trình ngôn ngữ và văn học, quá trình tâm lí và sư phạm, quá trình thông tin và
giao tiếp.
Theo tác giả Lê Phương Nga Đặng Kim Nga đã nêu ra trong cuốn
Phương pháp dạy Tiếng Việt ở tiểu học cho rằng: Đọc diễn cảm ở đây được
hiểu là đọc hay là một yêu cầu đặt ra khi đọc những văn bản văn chương hoặc
các yếu tố ngôn ngữ văn chương.
Còn theo tác giả Hà Nguyễn Kim Giang nêu ra trong cuốn Phương
pháp đọc diễn cảm, cho rằng: Đọc diễn cảm là làm nổi bật đặc điểm, cảm
xúc thẩm mĩ và đời sống tinh thần của tác phẩm, tạo ra mối quan hệ xúc động
riêng của người đọc với tác phẩm.
Từ những đặc điểm trên, đọc diễn cảm đã đảm bảo tính chân thực và
màu sắc của cá nhân trong cảm thụ, thể hiện được cái tinh thần và cái hồn của
bài văn. Đọc diễn cảm đã tận dụng được các hình thức biểu hiện của người
đọc, thống nhất được nội tâm và ngoại hình, từ đó chinh phục được người
nghe.
Vì vậy có thể hiểu ngắn gọn về đọc diễn cảm như sau:
Đọc diễn cảm là cách sử dụng giọng đọc có kèm theo cử chỉ, điệu bộ,
nét mặt để truyền đạt những ý nghĩ, tư tưởng, tình cảm của tác giả gửi gắm
trong tác phẩm và cả những ý nghĩ, thái độ, tâm trạng, cảm xúc của người đọc
đến với người nghe.
1.2.2. Bản chất của việc đọc diễn cảm
Việc đọc nói chung và đọc diễn cảm là biến hình thức chữ viết của văn
bản thành hình thức âm thanh của tiếng nói, là làm cho người nghe hiểu được
ý của người viết. Các nhà ngôn ngữ học đã đưa ra định nghĩa sau đây về đọc
diễn cảm. Đọc tức là biến hình thức chữ viết của văn bản thành hình thức
âm thanh của ngôn ngữ để làm cho người nghe hiểu được điều mà tác giả nói
qua chữ viết.
13
Chữ viết là một phương tiện ghi âm, dù hoàn mĩ đến đâu cũng chỉ ghi
âm một cách khái quát. Khi đọc người đọc phải lệ thuộc vào văn bản, nhưng
sự lệ thuộc này cũng không hạn chế được sự sáng tạo của người đọc. Một câu
thơ, câu văn dù giữ nguyên số câu chữ, dấu chấm câu cũng có năm, bảy cách
đọc. Về vấn đề này nhà văn A.P.Tsêkhôp trong truyện ngắn Những cảm xúc
mãnh liệt đã từng nói: Tôi dám chắc rằng một từ nào cũng có đến một nghìn
nghĩa và sắc thái khi xem xét từ góc độ nó được đọc lên như thế nào. Đọc là
sự phân tích, nắm bắt, đoán nhận kí hiệu.
Đọc diễn cảm cũng là một nghệ thuật có đặc điểm riêng, nó không lặp
lại người khác, không chỉ truyền đạt trung thành, máy móc bài văn mà còn ghi
đậm dấu ấn cá nhân. Đọc như thế sẽ gây được chấn động tâm hồn trên cơ sở
những mĩ cảm ngôn ngữ văn học và khả năng biểu diễn. Lối đọc này sẽ có
sức hấp dẫn, lôi cuốn người nghe và làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của
tác phẩm văn chương. Rõ ràng đọc diễn cảm mang đầy đủ tính nghệ thuật của
nó.
Đọc diễn cảm là hình thức đặc biệt của đọc văn chương. Đặc biệt nó
vượt qua việc đọc những tín hiệu ngôn ngữ, từ kí hiệu chữ viết sang kí hiệu
âm thanh tạo ra năng lực đọc văn.
Đọc diễn cảm là hình thức riêng của việc đọc văn có sự tham gia bổ
sung, hỗ trợ của năng lực diễn đạt bằng cử chỉ, điệu bộ, tâm thế, dáng vẻ,
giọng điệu, ngữ điệu, âm sắc, màu sắc của cảm xúc ngôn ngữ. Cho nên đọc
diễn cảm là một nghệ thuật. Nghệ thuật đọc diễn cảm đòi hỏi phải có một quá
trình rèn luyện lâu dài và liên tục.
