Tại sao gọi là ngân hàng nhà nước

Báo cáo giải trình một số vấn đề đại biểu quan tâm về dư địa chính sách tiền tệ [CSTT] và vấn đề lượng hóa CSTT, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, theo tinh thần của nghị quyết Trung ương, nghị quyết của Quốc hội, của Chính phủ và trong bài phát biểu khai mạc của Chủ tịch Quốc hội cũng đã nêu chương trình này là các chính sách bổ sung ngoài khung khổ kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm, cũng như thực hiện đề án tái cơ cấu của nền kinh tế trong 5 năm. Vì vậy, trong quá trình thiết kế chính sách, Chính phủ đã cân nhắc hết sức kỹ lưỡng và trên cơ sở đánh giá tổng thể dư địa của các chính sách trong các chương trình.

Theo đó, khi triển khai chương trình tái cơ cấu TCTD, trong đó có tái cơ cấu các ngân hàng yếu kém, Chính phủ đã trình các cấp có thẩm quyền cho sử dụng dư địa của CSTT. Bởi vậy trong chương trình này, dư địa CSTT ít và chủ yếu dựa vào chính sách tài khóa. Yêu cầu khi thực hiện chương trình này là phải đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế.

Thống đốc cho biết, khi thực hiện đưa tiền ra qua chính sách tài khóa, Chính phủ đã cân nhắc kỹ lưỡng để đảm bảo sự linh hoạt của CSTT. Do CSTT có bản chất là ngắn hạn nên NHNN sẽ theo dõi sát diễn biến của kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế và sẽ có sự điều chỉnh linh hoạt để làm sao đảm bảo được mục tiêu là thực hiện Chương trình nhưng vẫn đảm bảo được kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô.

Đối với vấn đề giảm lãi suất, Thống đốc cho biết, đây là vấn đề mà doanh nghiệp và đại biểu Quốc hội rất quan tâm. Ngành Ngân hàng cũng coi đây là một nhiệm vụ trọng tâm trong điều hành. Ngay sau khi dịch COVID-19 bùng phát, NHNN đã tập trung giảm nhanh 3 lần với lãi suất điều hành cũng như chỉ đạo các TCTD và điều tiết tiền tệ để giảm mặt bằng lãi suất cho vay trong năm 2020 khoảng 1%, năm 2021 tiếp tục giảm khoảng 0,8%.

Trên thực tế NHNN cũng động viên, khuyến khích, kêu gọi các TCTD miễn, giảm phí, giảm lãi vay và nhận được sự đồng thuận rất cao. Từ khi dịch COVID-19 bùng phát đến nay, toàn hệ thống các TCTD đã giảm cả lãi, cả phí khoảng gần 40.000 tỷ đồng từ chính nguồn tài chính của TCTD để hỗ trợ cho doanh nghiệp và người dân.

Theo Thống đốc, trong bối cảnh lạm phát trên thế giới có xu hướng gia tăng, các ngân hàng trung ương đã bắt đầu thu hẹp CSTT và tăng lãi suất, yêu cầu giảm mặt bằng lãi suất là một vấn đề “thực sự” khó khăn.Tuy nhiên, trong xây dựng Chương trình phục hồi này, Chính phủ cũng đã cân nhắc và để đưa ra một số giải pháp để phấn đấu hệ thống TCTD giảm từ 0,5 đến 1% lãi suất trong 2 năm.

Đối với gói hỗ trợ 40.000 tỷ đồng, Thống đốc Nguyễn Thị Hồng cho biết, trong quá trình điều hành, NHNN sẽ điều tiết làm sao để tạo thuận lợi cho TCTD có nguồn cung tín dụng, đáp ứng được nhu cầu cho gói này. Đặc biệt tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội trong quá trình triển khai Chương trình trong thời gian tới, trong quá trình hướng dẫn, NHNN cũng sẽ phối hợp với các bộ, ngành liên quan theo phân công của Chính phủ, tập trung vào xác định các đối tượng có trọng tâm, trọng điểm và khắc phục những hạn chế của những gói hỗ trợ trước - Thống đốc nhấn mạnh.

Về vấn đề huy động nguồn lực, Thống đốc cho biết, khi huy động nguồn lực thì chủ yếu là từ nguồn trong nước thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ. Điều này đòi hỏi sự phối hợp rất chặt chẽ của CSTT với tài khóa.

