Nhà thơ vị cái gì như mảnh hồn làng

Có lẽ mỗi người chúng ta ai sinh ra và lớn lên cũng đều có quê hương của riêng mình, đó là chốn thiêng liêng, là mái nhà ôm ấp, vỗ về ta trước bao sóng gió, phong ba cuộc đời. Chính vì vậy mà quê hương trở thành nguồn cảm hứng sáng tác của nhiều nghệ sĩ, là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca Việt Nam. Viết về đề tài này, nhà thơ Tế Hanh đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc với tác phẩm cùng tên. Phân tích bài thơ Quê hương để thấy được vẻ đẹp của nơi “chôn nhau cắt rốn” và tình cảm của tác giả.

Trích bài thơ Quê hương của Tế Hanh

Tế Hanh bắt đầu sáng tác từ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, ghi tên mình vào chặng cuối trong phong trào Thơ mới với những dòng thơ mang nhiều nỗi buồn cùng tình yêu quê hương đất nước tha thiết. Giai đoạn sau năm 1945, ông tiếp tục sáng tác phục vụ cho cách mạng và kháng chiến, bày tỏ bao niềm thương nỗi nhớ và khao khát đất nước sớm được thống nhất, Nam Bắc đoàn tụ một nhà. Được in trong tập Hoa niên [1945], Quê hương là một trong những bài thơ xuất sắc nhất của người con núi Ấn sông Trà, thể hiện nỗi nhớ thương của tác giả đối với nơi mình được sinh ra.

Khi từ “quê hương” được cất lên, trong tâm trí của chúng ta có lẽ đâu đó là hình ảnh cây đa giếng nước, lũy tre đầu làng, những cánh đồng lúa bát ngát, mênh mông còn quê hương của Tế Hanh hiện lên là một làng chài ven biển nằm trên cù lao giữa bốn bề sông nước: 

“Làng tôi vốn làm nghề chài lưới:

Nước bao vây cách biển nửa ngày sông.”

Mở đầu, nhà thơ đã nói đến quê hương mình “làng tôi” vô cùng tự nhiên và giản dị, cho biết người dân quê ông sống bằng nghề đánh cá truyền thống, cuộc đời gắn liền với tiếng sóng rì rào, với vị mặn của biển cả, xung quanh là một màu đại dương xanh ngát. Từ lời giới thiệu mộc mạc, không chút rườm rà, hoa mỹ này bức tranh làng quê miền biển và cảnh lao động của người dân chài từ từ mở ra trước mắt người đọc:

“Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng,

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Không gian và thời gian được tác giả nhắc đến với “trời trong”, “gió nhẹ”, “sớm mai hồng”, một buổi sáng đẹp trời để “dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá”. Hình ảnh con người hiện lên đầy khỏe khoắn và năng động, họ bắt đầu công việc của mình với khí thế rộn ràng, sôi nổi.

Vẻ đẹp của chiếc thuyền đánh cá trên biển cả bao la

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo mạnh mẽ vượt trường giang.

Cánh buồm trương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”

Qua các động từ mạnh “hăng”, “phăng”, “mạnh mẽ vượt” và hình ảnh so sánh “như con tuấn mã” ta thấy được tâm thế mạnh mẽ, khí thế căng tràn của chiếc thuyền ra khơi. Ở đây Tế hanh đã để phương tiện di chuyển này hiện lên với vẻ đẹp chủ động, 

như một con ngựa tốt, tiến về phía trước như không chịu bất kỳ sự cản trở nào, sẵn sàng kinh qua một trận chiến khốc liệt, vững vàng can trường trước sóng biển. Chiếc thuyền đánh cá đời thường qua mắt nhìn, lời thơ của tác giả đã trở nên thật hiên ngang, sục sôi nhiệt huyết. Từ trạng thái hào hùng này rất nhanh Tế Hanh đã đưa người đọc đến với vẻ đẹp thật hào hoa lãng mạn của hình ảnh cánh buồm:

“Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…”

