Phương châm của đại hội đảng toàn quốc lần thứ xiii của đảng cộng sản việt nam là gì: *

Đại hội XIII của Đảng là sự kiện chính trị trọng đại nhất của Đảng và của dân tộc ta trong năm 2021.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng là sự kiện chính trị trọng đại nhất của Đảng và của dân tộc ta trong năm 2021, diễn ra từ ngày 25/1 đến 1/2/2021, tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình, Hà Nội, và đã thành công rất tốt đẹp, kết thúc sớm gần hai ngày so với kế hoạch. Sự thành công rất tốt đẹp của Đại hội thể hiện trên cả ba phương diện: Văn kiện, nhân sự và công tác tổ chức, phục vụ. Qua quá trình chuẩn bị và những ngày diễn ra Đại hội, có thể nêu lên 10 dấu ấn nổi bật sau đây:

[1] Đại hội XIII của Đảng có số lượng đại biểu đông nhất qua 13 kỳ Đại hội Đảng toàn quốc. Về dự Đại hội có 1.587 đại biểu chính thức thay mặt cho hơn 5,1 triệu đảng viên trong toàn Đảng, gồm 191 đại biểu đương nhiên, 1.381 đại biểu được bầu từ 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương và 15 đại biểu công tác ở ngoài nước được chỉ định, tăng 77 đại biểu so với Đại hội XII. Có gần 600 phóng viên báo chí trong nước và quốc tế theo dõi và đưa tin về Đại hội. [2] Cả trước, trong và sau Đại hội, Đảng ta đã nhận được gần 400 điện, thư chúc mừng của các tổ chức, cá nhân và bạn bè quốc tế, nhiều nhất trong 13 kỳ Đại hội Đảng toàn quốc [Đại hội XII, Đảng ta nhận được 253 điện, thư chúc mừng]. Điều đó thể hiện tình cảm tốt đẹp, tình đoàn kết hữu nghị và sự hợp tác, ủng hộ to lớn của nhân dân thế giới đối với nhân dân Việt Nam, đồng thời khẳng định vai trò, vị thế, uy tín ngày càng cao của Đảng và Nhà nước ta trên trường quốc tế. [3] Chất lượng và trình độ các mặt của đại biểu dự Đại hội rất cao. Trong số 1.587 đại biểu, hầu hết là cấp ủy viên các cấp, trong đó có 191 Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 1.295 cấp ủy viên cấp tỉnh và tương đương; 876 đại biểu đã được tặng thưởng Huân chương các loại; 412 đại biểu đã nhận Huy hiệu 30, 40, 45, 50 năm tuổi Đảng; 03 đại biểu là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; 95 đại biểu là Bộ trưởng, Thứ trưởng và tương đương; 87 đại biểu là đại biểu Quốc hội đương nhiệm. Có 1.579 đại biểu có trình độ cử nhân và cao cấp lý luận chính trị; 1.067 có trình độ thạc sĩ, tiến sĩ; 71 là Giáo sư, Phó giáo sư; 13 đại biểu là Nhà giáo ưu tú; 15 đại biểu là Thầy thuốc nhân dân, Thầy thuốc ưu tú.      [4] Chủ đề của Đại hội XIII vừa kế thừa, vừa bổ sung, phát triển Chủ đề của Đại hội XII, thể hiện đầy đủ, toàn diện, sâu sắc nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong thời kỳ phát triển mới của đất nước, được Đại hội nhất trí rất cao là: “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. [5] Trên cơ sở kế thừa và phát triển phương châm chỉ đạo của Đại hội XII, phương châm chỉ đạo của Đại hội XIII được xác định là: Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương - Sáng tạo - Phát triển. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội không chỉ đánh giá kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, mà còn đánh giá tổng quát tình hình đất nước qua 35 năm đổi mới và rút ra những bài học kinh nghiệm thực tiễn quý báu. Trên cơ sở đó, Đại hội không chỉ quyết định phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của cách mạng nước ta trong 5 năm tới, mà còn đề ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ của đất nước đến năm 2030, kỷ niệm 100 thành lập Đảng và tầm nhìn đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước. [6] So với Đại hội XII, số lượng các văn kiện được Đại hội thảo luận và thông qua nhiều hơn, phạm vi rộng hơn, nội dung phong phú, toàn diện, sâu sắc hơn. Đặc biệt, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII có Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng trong nhiệm kỳ Đại hội XII và khẳng định: “Kết quả