Nhập khẩu song song tại Việt Nam

Theo định nghĩa của tổ chức quốc tế WHO, nhập khấu song song là:“Nếu một nhà sản xuất sở hữu một sản phẩm ở vài nước, thì vì một số lý do họ có thể quyết định bán sản phẩm đó ở các mức giá khác nhau ở mỗi nước. Nếu giá ở nước A thấp hơn ở nước B đáng kể thì các nhà nhập khẩu ở nước B có thể mua sản phẩm với giá rẻ hơn ở nước A và bán ở nước B với mức giá thấp hơn giá do nhà sản xuất qui định. Đó là nhập khẩu song song.”

Một cách định nghĩa khác về nhập khẩu song song đó là: “nhập khẩu song song [Parallel Import – PI], còn gọi là thị trường nhập khẩu xám [gray market import], là hiện tượng những hàng hoá được sản xuất dưới sự bảo hộ đầy đủ của các luật thương hiệu, bằng sáng chế, hoặc bản quyền, chúng được đưa vào lưu thông trong một thị trường, và sau đó được nhập khẩu vào một thị trường thứ hai mà không được phép của các chủ sở hữu tài sản trí tuệ trong địa bàn đó. Các chủ sở hữu này thường là một đại lý địa phương được các nhà sản xuất cấp phép phân phối cho sản phẩm của mình”[Trích nguồn:  //spiroupharmablog.blogspot.com]

Theo quy định về nhập khẩu song song thuốc phòng và chữa bệnh cho [Ban hành kèm theo Quyết định số 1906/2004/QĐ-BYT ngày 28 tháng 05 năm 2004 của Bộ trưởng Bộ Y tế], có định nghĩa như sau về nhậpkhẩu song song: “Nhập khẩu song song thuốc [NKSST] là việc nhập khẩu có cùng tên biệt dược với thuốc đã được cấp số đăng ký [SĐK] lưu hành tại Việt Nam khi các công ty dược phẩm nước ngoài định giá thuốc ở nước này thấp hơn ở nước kia”

Cũng theo như cách hiểu của tác giả Nguyễn Thanh Tâm, trong cuốn  “Quyền Sở hữu công nghiệp trong hoạt động thương mại”, xuất bản năm 2006, nhà xuất bản tư pháp Hà Nội,  thì “nhập khẩu song song là một thuật ngữ dùng để chỉ “…việc nhập khẩu sản phẩm chứa đựng đối tượng SHCN được bảo hộ, được tiến hành bởi một nhà kinh doanh không hề có mối quan hệ nào với chủ sở hữu đối tượng SHCN”.

Như vậy có thể thấy rằng nhập khẩu song song là một trong những hình thức của hoạt động sở hữu trí tuệ, nó có liên quan đến việc nhập khẩu hàng hóa có chứa đựng đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo hộ, có thể là nhãn hiệu, sáng chế, kiểu dáng công nghiệp. Hoạt động này xảy ra do sự thúc đẩy của các yếu tố của nền kinh tế thị trường, khi mà các nhà quản lý doanh nghiệp thấy rằng họ có thể sử dụng các quy định về sở hữu trí tuệ để tận dụng triệt để các cơ hội thị trường nhằm tận dụng hợp pháp quyền sở hữu trí tuệ của người khác.

Nhập khẩu song song chính là một ngách của thị trường mà các nhà kinh doanh có thể lợi dụng do sự khác biệt về giá  cũng như sự khác biệt giữa các quốc gia về điều kiện kinh tế – xã hội. Vì thế, các nhà nhập khẩu song song thường mua sản phẩm tại một quốc gia có mức giá [P1] rẻ hơn giá mà chúng được bán chính thức ở một nước thứ hai [P2], sau đó họ nhập khẩu các sản phẩm này vào nước thứ hai, và bán các sản phẩm ở nước này tại một mức giá mà thường nằm giữa P1 và P2.

Hàng hóa được nhập khẩu song song là hàng hóa hợp pháp, chúng không phải là hàng hóa giả mạo, hàng lậu hay ăn cắp.  Chúng hoàn toàn giống với hàng hóa tại nước sở tại, ngoại trừ chúng có thể đóng gói  khác nhau và không có bảo hành của nhà sản xuất gốc. Thông thường là các cơ sở có hợp đồng li-xăng với chủ sở hữu nhãn hiệu, chi nhánh hoặc công ty con. Chủ thể của hành vi nhập khẩu [người tiến hành hành vi nhập khẩu]  có thể là bất kỳ tổ chức/cá nhân nào.