Qua hai câu thơ, tác giả đã làm rõ được tầm quan trọng của cánh buồm, có cánh buồm “chải gió” thì con thuyền mới có thể ra khơi làm việc, mang nguồn hải sản quý giá về nuôi sống dân làng. Cánh buồm còn đảm bảo được cho con thuyền hai chữ “bình an” trước bao sóng to gió lớn nơi biển cả mênh mông. Vốn là thứ hữu hình vô tri vô giác giờ đây qua sự liên tưởng của tác giả cánh buồm trở thành “mảnh hồn làng” – một sinh thể trừu tượng đầy lãng mạn. Nó là biểu tượng cho làng chài, những con người mưu sinh vùng biển, thấy cánh buồm như thấy niềm hy vọng, sự sống lớn lao, là nơi thâu góp và lưu giữ vẻ đẹp của miền xanh thẳm cùng tâm hồn, tình cảm của con người nơi đây. Cánh buồm chở bao tin yêu, niềm mong ngóng đợi chờ của những người mẹ, đứa con thơ ở nơi đất liền dành cho người chồng, người cha đang ngoài khơi xa vì vậy đằng sau nó còn là hình ảnh gia đình đoàn tụ, là động lực cho sự cố gắng làm việc và bình an trở về. Động từ “rướn” được sử dụng nhằm tô đậm tư thế kiêu hãnh, đầy tự tin và chủ động của con thuyền đồng thời vẽ ra hình ảnh làm chủ thiên nhiên, vững vàng trước biển cả của người đánh cá. Với bốn câu thơ, Tế Hanh đã mở ra trước mắt độc giả một khung cảnh tuyệt đẹp, tràn đầy sức sống, hứa hẹn một ngày ra khơi thắng lợi. Và như một trình tự bất biến, sau khoảng thời gian làm việc hăng say, chăm chỉ, con thuyền trở về:

“Ngày hôm sau, ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về.

“Nhờ ơn trời, biển lặng cá đầy ghe”,

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.”

Phân tích bài thơ Quê hương để thấy vẻ mặt rạng rỡ của người dân làng chài với thành quả có được

Đọc những câu thơ trên, ta dường như có chung niềm vui với người dân làng chài bởi thành quả họ có được sau một ngày dấn thân chinh phục biển cả. Trong lời cảm tạ trời đất đầy giản dị mộc mạc, ta thấy ở họ cái tinh thần quý báu của người Việt, luôn biết ơn và tin tưởng đấng siêu hình đã phù hộ cho họ được bữa no, áo ấm. Vẻ đẹp của họ được tác giả “thầm thương” và miêu tả kỹ trong khổ thơ tiếp theo:

“Dân chài lưới, làn da ngăm rám nắng,

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.”

Có thể nói rằng những vần thơ này của Tế Hanh vừa thực tế, vừa lãng mạn. Thực tế bởi “làn da ngăm rám nắng” của dân chài lưới, đó là cái nắng của biển khơi, nắng của những ngày sóng chưa bao giờ ngừng vỗ. Lãng mạn vì cái “vị xa xăm” họ để ngấm vào trong da thịt mình, đó là vị của biển cả, của muối, của gió, của tình cảm quê hương, gia đình đậm sâu. Hình ảnh người dân chài qua đây hiện lên thật khỏe khoắn, đặc trưng cho miền biển và đâu đó có cả chút thi vị. Gắn liền, đồng hành cùng con người trong cuộc đi xa, khi trở về nhà thơ không để quên con thuyền ở một nơi nào xa lạ. Theo tác giả, con thuyền cũng có linh hồn, cảm giác qua “mỏi”, “nằm”, “nghe”. Nó như một người dân lao động, biết tự cảm nhận cơ thể mình sau một ngày làm việc hăng say, cực nhọc. Tất cả những điều này đều được tái hiện qua ký ức êm đềm, đẹp đẽ của Tế Hanh để sau cùng người con xa quê này bộc lộ niềm thương nỗi nhớ da diết với quê hương mình:

“Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

Màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi,

Thoáng con thuyền rẽ sóng chạy ra khơi,

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá!”

Con người ta vốn dĩ được hình thành từ những điều ban sơ, chân thật nhất vì vậy mà nhớ thì nói nhớ, thương thì nói thương, ở đây nhà thơ của chúng ta cũng như vậy, không ngần ngại bộc bạch nỗi lòng của mình rằng ông luôn tưởng tượng, thương nhớ về quê hương. Qua một loạt các hình ảnh “màu nước xanh”, “cá bạc”, “chiếc buồm vôi” đủ để thấy được nỗi nhớ quê hương của tác giả chân thành và da diết đến chừng nào, để rồi cuối cùng phải thốt lên rằng “tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá”. Mùi nồng mặn ở đây chính là mùi của cá tôm, của biển cả, mùi của cơn gió ngày đêm rì rào thổi, mùi của con người quê hương tác giả. Cái mùi đầy yêu thương ấy đã khắc sâu trong tâm trí nhà thơ và không thôi nồng nàn, vương vấn để ông mãi nhớ, mãi hướng về. 