của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng các nhiệm kỳ qua và nhiệm kỳ Đại hội XII đã góp phần quan trọng làm cho Đảng ta đoàn kết, thống nhất hơn; trong sạch, vững mạnh hơn; niềm tin của nhân dân đối với Đảng được củng cố, tăng cường hơn”. Đây là cơ sở để Đảng ta tiếp tục đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng trong nhiệm kỳ tới. [7] Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước qua 35 năm đổi mới, Đại hội khẳng định: “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới. Quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên. Đời sống nhân dân cả về vật chất, tinh thần được cải thiện rõ rệt. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Đây là niềm tự hào, là động lực và nguồn lực quan trọng để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững. Đại hội đã xác định mục tiêu đến năm 2025, nước ta là nước đang phát triển có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp; đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. [8] Công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIII được Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đặc biệt coi trọng về chất lượng, chỉ đạo chặt chẽ, nghiêm túc và tiến hành kỹ lưỡng, bài bản, khoa học theo quy trình 5 bước; bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch vì lợi ích của Quốc gia - Dân tộc. Công tác nhân sự được tiến hành theo trình tự: chuẩn bị nhân sự Trung ương trước, nhân sự Bộ Chính trị, Ban Bí thư sau và cuối cùng là nhân sự các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước; chuẩn bị nhân sự tái cử trước, nhân sự tham gia lần đầu sau và cuối cùng mới xem xét các trường hợp “đặc biệt”. Những trường hợp “đặc biệt” được Bộ Chính trị xem xét, cân nhắc kỹ lưỡng nhiều mặt theo quy trình dân chủ, chặt chẽ trước khi trình Trung ương xem xét, quyết định giới thiệu với Đại hội và Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII. [9] Với tinh thần đoàn kết, dân chủ, kỷ cương và trách nhiệm cao trước Đảng, trước nhân dân, Đại hội bầu một lần đủ 180 Ủy viên chính thức và 20 Ủy viên dự khuyết Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII với số phiếu tập trung cao, đúng với phương hướng công tác nhân sự do Ban Chấp hành Trung ương khóa XII chuẩn bị. Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII có 60% tái cử, 40% mới tham gia lần đầu; 19 đồng chí nữ, chiếm 9,5%; 100% có trình độ cử nhân, cao cấp lý luận chính trị và 100% có trình độ từ đại học trở lên. Ban Chấp hành Trung ương có 03 đội tuổi, trong đó gần 30% từ 50 tuổi trở xuống; 63% từ 51 đến 60 tuổi và 8% trên 60 tuổi. [10] Ngày 31/1/2021, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã bầu Bộ Chính trị gồm 18 đồng chí [1 đồng chí là nữ], trong đó có 8 đồng chí tái cử và 10 đồng chí mới; bầu Ban Bí thư gồm 5 đồng chí, trong đó có 1 đồng chí nữ; bầu Ủy ban Kiểm tra Trung ương gồm 19 đồng chí và đồng chí Trần Cẩm Tú được bầu lại là Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư khóa XII tiếp tục được bầu giữ chức Tổng Bí thư khóa XIII với số phiếu tập trung rất cao.

Nguyễn Đức Hà


    “Dân thụ hưởng” là một trong những điểm mới quan trọng của Văn kiện Đại hội XIII trong tổng thể phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

     Lấy dân làm gốc là bài học truyền thống trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Kế thừa và phát triển tinh hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, Hồ Chí Minh luôn chú trọng tầm quan trọng của việc lấy dân làm gốc trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Người từng nhấn mạnh: “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách... của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân nói chung”[1]. Người cũng đã đặt nền tảng tư tưởng cho phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” mà Đảng ta luôn quán triệt, vận dụng, phát triển ngày càng sâu sắc.

    Đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn 35 năm đổi mới, Văn kiện Đại hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã bổ sung một nội dung mới quan trọng và vô cùng ý nghĩa, đó là “Dân thụ hưởng”, với phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[2]. Điều này cho thấy, Đảng ta luôn chú trọng đặt quyền lợi của người dân vào trung tâm các quyết sách, đường lối của mình với mục đích cuối cùng là người dân được thụ hưởng thành quả. 

Đại hội XIII của Đảng là sự kiện chính trị trọng đại nhất của Đảng và của dân tộc ta trong năm 2021

    QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ THỰC HIỆN QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NGƯỜI DÂN 

    Khái niệm “dân thụ hưởng” thể hiện sự quan tâm thiết thực đến đời sống của người dân, nghĩa là người dân có quyền được thụ hưởng những thành quả của sự phát triển. Đồng thời, khi người dân được thụ hưởng, được thỏa mãn các lợi ích chính đáng, sẽ tạo thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi người hăng hái cống hiến, đóng góp nhiều hơn vào sự phát triển của xã hội. Mối quan hệ biện chứng giữa thụ hưởng và cống hiến nếu được thực hiện được đúng sẽ tạo ra một xung lực mới trong quá trình phát triển đất nước. Từ đó, hoàn thiện và hiện thực hóa thêm một bước tư tưởng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân

    Khi nói dân thụ hưởng nghĩa là đang nhấn mạnh việc thực hiện hóa nội dung “có làm có hưởng”. Đồng thời, nhấn mạnh đến sự bao trùm, đến đa số nhân dân, mọi giai cấp, mọi tầng lớp đều có cơ hội bình đẳng về mặt thụ hưởng thành quả của sự phát triển; chứ không chỉ là một số nhóm xã hội hay những tầng lớp có ưu thế hơn. Hơn thế, khi nói dân thụ hưởng không phải chỉ đơn thuần là Đảng muốn hướng đến ý nghĩa sâu xa, bao quát, mà đó chính là việc thỏa mãn các lợi ích chính đáng, đa dạng trong xã hội của người dân, để biến lợi ích trở thành động lực cho sự phát triển. Đây là sự phát triển trong nhận thức của Đảng, là động lực hoàn thiện các chủ trương, đường lối của Đảng trong tiến trình phát triển, lãnh đạo đất nước.

    Chúng ta thường nói nhiều đến quyền làm chủ của người dân, nhưng việc cụ thể hóa quyền đó với các quy định rõ ràng và cơ chế thực hiện hiệu quả thì vẫn còn có những hạn chế, bất cập. Điều này trải qua một quá trình phát triển nhận thức và hành động khá dài qua nhiều giai đoạn. 

    Đảng ta từ khi thành lập đến nay, trong tất cả các cương lĩnh đều lấy mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân, giải phóng giai cấp. Từ cương lĩnh lần thứ nhất, thứ hai, thứ ba rồi các văn kiện đại hội đều đặt nhân dân là mục tiêu để phấn đấu. Trong diễn văn tại lễ kỷ niệm 30 năm thành lập Đảng [3/2/1930 – 3/2/1960], Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ, “Đảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”[3]. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[4]. Đây chính là quan điểm chỉ đạo xuyên suốt trong đường lối lãnh đạo của Đảng ta. 

    Tại Đại hội VI [tháng 12/1986], Đảng ta nêu quan điểm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó là nền nếp hằng ngày của xã hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý Nhà nước của mình”[5]. Đại hội VIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ cần phải xây dựng cơ chế cụ thể trong thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước; thực hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân thông qua các cơ quan dân cử, làm chủ trực tiếp bằng hình thức tự quản, bảo đảm dân chủ trong quá trình ra quyết định và thực hiện các quyết định. 

    Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011] tiếp tục nhấn mạnh: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”, “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân”. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã nhấn mạnh: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến”[6]. Văn kiện Đại hội XII cũng khẳng định: “vai trò của nhân dân đã được phát huy trong việc bảo đảm việc thực thi thực chất, đầy đủ và rộng rãi quyền làm chủ của nhân dân theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”[7].

    Có thể thấy, việc bảo đảm phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta không chỉ được khẳng định trong chủ trương, đường lối của Đảng mà còn được thể chế hóa và bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Ngay ở Điều 1 Hiến pháp năm 1946 - bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo, đã khẳng định: “... Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái, trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức” [Ðiều 2], “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân” [Điều 3]...

    THỰC TIỄN THỰC HIỆN DÂN CHỦ THỜI GIAN QUA 

    Thời gian qua, nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ của các cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực. Công tác kiểm tra, giám sát được tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo đạt được những kết quả quan trọng. Thực hiện cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính có sự nỗ lực, sáng tạo đáng ghi nhận. Công tác đối thoại, tiếp công dân, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo và những kiến nghị, nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của người dân, doanh nghiệp được quan tâm, chú trọng hơn. Tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, đạo đức công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có nhiều tiến bộ. Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng, tổ hòa giải ở cơ sở nhiều nơi hoạt động khá hiệu quả, phát huy được dân chủ trực tiếp của nhân dân tại địa bàn dân cư.

    Nhà nước tạo những điều kiện thuận lợi để nhân dân nắm bắt các chủ trương, chính sách; nắm được những thủ tục hành chính giải quyết các công việc liên quan; biết được quy hoạch, kế hoạch của Nhà nước về sử dụng đất đai, dự toán, quyết toán ngân sách... Phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được cụ thể hóa trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

    Ở cơ sở, người dân đã chủ động bàn bạc, tham gia ý kiến, thực hiện quyền làm chủ, bày tỏ chính kiến của mình.… tạo khí thế phấn khởi, khích lệ các tầng lớp nhân dân đẩy mạnh các phong trào thi đua, góp phần đưa đất nước vượt qua khó khăn, giành được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân; bảo đảm quốc phòng, an ninh; xây dựng Đảng, chính quyền và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tạo sự đồng thuận trong xã hội, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân; nâng cao vị thế đất nước ta trên trường quốc tế.

    Bên cạnh những kết quả đạt được, trong mối tương quan so sánh với nhu cầu khách quan của sự phát triển đất nước, thực tiễn dân chủ ở Việt Nam vẫn còn có những hạn chế, bất cập, cả ở việc nhận thức, thực hành, phát huy dân chủ và giám sát và phản biện xã hội; chưa lý giải và làm sáng tỏ kịp thời nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra, chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ luật, kỷ cương; chưa coi trọng đúng mức phát triển các hình thức dân chủ trực tiếp.

    Công tác tuyên truyền, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hiện quy chế dân chủ ở một số địa phương, cơ quan, đơn vị chưa kịp thời và thực chất; nhiều nơi thực hiện còn mang tính hình thức, chậm trễ. Cơ chế công khai các nội dung liên quan ở nhiều địa phương, cơ sở còn chưa đầy đủ. Việc phát huy vai trò, trách nhiệm của nhân dân tham gia bàn và quyết định các vấn đề của địa phương, giám sát, góp ý xây dựng Đảng, chính quyền ở một số nơi còn thiếu thực chất. Việc thực hiện quy chế dân chủ trong các loại hình doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp ngoài nhà nước, khu vực dân doanh còn nhiều hạn chế, vướng mắc; có lúc, có nơi còn tình trạng vi phạm dân chủ, gây bức xúc, khiếu kiện đông người, vượt cấp. Việc nắm tình hình và xử lý các vi phạm quyền làm chủ của nhân dân chưa kịp thời. Số lượng đơn, thư khiếu nại, tố cáo của công dân gửi đến các cơ quan chức năng còn cao; việc giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo chưa được như mong muốn; chưa khắc phục được tình trạng chính quyền ở không ít nơi chưa đối thoại với công dân...