Liên quan đến tăng vốn điều lệ của Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam [Agribank], Thống đốc cho biết, việc tăng vốn cho Agribank cũng như các NHTM nhà nước có vốn nhà nước chi phối là rất cần thiết. Bởi so với các nước, tiềm lực vốn của các ngân hàng Việt Nam còn thấp. Trong những năm qua, các NHTM cổ phần đã tăng vốn điều lệ khá mạnh mẽ, nhưng các NHTM nhà nước có cổ phần chi phối tăng lên khiêm tốn. Do vậy, trong chương trình này cũng đặt ra vấn đề tăng vốn điều lệ cho các NHTM nhà nước để nuôi dưỡng nguồn thu.

Riêng đối với Agribank, Thống đốc cho biết, vì đây là ngân hàng 100% vốn của nhà nước. Theo quy định của pháp luật, đây thuộc dự toán thu, chi ngân sách, nên thuộc thẩm quyền của Quốc hội quyết định, còn các ngân hàng thuộc thẩm quyền Chính phủ nếu dưới 10.000 tỷ đồng. Nếu dưới 10.000 tỷ đồng thì trong thời gian tới, NHNN sẽ phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành để tổ chức triển khai hiệu quả theo đúng tiếp thu ý kiến của các đại biểu Quốc hội

[Nguồn: TBNH]

1. Mục tiêu hoạt động của Ngân hàng Trung ương Việt Nam

Một tổ chức sinh ra và tồn tại vì sứ mệnh, mục tiêu hoạt động của nó. Nếu mục tiêu hoạt động của một tổ chức không rõ, chắc chắn tổ chức đó không thể có một chiến lược phát triển đúng đắn và tất yếu việc điều hành hoạt động của tổ chức sẽ không tránh khỏi lúng túng, thụ động, sự vụ và mệnh lệnh hành chính. Do vậy, một việc hết sức quan trọng và trước tiên cần làm là phải xác định thật rõ ràng mục tiêu hoạt động của Ngân hàng Trung ương [NHTƯ] Việt Nam.

Khoản 3 Điều 1 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định: “Hoạt động của Ngân hàng Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các tổ chức tín dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Tuy nhiên, Luật chưa chỉ rõ thứ tự ưu tiên và mối quan hệ giữa các mục tiêu được đề cập. Hơn nữa, trên thực tế và trong ngắn hạn, việc thực hiện các mục tiêu này thường có xung đột.

Theo thông lệ quốc tế, luật NHTƯ của các nước thường xác định mục tiêu hoạt động cho NHTƯ của mình là: sự ổn định giá cả; ngoài ra, còn có các mục tiêu khác như ổn định/lành mạnh của hệ thống ngân hàng/ tài chính và hoạt động an toàn, có hiệu quả của hệ thống thanh toán. Vậy đối với NHTƯ Việt Nam, mục tiêu cần được xác định như thế nào?

2. Vị trí pháp lý và các thẩm quyền NHTƯ Việt Nam cần có để thực hiện được mục tiêu của mình

Khoản 1 Điều 1 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định: “Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan của Chính phủ và là NHTƯ của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Nhưng trên thực tế, Ngân hàng Nhà nước [NHNN] thường luôn được hiểu và đối xử chỉ như là một cơ quan ngang bộ/một cơ quan hành chính nhà nước, chịu sự quản lý, điều hành toàn diện cả về tổ chức và hoạt động của Chính phủ. Cũng như vậy, trách nhiệm lãnh đạo và điều hành NHNN được trao cho Thống đốc [theo quy định tại Điều 11 Luật NHNN]; tuy nhiên, những quyền hạn cần thiết để Thống đốc có thể chỉ đạo, tổ chức thực hiện một cách có hiệu lực, hiệu quả các nhiệm vụ của mình nhằm đạt tới mục tiêu hoạt động đã xác định, lại chưa đầy đủ hoặc còn bị hạn chế.

Vấn đề là: Để thực hiện được mục tiêu hoạt động đã xác định, NHTƯ Việt Nam cần phải có một vị thế như thế nào? Trong điều kiện thể chế chính trị của chúng ta, có nên đặt ra vấn đề NHTƯ phải độc lập với Chính phủ không? Mức độ độc lập? Có nên trực thuộc Quốc hội như Kiểm toán Nhà nước? Cùng với vị thế của mình, NHTƯ cần phải được trao những thẩm quyền gì? Cân bằng với những thẩm quyền được trao, NHTƯ Việt Nam có những nhiệm vụ và trách nhiệm nào? Cơ chế giám sát việc thực hiện các thẩm quyền, nhiệm vụ và trách nhiệm của NHTƯ như thế nào để đảm bảo sự hoạt động hữu hiệu của NHTƯ?