Nhà thơ Tế Hanh khi còn trẻ

Không cầu kỳ, phô trương, Tế Hanh đã viết nên một tác phẩm hay với bao cảm xúc chân thành nhất. Phân tích bài thơ Quê hương, ta có cơ hội nhìn thấy hình ảnh tươi đẹp vùng biển, thấy được cái hồn thi vị của quê hương đất nước Việt Nam. 

Những câu hỏi liên quan

Phân tích các câu thơ sau:

- Cánh buồm giương to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió…

- Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm.

Lối nói ẩn dụ và biện pháp so sánh ở những câu này có hiệu quả nghệ thuật  như thế nào?

Nêu ý nghĩa của hình ảnh "cánh buồm" trong câu thơ "cánh buồm giương to như mảnh hồn làng" [trích "Quê hương" - Tế Hanh]

mảnh hồn trong trẻo của Tế Hanh

___________________________BÀI SỐ 62__________________________

Cảm nhận về mảnh hồn trong trẻo của Tế Hanh trong bài thơ Quê hương và quê hương trong những bài thơ gần gũi của các nhà thơ khác mà em biết.

BÀI LÀM

Nghệ sĩ vĩ đại trước hết phải là nghệ sĩ của một dân tộc cụ thể, một quê hương cụ thể. Theo năm tháng, biết bao thi sĩ đã vắt máu từ tim mình thành mực viết để dâng tặng cho đời những bông hoa tươi đẹp cùng có tựa đề Quê hương. Có thể kể đến cảm xúc nghẹn ngào khi nhắc về quê hương trong kỉ niệm với “cô bé nhà bên” của Giang Nam, là quê hương trong kí ức tuổi thơ với vị khế, hương cau… của Đỗ Trung Quân và còn là làng chài ven biển với cái “mùi nồng mặn” trong thơ Tế Hanh.

Quê hương [1960] của Giang Nam, bài thơ quen thuộc trong mỗi trái tim người yêu thơ. Bài thơ dung dị dễ thương, hồn nhiên mà day dứt như một nét cười buồn trong những năm chiến tranh tàn khốc. Quê hương găn liền với những kỉ niệm tuổi thơ:

Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường

Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ

Ai bảo chăn trâu là khổ

Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao

Có những ngày trốn học

Đuổi bướm cạnh cầu ao

Mẹ bắt được chưa đánh roi nào đã khóc

Có cô bé nhà bên

Nhìn tôi cười khúc khích

Quê hương ấy còn là cả máu và nước mắt của người em gái hi sinh vì độc lập tự do, khao khát hòa bình. Nhà thơ yêu quê hương vì: trong từng nắm đất có một phần xương thịt của em tôi.

Còn với Đỗ Trung Quân thì quê hương đó chính là mẹ với dòng sữa ngọt ngào nuôi ta lớn, chua chua quả khế vườn nhà, bướm bay và diều lượn, con đò khua nước ven sông, trăng sáng vườn hoa cau…, bữa ăn sum vầy ấm cúng:

Quê hương… là chùm khế ngọt

Cho con trèo hái mỗi ngày

Quê hương… là đường đi học

Con về đuổi bướm vàng bay

Quê hương… là cánh diều biếc

Chiều chiều con thà trên đồng

Quê hương… là con đò nhỏ

Êm đềm khua nước ven sông

Quê hương… là đêm trăng tỏ

Hoa cau rụng trắng ngoài thềm

Tiếng ếch râm ran bờ ruộng

Con nằm nghe giữa mưa đêm

Quê hương… là bàn tay mẹ

Dịu dàng dái lá mồng tơi

Bát canh ngọt ngào tỏa khói

Sau chiều tan học mưa rơi…

Bài thơ gọi về dồn dập những kỉ niệm làm hồn ta xao động không nguôi. Lời thơ giản dị nhưng thật thi vị. Tất cả đều ià chất thơ của đời sống mà ta hằng nuôi dưỡng, gìn giữ trong tâm tưởng. Trên hết, quê hương chính là mẹ:

Quê hương mỗi người chỉ một

Như là chỉ một mẹ thôi

Quê hương nếu ai không nhớ

Sẽ không lớn nổi thành người

Ngược dòng thời gian, Quê hương [1939] của Tế Hanh thực sự là mảnh hồn trong trẻo mà nhà thơ có được trước Cách mạng tháng Tám. Giữa lúc phần đông các thi sĩ của phong trào thơ mới đang thở than, sướt mướt trong dàn đồng ca sầu với tình yêu tuyệt vọng, mối sầu cô đơn thì Quê hương của Tế Hanh cất lên như một tiếng thơ khỏe khoắn, khác lạ:

Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới;

Nước bao vảy, cách biển nửa ngày sông.