    Bên cạnh những bức xúc dẫn đến khiếu kiện, xuất phát từ tình trạng tiêu cực, quan liêu của bộ máy công quyền ở một số nơi, thì vẫn còn một bộ phận người dân lợi dụng dân chủ để yêu cầu, đòi hỏi không chính đáng, không đúng pháp luật, coi thường kỷ cương, phép nước, thậm chí bị các thế lực thù địch lợi dụng, lôi kéo tham gia biểu tình, gây rối, tụ tập đông người, làm mất an ninh, trật tự an toàn xã hội, vi phạm pháp luật. 

    Từ những hạn chế, bất cập nêu trên, có thể nói việc phát huy dân chủ ở không ít nơi vẫn còn mang tính hình thức. Theo đó, quá trình thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. 

    Khi việc thực hiện dân chủ còn những khiếm khuyết, thiếu thực chất và chưa đầy đủ, thì đó sẽ là một rào cản lớn đối với sự phát triển của đất nước. Đó còn là sự lãng phí nguồn lực nội sinh - không thể mở rộng cơ hội để huy động một cách triệt để, hiệu quả các nguồn lực, trước hết là trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân tham gia vào sự phát triển. Sự hạn chế về dân chủ còn khiến sức mạnh bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là sức mạnh tinh thần và văn hóa khó tránh khỏi bị phân tán, lãng phí.

    Nguyên nhân chính của những hạn chế, bất cập vẫn là do chưa thể chế hóa đầy đủ các quan điểm, chủ trương, phương châm của Đảng, chưa phát huy tối đa quyền làm chủ của người dân vào mọi “ngõ ngách” của đời sống, dẫn đến việc hiểu và thực hiện chưa thống nhất. 

    Nghị quyết Đại hội XIII đã bổ sung, cụ thể thêm một bước tư tưởng phục vụ nhân dân trong đường lối chủ trương của Đảng. “Dân hưởng thụ” chính là sự phát triển về chủ trưởng, quan điểm của Đảng, có ý nghĩa thiết thực, quan trọng. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “…trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm "dân là gốc"; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”[8]. Theo đó, xây dựng và phát huy nguồn lực con người là động lực quan trọng, yếu tố sống còn, có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước trong thời kỳ tới. Nói cách khác, nhân dân được thụ hưởng thành quả của quá trình phát triển không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực để khơi dậy sức mạnh và nguồn lực nhân dân trong quá trình đưa chủ trương quyết sách của Đảng vào cuộc sống. Đó cũng chính là động lực quan trọng để hiện thực hóa định hướng và tầm nhìn trong giai đoạn mới là khát vọng đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc.

    MỘT SỐ ĐỀ XUẤT, KIẾN NGHỊ

    Để “Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [bổ sung, phát triển năm 2011] và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”[9], đảm bảo người dân được thụ hưởng, cần chú trọng những yếu tố và điều kiện sau đây:

    Một là, để quan điểm, chủ trương “dân giám sát và dân thụ hưởng” của Đảng được thực hiện thắng lợi trong thực tiễn cần quyết tâm rất lớn từ nhận thức đến hành động của cả hệ thống chính trị. Nhận thức phải thống nhất từ trên xuống dưới, nhất là đối với cơ sở. 

    Phương châm “dân thụ hưởng” chỉ trở thành hiện thực khi mối quan hệ giữa người dân và chính quyền trở thành dịch vụ công ích minh mạch, chứ không phải “xin - cho” hay “ban phát”. Theo đó, cần có hướng dẫn, giao nhiệm vụ cho cấp ủy, tổ chính quyền các cấp; tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, các hội hợp pháp phối hợp chặt chẽ, hoạt động thuận lợi. Ban Dân vận cấp cơ sở tham mưu cho cấp ủy đảng các bộ ngành quan tâm rà soát, quán triệt và thực hiện nghiêm túc những nội dung liên quan đến phát huy quyền làm chủ của nhân dân, thực hiện quy chế dân chủ, đẩy mạnh phương châm “dân thụ hưởng”.