Vấn đề mối quan hệ qua lại giữa đọc diễn cảm với đọc biểu diễn nghệ
thuật rất phức tạp vì ngay trong nghệ thuật biểu diễn đọc có hai khuynh
hướng: một số nghệ sĩ diễn xuất thiên về biểu diễn, một số khác lại sử dụng
phong cách của người kể chuyện.
14
Thế nhưng trong nghệ thuật đọc không phải chỉ có hai khuynh hướng
trên. Xuren Kotrarian viết: Cuộc sống của con người thể hiện ở nhiều tính
cách muôn vẻ khác nhau. Cũng như những tính cách đó được thể hiện dưới
nhiều hình thức đa dạng trong nghệ thuật của người diễn viên. tưởng tượng
và rung động, đọc suông và kể lại, nhập vai và biểu diễn, trong
cuộc sống tất cả những cái đó gắn chặt với nhau, ít khi gặp những cái riêng
biệt dưới hình thức nguyên dạng không biến hóa, và nếu như có trường hợp
đơn điệu nào đó thì nó sẽ dẫn đến sự buồn tẻ và chán ngắt.
Nếu như trong nghệ thuật biểu diễn đọc không khẳng định một
trường phái nào, thì trong việc đọc diễn cảm lại càng không cần khẳng định
nó. Chỉ có sự khác nhau là đặc điểm riêng biệt của nhà trường phổ thông đòi
hỏi các phương pháp đọc cần phải được xem xét từ góc độ thích hợp đối với
từng trường hợp cụ thể, có nghĩa là có tính đến thể loại, khuynh hướng văn
học, thế giới quan và tư tưởng của tác giả, mà còn từ góc độ sư phạm của
những tác phẩm đó và sự dễ hiểu của chúng đối với từng lứa tuổi học sinh.
Từ những điều trình bày trên ta có thể khái quát lại về bản chất của
đọc diễn cảm như sau:
+ Đọc diễn cảm là lao động sáng tạo
+ Là biểu diễn nghệ thuật đọc
+ Truyền đạt mọi cái hay cho người nghe
+ Phát huy màu sắc của tác phẩm
+ Đó là một phương pháp sư phạm và là một khoa học
1.3. Các cơ sở lí luận của đọc diễn cảm
1.3.1. Cơ sở ngôn ngữ học của đọc diễn cảm
1.3.1.1. Ngữ điệu của lời nói
Trong khi nói về nghệ thuật đọc, người ta thường xác định rằng đó là
nghệ thuật của ngữ điệu. Sự tồn tại của các ngữ điệu đa dạng khác nhau đã
15
cho phép người ta phân biệt lời nói diễn cảm với lời nói không diễn cảm.
Người nói cần phải biết sử dụng thành thạo những phương tiện không có
tính ngôn ngữ nhưng lại rất quan trọng về mặt tâm lí để biểu hiện ý nghĩ.
Trước hết đó là ngữ điệu. Thế nào là ngữ điệu? Theo định nghĩa của nhà tâm
lí học thì ngữ điệu của lời nói là hệ thống âm thanh của câu nói chung. Ngữ
điệu bao gồm tất cả các dấu hiệu âm thanh phức tạp: sự thay đổi của giọng nói
cơ bản, độ vang to, âm sắc, độ dài. Ngoài ra còn có những chỗ nghỉ hơi,
những chỗ ngắt câu. Ngữ điệu biểu thị mối quan hệ tình cảm, ý chí của con
người trong quá trình giao tiếp với nhau nhưng không phải tất cả những tính
chất quan trọng của ngữ điệu đều được xem là cơ sở của sự diễn cảm. Ngữ
điệu không những diễn tả mối quan hệ tình cảm, ý chí của con người mà còn
được xác định bởi những mối quan hệ đó. Chính mối quan hệ giao tiếp này đã
góp phần xác định ngữ điệu của người đọc, có thể sôi nổi hơn, đam mê hơn,
có thể gần gũi thống thiết, bi lụy, âu sầu hơnNgười bắt chước ngữ điệu, trở
nên nực cười bởi vì ngữ điệu xuất hiện tự nhiên nhờ mối quan tâm đầy đủ và
hiểu biết của người đọc với đặc trưng cơ bản của tác phẩm văn học.