3. Xác lập cơ chế quản trị - điều hành - kiểm soát tại NHTƯ Việt Nam phù hợp với vị thế, mục tiêu và nhiệm vụ, quyền hạn mới của nó, hướng dần đến các chuẩn mực và thông lệ quốc tế

NHNN, xét về bản chất, trước hết là một ngân hàng – ngân hàng phát hành tiền, ngân hàng của Chỉnh phủ, đặc biệt là ngân hàng của các ngân hàng; NHNN có tư cách pháp nhân, có vốn pháp định, có bảng cân đối tài sản, có các nghiệp vụ kinh doanh sinh lời, mặc dù mục tiêu hoạt động của nó không phải vì lợi nhuận. Chính vì vậy, tổ chức và hoạt động của NHNN chịu sự điều chỉnh của một luật chuyên ngành là Luật NHNN, bên cạnh đó là Luật Tổ chức Chính phủ và một số văn bản dưới luật có liên quan như Nghị định 86/NĐ-CP, ...

Vấn đề là cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi Luật NHNN sao cho phản ánh được bản chất đặc thù, mục tiêu và các chức năng, nhiệm vụ, các hoạt động chủ yếu, cũng như thẩm quyền cần có của NHNN với tư cách là một NHTƯ, cho dù cơ quan này vẫn nằm trong bộ máy của Chính phủ hay trực thuộc Quốc hội. Tiếp đó, Luật sửa đổi cần thiết lập một khuôn khổ để vận hành cơ chế quản trị NHTƯ hiện đại [tách biệt và chuyên môn hoá giữa ba quyền: quản trị - điều hành - kiểm soát] phù hợp với các chuẩn mực, nguyên tắc và thông lệ quốc tế.

Cụ thể hơn, tên gọi của những cơ quan này là gì [Hội đồng NHTƯ/ Hội đồng chính sách tiền tệ quốc gia/ Hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia/ …; Ban/ Uỷ ban Kiểm toán nội bộ/ …]? Vị thế, thẩm quyền và trách nhiệm của chúng thế nào? Cơ chế làm việc và quan hệ phối hợp giữa chúng ra sao?

4. Cơ cấu lại các đơn vị tại Trụ sở chính, phát triển và đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công trong lĩnh vực hoạt động của NHTƯ nhằm tinh gọn bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của NHTƯ

Mặc dù việc phân định chức năng, nhiệm vụ giữa các Vụ, Cục, đơn vị đã được tiến hành nhiều lần, nhưng một số nhiệm vụ vẫn còn chồng chéo, trùng lắp, phân tán hoặc bỏ trống. Đặc biệt, do sự phối hợp còn yếu nên còn tình trạng có những công việc không biết giao cho ai hoặc có vụ việc không biết quy trách nhiệm cho ai. Một số đơn vị do chưa rõ chức năng, nhiệm vụ của mình, nên đã sa vào những công việc có tính sự vụ, ngắn hạn, trong khi lại bỏ qua những công việc trọng yếu có ý nghĩa lâu dài. Có những đơn vị hoặc bộ phận đang tập trung thực hiện những nhiệm vụ tình thế, trước mắt, không phải là những nhiệm vụ thuộc bản chất của NHTƯ và do đó, không mang tính ổn định lâu dài…

Vấn đề là: Những đơn vị nào cần được phát triển lên, tách ra hoặc được thành lập mới? Đơn vị nào cần phải điều chỉnh hoặc thu hẹp, thậm chí xem xét sáp nhập vào đơn vị khác? Có những loại dịch vụ công nào trong hoạt động của NHNN có thể xã hội hoá? Việc chưa tách bạch giữa hoạt động quản lý nhà nước với hoạt động cung ứng dịch vụ công của Cục Công nghệ tin học và Cục Phát hành – Kho quỹ có làm sao nhãng đi chức năng chính của các đơn vị này là quản lý nhà nước không? Một số công việc hiện Cục Quản trị đang đảm nhiệm có thể thuê từ các công ty dịch vụ bên ngoài không?

Những lĩnh vực hoạt động nào của NHTƯ cần được quan tâm thích đáng khi tiến hành điều chỉnh cơ cấu tổ chức bộ máy của NHNN để trở thành NHTƯ hiện đại [Thống kê, phân tích và dự báo; Hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ; Quản lý dự trữ ngoại hối nhà nước; Thanh toán; Quản lý và thanh tra giám sát hoạt động tổ chức tín dụng, tổ chức tài chính phi ngân hàng, …]?