    Hai là, “mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”[10]. Thực hiện công bằng xã hội phải gắn kết chặt chẽ chính sách kinh tế với chính sách xã hội, phát triển kinh tế với nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, bảo đảm nhân dân được hưởng thụ ngày một tốt hơn thành quả của sự nghiệp đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật về chính sách xã hội, an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, tạo hành lang pháp lý để kiến tạo mô hình hệ thống an sinh xã hội với các trụ cột cơ bản [phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục rủi ro].

    Ba là, phải có chế tài cụ thể để đảm bảo điều kiện thực thi “dân giám sát, dân thụ hưởng”. Theo đó, nếu không làm hoặc làm sai thì phải chịu trách nhiệm. Thậm chí, nếu gây khó dễ cho vai trò giám sát, lợi ích của dân, gây ảnh hưởng đến lợi ích, quyền lợi chính đáng của dân thì phải bị xử lý trách nhiệm và đền bù thỏa đáng. Chỉ có như vậy mới khắc phục được tình trạng chế tài chưa đủ mạnh, chưa đủ tính răn đe; dẫn đến đường lối đúng, chủ trương hay nhưng lại bị “méo mó, biến dạng” khi đưa vào thực tiễn cuộc sống. 

    Cần phát huy quyền làm chủ của người dân gắn quyền lợi với trách nhiệm. Khuyến khích, nâng cao nhận thức cho người dân, tạo điều kiện thúc đẩy việc lắng nghe, trao đổi, đối thoại. Củng cố cơ chế khiếu nại, tố cáo cho hiệu quả. Cần có hình thức trọng tài bảo vệ quyền của người dân khi bị ảnh hưởng.

    Bốn là, bồi dưỡng, giáo dục, củng cố, phát huy năng lực, tư duy hiện đại và thái độ vì dân phục vụ, tận tụy và cống hiến của đội ngũ công chức, viên chức trong bộ máy công quyền. Cán bộ, công chức phải thực sự cầu thị, coi trọng ý kiến, phản ánh của người dân cũng như gần gũi, hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng và bức xúc của người dân để đối thoại, tiếp thu, phản hồi, xử lý nhanh nhạy, kịp thời và hiệu quả. “Dân thụ hưởng” phải được bắt đầu từ việc “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”[11] của đội ngũ công chức, viên chức. Đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị phải luôn thấm nhuần bài học: Đảng ta lấy lợi ích của nhân dân để định hướng mục tiêu lãnh đạo, lấy sự ủng hộ của nhân dân làm chỗ dựa cho hành động; lấy sự hài lòng của nhân dân làm thước đo kết quả.

    Năm là, tiếp tục đẩy mạnh có chất lượng việc sắp xếp tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả bộ máy hành chính, công quyền, trong đó tập trung: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước”[12]. Tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách, tăng cường phân công, phân cấp; mạnh dạn trao quyền tự chủ cho địa phương, cơ sở, nhấn mạnh trách nhiệm và phát huy sáng tạo của người đứng đầu. Bảo đảm sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ trên cơ sở “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước, và của cán bộ, công chức, viên chức”[13] để mọi người dân đều được thụ hưởng công bằng, bình đẳng.

    [1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2011, t.13, tr.164.

    [2] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, t.2, tr.249, 248.

    [3] [4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.402, 498.

    [5] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2011, tr.72-73.

    [6] [7] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2016, tr.38, 169.

    [8] [9] [10] [12] [13] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.1, tr.27-28, 172-173, 28, 118, 118.

TS.Nguyễn Ngọc Ánh

[Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh]

Theo Tạp chí Tuyên Giáo

Video liên quan

Chủ Đề