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng

Dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá.

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang

Cánh buồm giương, to như mảnh hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió

Tế Hanh là một nhà thơ lãng mạn, nhiều người cho rằng làm thơ lãng mạn phải nói đến tình yêu đau khổ, phải nhớ nhung đắm đuối. Bài thơ này được viết khi ông mười tám tuổi, với bao mơ mộng của tuổi học trò. Tác giả xa quê nhớ về làng tôi ở nhưng cảm hứng thơ lại phấn chấn, không hề gây cảm giác xa xôi, buồn man mác.

Thơ hoài niệm thường thấm đẫm nỗi buồn, bởi đó là kỉ niệm chập chờn hiện lên trong kí ức, trong nỗi nhớ thương. Ta nhớ tới vần thơ xao xác buồn đến nao lòng của Lưu Trọng Lư:

Mỗi lần nắng mới hắt bên sông

Xao xác gà trưa gáy não nùng

Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng

Chập chờn sống lại những ngày không

[Nắng mới]

Thế nhưng với Tế Hanh, cũng là thơ hoài niệm nhưng hình ảnh thơ khỏe khoắn, cụ thể, rõ ràng như hiện thực trước mắt, sống động đến vô cùng. Thời khắc nhà thơ nhớ về làng quê mình ấy là:

Khi trời trong, gió nhẹ, sớm mai hồng

Câu thơ mở ra không gian bát ngát, trong sáng, màu sắc rạng rỡ của miền biển khơi. Lời thơ như có nhạc, có họa, có tiếng sóng, tiếng gió, thật tươi nhạc, tươi vần không chút buồn ảo não.

Nhớ về làng chài, nhà thơ nhớ cảnh đoàn thuyền ra khơi nhớ cái khỏe mạnh, phóng khoáng của dân trai tráng bơi thuyền đi đánh cá [Đỗ Phủ] hay Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi [Anh Thơ] mà con thuyền đầy phấn khích, dường như cũng mang sức trẻ, lướt nhanh trên đầu sóng, ngọn gió, hăm hở:

Chiếc thuyền nhẹ hăng như con tuấn mã

Phăng mái chèo, mạnh mẽ vượt trường giang

Miêu tả cánh buồm của con thuyền ấy, nhà thơ đã tìm đến một hình ảnh so sánh, liên tưởng đẹp:

Cánh buồm giương, to như mành hồn làng

Rướn thân trắng bao la thâu góp gió.

Cánh buồm – cái cụ thể hữu hình được so sánh với hồn làng – cái trừu tượng vô hình. Hồn làng tức linh hồn, là nét riêng sâu thẳm, linh thiêng của quê hương, của làng chài mà nhà thơ cảm nhận qua cánh buồm giương. Hình ảnh thơ thật khoáng đạt, kì vĩ. Đây cũng là sự phát hiện tinh tế, chính xác của nhà thơ: Cánh buồm thân thuộc, gắn bó không thể thiếu trong đời sống mưu sinh, biểu tượng của một làng chài.

Nhà thơ còn nhân hóa cánh buồm no gió ấy mang sức vóc cường tráng, khỏe mạnh của một chàng trai rướn thân trắng bao la thâu góp gió. Không hiểu sao đọc câu thơ này của Tế Hanh tôi lại nhớ tới câu thơ thật lãng mạn của Tố Hữu trong niềm vui bất tuyệt:

Ngực lép bốn nghìn năm trưa nay cơn gió mạnh

Thổi phồng lên, tim bỗng hóa mặt trời

Ngôn ngữ miêu tả trong câu thơ của Tế Hanh giàu giá trị tạo hình, đường nét phóng khoáng, khiến con người, con thuyền, cánh buồm cũng nổi hình, nổi khối, cựa quậy, sống động giống như những sinh thê kì vĩ.

Cảnh dân làng ra khơi đánh cá trở về trong nỗi nhớ của nhà thơ cũng thật tươi vui, gợi không khí thanh bình, no ấm:

Ngày hôm sau ồn ào trên bến đỗ

Khắp dân làng tấp nập đón ghe về

“Nhờ ơn trời biền lặng cá đầy ghe”

Những con cá tươi ngon thân bạc trắng.

Dân chài lưới làn da ngăm rám nắng,

Cả thân hình nồng thở vị xa xăm;

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Giống như bàn tay của nhà điêu khắc, ngôn ngữ tạo hình của Tế Hanh đã tạc nên bức phù điêu hùng vĩ về chân dung con người làng chài rắn chắc, khỏe mạnh như bức tượng đồng nâu với làn da ngăm rám nắng, cả thân hình nồng thở vị xa xăm. Họ là kết tinh cho sức mạnh dãi dầu nắng, gió, sóng biển. Họ là những người con của biển.