Hướng sắp xếp lại nhóm các đơn vị sự nghiệp công có thu thuộc NHNN? Giải pháp có thể là: Nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về hoạt động, về tài chính, về quản lý và bố trí, sử dụng cán bộ; Khuyến khích phát triển và đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công trong lĩnh vực hoạt động của NHTƯ [hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học, cung ứng dịch vụ tin học, thông tin, báo chí chuyên ngành, một số dịch vụ công về lĩnh vực tiền tệ - kho quỹ, …]?

Trên cơ sở nhằm tổ chức thực hiện tốt hơn các mục tiêu hoạt động của NHTƯ thông qua việc tối ưu hoá được khả năng phối kết hợp giữa các đơn vị thuộc khối, cũng như khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn thông tin quản lý chung và các dịch vụ hỗ trợ khác, cần nghiên cứu hình thành các khối/ mảng/ lĩnh vực hoạt động nghiệp vụ tại Trụ sở chính sao cho hợp lý nhất?

5. Tăng cường tính hệ thống tập trung thống nhất của bộ máy NHTƯ bằng cách tổ chức, sắp xếp lại mạng lưới chi nhánh hiện có

Chi nhánh của NHNN được bố trí tại tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Hầu hết các đơn vị này có chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức giống nhau, mặc dù mỗi địa phương mang một đặc thù riêng, mức độ hoạt động kinh tế, hoạt động ngân hàng và từ đó yêu cầu đối với các dịch vụ của NHNN có khác nhau. Điều này đã làm cho bộ máy NHNN trở nên cồng kềnh, giảm tính tập trung thống nhất của toàn hệ thống và nguồn lực NHNN bị phân tán. Với xu hướng tập trung hoá các hoạt động thanh toán và thanh tra giám sát ngân hàng; hướng đổi mới hoạt động cung ứng tiền mặt và dịch vụ an toàn kho quỹ …, tổ chức và hoạt động của hệ thống chi nhánh sẽ có sự thay đổi căn bản theo hướng hình thành các chi nhánh khu vực, không phụ thuộc vào địa giới hành chính.

Vấn đề là: Các chi nhánh khu vực tương lai nên đặt tại những địa bàn nào? Vị thế và mối quan hệ của chúng với NHTƯ và với các đơn vị khác trực thuộc NHTƯ trên địa bàn? Những chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nào cần phải thu hẹp nhiệm vụ, quyền hạn, quy mô hoạt động và giảm bớt nguồn lực để dần sẽ trở thành Phòng giao dịch của chi nhánh khu vực hay văn phòng đại diện tỉnh? Những chi nhánh nào có thể tạm thời giữ nguyên? Ngược lại, những chi nhánh nào sẽ được mở rộng nhiệm vụ, quyền hạn, quy mô hoạt động và tăng cường nguồn lực để dần sẽ trở thành chi nhánh khu vực? Tiêu chí nào được sử dụng để phân các chi nhánh hiện có thành ba loại như nêu trên? Phương án xử lý cán bộ ra sao? Lộ trình thực hiện cải cách này như thế nào?

6. Hoàn thiện phương thức quản lý, điều hành tổ chức

Gần hai thập kỷ qua, chúng ta hầu như vẫn giữ nguyên phương thức quản lý cũ, trong khi tổ chức và hoạt động của NHNN đã có những sự thay đổi hết sức quan trọng. Môi trường hoạt động ngân hàng đang và sẽ tiếp tục thay đổi một cách mạnh mẽ và nhanh chóng, trực tiếp và gián tiếp đòi hỏi NHNN phải thay đổi phương thức quản lý, điều hành tổ chức của mình nhằm thích ứng với hoàn cảnh, điều kiện và yêu cầu nhiệm vụ mới. Vấn đề là mô hình quản lý nào nên được lựa chọn? “Quản lý chất lượng toàn bộ – Total quality management”/ “Quản lý theo mục tiêu – Management by objectives/ …? Những công cụ quản lý và những kỹ năng quản lý nào là cần thiết và hữu hiệu? …

Trên cơ sở cơ cấu tổ chức từng bước được hợp lý hóa, chúng ta nên chăng cần tiến hành chuyển dần hoạt động quản lý nhân sự còn thụ động, ngắn hạn và hướng nội hiện tại sang hoạt động quản trị nguồn nhân lực mang tính tổng thể và định hướng viễn cảnh; đồng thời, cần xây dựng và phát triển một mô hình quản lý mới [bao hàm cả mô hình quản trị nguồn nhân lực mới] để đáp ứng yêu cầu vận hành mô hình cơ cấu tổ chức mới trong khuôn khổ chiến lược tổng thể về phát triển NHTƯ Việt Nam?

TCNH

Video liên quan

Chủ Đề