Bởi vậy Ôzarôpxki đã phản đối sự tìm tòi các ngữ điệu. Còn Ginkin thì
viết Nếu ai đặt câu hỏi rằng làm thế nào để tìm tòi được ngữ điệu và có thể
học ngữ điệu đúng và hay được không thì có thể trả lời sẽ không có. Không
thể đọc ngữ điệu được cũng giống như không thể học khóc, học cười, học
sung sướng, học đau khổ. Ngữ điệu của lời nói tự bản thân nó sẽ đến với
chúng ta trong hoàn cảnh nhất định.
Chúng ta không nên nghĩ đến nó, không nên quan tâm đến nó. Nhưng
sẽ có phương pháp tìm kiếm ngữ điệu khi nhiệm vụ đọc một đoạn văn nào đó
đặt ra cho chúng ta chứ không phải chúng ta đặt ra cho nó.
1.3.1.2. Cơ sở về âm thanh của ngôn ngữ khi đọc
1.3.1.2.1. Chính âm
Mục đích của dạy đọc cần hướng tới là đọc diễn cảm đó cũng chính là
nội dung của luyện đọc thành tiếng. Đọc đúng được thì mới có đọc diễn cảm,
16
vì vậy đọc đúng trước hết là đọc đúng chính âm, để dạy đọc đúng chúng ta
cần có hiểu biết về chính âm.
Chính âm là các chuẩn mực phát âm của một ngôn ngữ có giá trị và
hiệu lực về mặt xã hội. Chính âm sẽ quy định nội dung luyện phát âm ở tiểu
học. Hiện nay, trong trường học chưa có văn bản quy định về chuẩn chính âm.
Điều này làm cho việc xác định nội dung đọc thành tiếng ở tiểu học gặp nhiều
khó khăn, không tránh khỏi những lúng túng khi xác định nội dung đọc đúng,
đọc diễn cảm.
Vấn đề đặt ra là phải giải quyết như thế nào những nét khác biệt trên
bình diện ngữ âm giữa các phương ngữ, một hiện tượng có liên quan trực tiếp
đến việc xác định chuẩn chính âm. Trong bốn thập kỉ nay, giới Việt ngữ học
có nhiều quan điểm khác nhau về chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt, trong đó ý
kiến cho rằng nên lấy phương ngữ Bắc Bộ [chuẩn là Thủ đô Hà Nội] làm cơ
sở để xác định chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt đồng thời bổ sung một số ngữ
âm tích cực của các phương ngữ khác. Đây là quan điểm được nhiều người
tán thành. Hiện nay trong trường học, một cách tự nhiên, hệ thống ngữ âm
được phản ánh trên chữ viết được coi là hệ thống ngữ âm chuẩn mực của
tiếng Việt hiện tại. Đó là cách phát âm lấy phương ngữ Bắc Bộ [tiêu biểu là
tiếng Hà Nội] bổ sung thêm ba phụ âm đầu của miền Trung, những âm được
biểu hiện trên chữ viết bằng các con chữ tr, s, r và hai vần ươu, ưu. Đây là
cách phát âm có sự khu biệt âm vị học tối đa của chữ viết để khắc phục những
âm đã mất đi hoặc đã bị biến dạng của tiếng địa phương.
1.3.1.2.2. Trọng âm
Trọng âm là độ vang và độ mạnh khi phát âm ra âm tiết [tiếng]. Dựa
vào sự phát âm một tiếng mạnh hay yếu, kéo dài hay không kéo dài, đường
nét thanh điệu rõ hay không rõ, người ta chia các tiếng thành chuỗi lời nói,
thành tiếng có trọng âm [là tiếng có trọng âm mạnh] và không có trọng âm
17
[tiếng có trọng âm yếu]. Trọng âm mạnh rơi vào các từ truyền đạt thông tin
mới hoặc có tầm quan trọng trong câu. Trọng âm yếu đi với các từ không có
hoặc có ít thông tin mới. Đây là căn cứ để chúng ta đọc rõ, nhấn giọng hay
kéo dài những từ quan trọng trong bài.
Loại từ và hư từ mang trọng âm yếu. Thực từ mới có trọng âm. Trong
câu mỗi ngữ đoạn [mà đường ranh giới là những chỗ ngắt, nghỉ] được kết
thúc bằng một trọng âm, trừ khi ngữ đoạn kết thúc bằng một ngữ khí từ. Đây
là căn cứ quan trọng để xác định chỗ ngắt nghỉ trong câu văn, câu thơ, cũng là
căn cứ để xác định những chỗ cần luyện ngắt giọng trong bài.
