 16 của tập Truyền kì mạn lục

– Qua số phận bi thảm của Vũ Nơng ta thấy số phận oan nghiệt của ngời phụ nữ dới

xã hội phong kiến

B. Thân bài:

1. Nhân vật Vũ Nương

* Vũ Thị Khiết người con gái Nam Xương tính thùy mị nết na lại thêm thêm dung

tốt đẹp ->Nhân vật hiện lên có đời sống có tính cách rõ rệt

* Trong cuộc sống vợ chồng bình thường – Chồng hay đa nghi- Vũ Nương luôn

luôn biết sống đúng đạo làm vợ lúc nào cũng giữ gìn khuôn phép

* Khi tiễn chồng đi lính – Nàng không màng vinh hiển chỉ mong chồng bình yên trở

về Không mong đeo đợc chỉ xin mang theo được hai chữ bình yên

– Cảm thông với những gian lao mà chồng sẽ phải chịu đựng Việc quân khó liệu,

thế giặc khôn lường

* Khi xa chồng – Vũ Nương là ngời vợ thủy chung yêu thương chồng tha thiết Nỗi

buồn góc bể chân trời không thể nào.

* Nàng còn là người mẹ hiền, dâu thảo

– Nàng vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm sóc mẹ chồng

– Mẹ chồng ốm lo thuốc thang chạy chữa

– Mẹ chồng chết lo ma chay tế lễ

* Khi bị chồng nghi oan

– Nàng một mực phân trần để chồng hiểu nỗi lòng của mình

– Nàng nói về tình nghĩa vợ chồng- khẳng định tấm lòng thủy chung

Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết – Cầu xin chồng, muốn hàn gắn rạn nứt

* Vũ Nương trầm mình xuống sông Hoàng Giang mong rửa sạch nỗi oan khuất

– Tẳm rửa chay sạch

– Thề nếu Lừa chồng dối con làm mồi cho cá

2. Nhân vật Trương Sinh

– Vốn con nhà giàu nhng ít học lấy Vũ Nương chỉ vì dung hạnh nên đã đem một

trăm lạng vàng đến hỏi nàng

– Là ngời chồng đa nghi

– Dẫn đến cái chết của Vũ Nơng -> Là hiện thân của chế độ phụ quyền Trung Quốc

3. Yếu tố kì ảo

– Vũ Nơng đợc các nàng tiên cứu sống ở dưới thủy cung

– Hiện lên gặp mặt Trơng Sinh

C. Kết bài

– Khẳng định nét đẹp tâm hồn của ngời phụ nữ

– Cảm thương cho số phận của Vũ Nơng

– Yếu tố kì ảo hoàn thiện thêm nét đẹp của Vũ Nương .

DÀN Ý 4:

I. Mở bài: giới thiệu chuyện người con gái Nam Xương

II. Thân bài: cảm nhận về chuyện người con gái Nam Xương

1. Cảm nhận về cô gái mang tên Vũ Nương:

Người con gái hiền thục, diệu dàng, siêng năng

Yêu thương chồng con sâu sắc

Hiếu thảo với cha mẹ

Chung thủy với chồng

Giữ nét đẹp của người phụ nữ

Biết chừng mực và lễ nghi

2. Cảm nhận về chuyện người con gái Nam Xương:

Câu chuyện nói lên số phận của người phụ nữ Việt Nam xưa

Phản ánh phong tục lạc hậu

Thể hiện các yếu tố huyền ảo

Nói lên sự phê phán xã hội xưa, một xã hội bất bình đẳng

III. Kết bài: nêu cảm nhận về câu chuyện người con gái Nam Xương

Video liên quan

Chủ Đề