Mặc dù còn nhiều tranh cãi về tính hợp pháp của nhập khẩu song song như nó sẽ gây tổn hại đến công việc R&D để sáng tạo ra những loại thuốc tiên tiến, không khuyến khích việc nghiên cứu do bị giảm nguồn lợi nhuận. Tuy nhiên, đối với các quốc gia nghèo, đang phát triển, nhập khẩu song song lại tỏ ra vô cùng cần thiết nhằm tiếp cận với nguồn thuốc giá rẻ, giảm sự độc quyền của các công ty sản xuất thuốc.

  • tư vấn luật của SBLAW
  • Chuyên mục: Tư vấn về luật đầu tư
NHẬP KHẨU SONG SONG Ô TÔ TẠI VIỆT NAM CÓ HỢP PHÁP?

Theo

sblaw

-

Tháng Một 27, 2021

416

Câu hỏi:

“Thưa Luật sư, hiện tôi đang có kế hoạch nhập khẩu song song ô tô. Tôi có thắc mắc là ở Việt Nam hiện nay, việc nhập khẩu song song ô tô có được phép hay không? Tại sao? Chân thành cảm ơn Luật sư.”

Luật sư trả lời:

Công ty Luật TNHH SB Law cảm ơn bạn đã quan tâm đến dịch vụ tư vấn pháp luật của chúng tôi. Liên quan đến thắc mắc của bạn về việc nhập khẩu song song ô tô, chúng tôi xin tư vấn như sau:

  1. Về khái niệm nhập khẩu song song theo pháp luật hiện hành.

  • Theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 Nghị định 99/2013/NĐ-CP và Điều 18 Thông tư 11/2015/TT-BKHCN, nhập khẩu song song là một trong những hình thức của hoạt động sở hữu trí tuệ [SHTT], theo đó, việc tổ chức, cá nhân nhập khẩu sản phẩm do chính chủ sở hữu hoặc tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền sử dụng, kể cả chuyển giao quyền sử dụng theo quyết định bắt buộc, người có quyền sử dụng trước đối tượng sở hữu công nghiệp đã đưa ra thị trường trong nước hoặc nước ngoài một cách hợp pháp, mặc dù không được sự đồng ý của chủ thể quyền sở hữu công nghiệp.

    Cũng theo Thông tư trên, tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi nhập khẩu song song không bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp và không bị xử phạt vi phạm hành chính.

  1. Về tính hợp pháp của việc nhập khẩu song song ô tô tại Việt Nam.

  • Căn cứ theo quy định về hết quyền SHTT đối với các đối tượng sở hữu công nghiệp [SHCN] – Điểm b Khoản 2 Điều 125 Luật SHTT 2005 [sửa đổi, bổ sung năm 2009] và Khoản 2 Điều 21 Nghị Định 103/2006/NĐ-CP, quy định rằng quyền của chủ sở hữu đối tượng SHCN bị hết khi thỏa mãn 2 điều kiện: sản phẩm đã được đưa ra thị trường [bất kể thị trường trong nước hay nước ngoài] và chủ thể đưa sản phẩm ra thị trường là chủ sở hữu đối tượng SHCN, người được chuyển giao quyền sử dụng [bao gồm cả người được chuyển giao quyền sử dụng sáng chế theo quyền định bắt buộc của cơ quan nhà nước có thẩm quyền], hoặc người có quyền sử dụng trước đối tượng sở hữu công nghiệp. Như vậy, Việt Nam hiện đang áp dụng nguyên tắc hết quyền quốc tế cho các đối tượng SHCN, tức là chủ thể nắm giữ quyền SHTT không còn quyền kiểm soát việc phân phối và khai thác thương mại trên toàn thế giới.

  • Bên cạnh đó, liên quan tới quy định về thủ tục nhập khẩu ô tô, theo Thông tư 28/2017 TT-BCT có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2018, các doanh nghiệp nhập khẩu ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống cũng sẽ không phải nộp bổ sung giấy chỉ định hoặc giấy ủy quyền là nhà nhập khẩu, nhà phân phối của chính hãng sản xuất loại ô tô đó. Điều này đồng nghĩa với việc nhập khẩu song song ô tô được xem là hoạt động hợp pháp và được thừa nhận tại Việt Nam.

Bài báo trướcThời gian thử việc theo quy định tại Bộ luật Lao động 2019

Bài tiếp theoNgười lao động chưa ký hợp đồng chính thức nghỉ đi phẫu thuật có được hưởng nguyên lương?

sblaw

Chủ Đề