1.3.1.2.3. Hoạt động ngôn ngữ
Khoa học hiện đại coi ngôn ngữ là một trong những hình thức hoạt
động của con người hoạt động ngôn ngữ còn những lời nói riêng biệt được
gọi là những hành động nói năng. Trong khoa học nghiên cứu những loại
phát sinh, ngôn ngữ xuất hiện và phát triển như một phương tiện để thông
báo, một phương tiện dùng để tác động đến những người xung quanh. Khi
một đứa trẻ nói từ bố thì từ đó không những chỉ dùng để gọi một người nào
đó, mà còn muốn người đó làm cho một việc gì cụ thể. Tùy theo từng hoàn
cảnh cụ thể, từ bố có nghĩa là: Bố ơi, dạy con tập xe hay Bố ơi, đưa con
đi học
Mục đích rõ ràng của hoạt động lời nói được xác định bằng những cách
phân chia sự nhấn giọng trong câu, bởi tính đa dạng của ngữ điệu, bởi sắc thái
nhịp điệu của giọng, tức là bởi tất cả những phương tiện bởi lời nói diễn cảm.
Ngoài ra trong khi trả lời và trong khi học thuộc lòng, học sinh thường máy
móc hoặc đọc lúng túng. Thói quen này của học sinh cần phải được khắc
phục. Cần phải làm sao cho khi đọc bài văn, học sinh phải truyền đạt được nội
dung đã được tiếp thu một cách cụ thể [như tư tưởng, hình ảnh, sự đánh giá và
ý định của tác giả], làm cho người nghe có thể hiểu được những điều đã nói
18
trong văn bằng những hình ảnh cụ thể, nghĩa là làm cho người đọc giao tiếp
với người nghe một cách chân thực và có mục đích rõ ràng. Đây là một thủ
thuật rất quan trọng, có tính chất tích cực, một mặt nó nâng cao được tính linh
hoạt và diễn cảm của ngôn ngữ, mặt khác là cho người nghe thêm chú ý và dễ
ghi nhớ.
1.3.1.2.4. Ngôn ngữ và tư duy
Tư duy là một quá trình tâm lí, có tính xã hội về sự tìm tòi và phát
triển những cái mới, là quá trình phản ánh thực tiễn một cách gián tiếp và khái
quát trong quá trình phân tích và tổng hợp, tư duy gắn một cách hữu cơ với
ngôn ngữ.
Tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ đặc biệt trong quá trình hoạt động
của ngôn ngữ bên trong [ngôn ngữ câm]. Đặc điểm của nó là những cấu âm
ẩn kín mà từ đó những sự kích thích yếu ớt của vận động được chuyển vào
não để tư duy bình thường.
Thông thường người ta chia tư duy ra thành tư duy hình tượng và tư
duy khái niệm. Trong thực tế cả hai loại tư duy này có mối quan hệ lẫn nhau.
Nó có liên quan đến một quá trình rất quan trọng đối với sự sáng tạo đó là
sự tưởng tượng.
1.3.1.2.5. Tính hình tượng của ngôn ngữ
Tưởng tượng là sự sáng tạo ra một hình ảnh, một khái niệm, một tư
tưởng mới, sau đó chúng được thể hiện vào sự vật hoặc trong hoạt động thực
tiễn. Trong lĩnh vực đọc diễn cảm thì đó là sự sáng tạo hình tượng hay khái
niệm được thể hiện bằng lời nói. Không có tưởng tượng thì không có một sự
sáng tạo nghệ thuật nào. Cơ sở sinh lí học của tưởng tượng là sự hình thành
những tổ hợp mới trên cơ sở những liên kết tạm thời được hình thành trong
những kinh nghiệm cũ. Vì vậy kinh nghiệm càng phong phú thì càng có nhiều
khả năng để tưởng tượng. Sự quan sát tất cả các hiện tượng có trong cuộc
19
sống là nền tảng của tưởng tượng. Tưởng tượng khác với quá trình ghi nhớ
bình thường ở chỗ hình ảnh thu nhận được nhờ những liên kết mới là hình ảnh
chưa có trong kinh nghiệm của chúng ta. Thiếu đi những yếu tố cần thiết
trong trí nhớ của người nói hay người tiếp thu thì sẽ gây khó khăn cho sự nảy
sinh hình tượng. Đó cũng là khó khăn của học sinh trong khi tiếp thụ văn học
cổ điển trước cách mạng.