Vẫn con thuyền ra khơi, giờ đây trở về sau một ngày chạy đua cùng sóng gió được nhà thơ nhân hóa giống như một con người, một nhà hiền triết với dáng nằm thư giãn, lặng lẽ, suy tư:

Chiếc thuyền im bến mỏi trở về nằm

Nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ.

Nghe [cảm nhận bằng thính giác] nhưng ở đây lại nghe chất muối thấm dần trong thớ vỏ sự chuyển đổi cảm giác thật tinh tế. Không chỉ con người mà ngay đến cả con thuyền cũng thấm đẫm hương vị biển, thấy vị mặn mòi của muối biển đang râm ran trong cơ thể mình hay đó chính là cái dư vị dịu êm mà giản dị của nhịp đời miền quê biển.

Tuổi nhỏ của Tế Hanh chắc chắn đã trải qua cái mùi nồng mặn của những mẻ cá vàng, trong lời ru bát ngát, êm êm của bốn bề sóng vỗ thì mới viết được những câu thơ như thế này. Không là người con của vạn chài cũng không thể viết được những câu thơ như thế. Khi biết âm thầm hóa hồn mình vào hồn thơ để lắng nghe, mở rộng mọi giác quan để phập phồng thu nhận mọi cảm giác Tế Hanh mới viết được những câu thơ tài hoa đến vậy. Phải chăng chất muôi mặn mòi, thấm dần trong từng thớ vỏ chiếc thuyền nay đã thấm sâu vào làn da, thớ thịt, tâm hồn Tế Hanh để thành niềm ám ảnh bâng khuâng, kì diệu. Te Hanh thật tài tình và thật tinh khi sống trong lòng sự vật có khả năng nghe thấu tiếng lòng, cảm giác của những vật vô tri. Chẳng thế mà trong lời con đường quê nhà thơ cũng đã nhập hồn vào con đường nhỏ chạy lang thang để mang nỗi buồn vương chạy khắp làng.

Kết thúc bài thơ có hai chữ nhớ:

Nay xa cách lòng tôi luôn tưởng nhớ

……

Tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá

Nhưng ý thơ không hề gây cảm giác yếu mềm, bi lụy mà vẫn khỏe khoắn, tươi mới. Nỗi nhớ ấy gắn liền với những gì thân thuộc của làng chài màu nước xanh, cá bạc, chiếc buồm vôi. sắc màu trong sáng, hương vị nồng ấm đậm đà. Nỗi nhớ cồn lên, mãnh liệt tôi thấy nhớ cái mùi nồng mặn quá. Đó là hương vị quê hương, hương vị thân thiết, ruột thịt của người thân.

Bài thơ có thể coi là bức tranh quê đẹp, trong sáng, lời thơ khỏe khoắn. Nổi bật trong bức tranh ấy là ba hình ảnh: dân chài lưới, cánh buồm giương, con thuyền. Hình ảnh nào cũng đẹp, sắc nét, phóng khoáng, đầy sức sống, đậm đà hương vị biển. Đó có thể coi là nét riêng, điệu hồn quê hương mà nhà thơ vương vấn suốt đời.

Cũng chính vì thế mà bức tranh quê trong nỗi nhớ của Tế Hanh không có nét dáng buồn như bức tranh quê của các nhà thơ mới với đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi, quán tranh đứng im lìm, hoa xoan tím rụng tơi bời [Anh Thơ], mà là bức tranh quê với đường nét tươi tắn, khỏe khoắn được họa lên từ tình cảm đậm đà, trong sáng của tuổi hoa niên dành cho quê hương mình.

Nếu không gắn bó, yêu thương quê hương mình bằng tình cảm trong sáng, đằm thắm thì nhà thơ không thể cảm nhận và thể hiện được một cách tài hoa, sinh động những vẻ đẹp của người quê, cảnh quê trong những câu thơ tươi tắn, nồng nàn như vậy. Quê hương [1939] của Tế Hanh thật đúng là mảnh hồn trong trẻo nhất mà ta gặp trong thơ trước Cách mạng tháng Tám.

mảnh hồn trong trẻo của Tế Hanh

TẢI VỀ FILE

>> Xem thêm :

+ Phân tích bài thơ Khi con tu hú của Tố Hữu – Bài văn chọn lọc lớp 8

Related

Tags:Ngữ văn 8 · Văn mẫu 8

Video liên quan

Chủ Đề