Khi chúng ta đọc hay nghe một tác phẩm văn học, nếu như chúng ta
không nỗ lực gắng hết sức thì các hình tượng sẽ xuất hiện trong trí tưởng
tượng của chúng ta một cách tùy tiện. Hơn nữa những hình tượng đó có tính
chính xác và rõ ràng ở các mức độ khác nhau. Người đọc hay người kể cần
phải cố gắng gợi ra một cách có ý thức trong tưởng tượng của người nghe
những hình tượng cụ thể và rõ ràng hoặc như người ta thường gọi chúng là
năng lực nhìn thấy. Nhưng điều đó chỉ thấy được khi chính bản thân người
nói hay người đọc nhìn thấy một cách cụ thể và rõ ràng tất cả những gì mà
mình kể ra. Trong trí tưởng tượng của người đọc hay người kể chuyện cần
phải đưa ra một cuốn phim về các hình ảnh tưởng tượng mà người đọc sẽ mở
ra trước mặt người nghe.
Với ý nghĩa trên chúng ta cần phải ghi nhớ lời khuyên của
K.X.Xtanhixlapxki không phải nói vào tai, mà phải nói vào mắt. Quá trình
tưởng tượng sẽ mở rộng kinh nghiệm cá nhân của người nói và người nghe.
Tưởng tượng có một ý nghĩa rất lớn trong việc tổ chức và thực hiện hoạt
động, và chính bản thân sẽ được hình thành trong các hình thức hoạt động
khác nhau, trong đó có cả việc đọc tác phẩm văn học nghệ thuật.
1.3.1.2.6. Tính biểu cảm của của lời nói và của việc đọc diễn cảm
Đôi khi thầy giáo thường bảo học sinh: Hãy đọc cho có tình cảm
mà không biết rằng mình đã đặt ra cho học sinh một nhiệm vụ không thể nào
thực hiện được và đã đẩy học sinh vào con đường bắt chước một cách giả tạo.
Lĩnh vực cảm xúc là lĩnh vực không chịu sự ra lệnh trực tiếp.
20
Phản ứng tình cảm của con người là một hành động phản xạ phức tạp
trong đó bao gồm nhiều yếu tố vận động và sinh dưỡng kết hợp hữu cơ với
nhau. Cảm xúc nảy sinh khi có nhu cầu và có những hoạt động để thỏa mãn
nhu cầu.
Vai trò quyết định trong sự khởi động của các phản ứng tình cảm là ở
vỏ bán cầu đại não, ở đó xuất hiện sự liên kết các tín hiệu bắt nguồn từ các bộ
phận bên trong cơ thể với những tín hiệu vận động. Như vậy tình cảm cũng
như những quá trình tâm lí khác do trung tâm của não bộ điều khiển. Tình
cảm của con người thể hiện trong những hành động vận động muôn vẻ như
điệu bộ, cử chỉ, những sự vận động của cơ thể và những sự thay đổi của giọng
nói, lời nói. Sự thay đổi này không phải lấy ý chí để dập tắt. Nó mang tính tự
nhiên. Nói như Ximônôp Trong đọc diễn cảm thì hệ thống cảm xúc cá nhân
có được nhờ tương giao với tác phẩm văn học, phải chiếm ưu thế hơn hệ
thống khái niệm.
Muốn đọc cho được tình cảm thì phải truyền đạt được tình cảm, như một
nhà tâm lí học đã nói: không thể ra lệnh cho tình cảm mà phải đi đến tình cảm
bằng nhiều con đường khác nhaukhi trạng thái tâm lí có khả năng làm nảy
sinh mối quan hệ tình cảm của con người đối với các hiện tượng xung quanh
xuất hiện thì mối quan hệ biểu cảm được tạo nên và đó sẽ là cảm xúc.
1.3.2. Cơ sơ giao tiếp của đọc diễn cảm
Từ diễn cảm có chứa một ý nghĩa là diễn xuất, là thể hiện ra bên ngoài
những cảm xúc.
Giao tiếp hằng ngày đòi hỏi phần lớn phải sử dụng ngôn ngữ nói và
những yếu tố phi ngôn ngữ như: ánh mắt, nụ cười, nét mặt, lắc đầu, thở
dài,Những sự xúc cảm đó chỉ sinh ra trong tình huống giao tiếp và trong
mục đích giao tiếp. Nó bắt nguồn từ ý đồ chủ quan của ngôn ngữ giao tiếp [có
21
ngôn ngữ phát tin và người nhận]. Đó là xúc cảm tự nhiên và cục bộ thực
dụng theo mục đích giao tiếp.
Đọc diễn cảm cũng là hình thức giao tiếp, nó nhắm tới đối tượng nghe
mình đọc. Nguồn xúc cảm trong khi đọc văn là nguồn xúc cảm thẩm mĩ phát
sinh từ hai chủ thể: chủ thể nhà văn gửi trong tác phẩm với thế giới tâm hồn
xúc động và thế giới thẩm mĩ cảm nghệ thuật của tác phẩm. Ngôn ngữ đọc
khác với ngôn ngữ nói ở chỗ nó chịu sự chi phối của văn bản [nghĩa văn bản
đến nghệ thuật văn bản đến ý tưởng, nội dung tư tưởng tác giả tiềm ẩn sâu
trong văn bản hoặc tác phẩm].
Lời nói hằng ngày tự nhiên cũng có những thuộc tính như diễn cảm,
tạo hình, đôi khi cả tính hình tượng. Giao tiếp hàng ngày chỉ là đơn nghĩa như
vậy, chỉ là phẩm chất thẩm mĩ do liên tưởng so sánh hàng ngày mà có.
Ngôn ngữ hình tượng phải trải qua tưởng tượng để tạo ra hình ảnh, nó
có giá trị thẩm mĩ [không chỉ là thuộc tính phẩm chất như ở lời nói giao tiếp].
Song vấn đề là ở mối tương quan giữa các chức năng. Chức năng chủ yếu
quyết định trong tất cả các phong cách ngôn ngữ vẫn là chức năng giao tiếp.
Những phẩm chất thẩm mĩ trong giao tiếp hàng ngày nếu có cũng chỉ đóng
vai trò phụ thuộc thứ yếu. Còn trong ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm văn học
thì chức năng thẩm mĩ xuất hiện ở bình diện thứ nhất, nó đẩy chức năng giao
tiếp xuống bình diện thứ hai.
Sự phản ánh thế giới trong tác phẩm văn học đi đôi với sự hư cấu
trong sáng tạo nghệ thuật cho nên từ đó nảy sinh ra khả năng thông tin kép
vừa hướng vào khách thể thẩm mĩ của tác phẩm văn học, vừa hướng vào tác
giả [chủ thể sáng tạo], hướng về những đặc điểm trong cách quan sát, cảm thụ
chiếm lĩnh và diễn tả thế giới đời sống trong tác phẩm của tác giả. Quan niệm
nghệ thuật của chủ thể nhà văn về thế giới hiện thực làm nên nội dung quan
niệm trong tác phẩm văn học hay còn gọi là hạ văn bản. Đọc diễn cảm phải
chú ý đến nội dung tư tưởng của nhà văn gửi gắm trong tác phẩm.
22
Đọc diễn cảm cho một đối tượng nghe về một số đối tượng thẩm mĩ.
Phải tạo dựng được mối quan hệ khăng khít với tác phẩm và với người nghe.
Do đó có hai công đoạn: cảm thụ + hiểu biết tác phẩm và truyền thụ + hiểu
biết người nghe.
Vì vậy để đọc diễn cảm tốt cần phải thực hiện việc đọc diễn cảm trong
các giờ văn học giúp cho việc cảm thụ, tiếp nhận văn học tốt hơn, giúp hiểu
sâu sắc nghệ thuật viết văn tạo ra sức hấp dẫn và hiệu quả dạy văn. Việc đọc
diễn cảm trong quá trình dạy tiếng Việt làm cho các em thấy rõ sự phong phú
và khả năng vận dụng ngôn ngữ dân tộc vào các lĩnh vực. Qua đó các em thấy
rõ mối quan hệ đồng bộ, hệ thống, cụ thể của tiếng mẹ đẻ.
1.3.3. Cơ sở sinh lí học và tâm lí học của đọc diễn cảm
Muốn giải quyết vấn đề cần phải dạy đọc diễn cảm cho ai, nhất thiết
phải chú ý đến vấn đề tâm lí học và sinh lí học. Thực tế trong các giờ dạy đọc
hiện nay cho thấy chỉ có thể dạy đọc một cách diễn cảm cho một số học sinh
có năng khiếu mà thôi. Nhà trường hiện nay là nhà trường chung cho tất cả
con em chúng ta và chưa có một văn bản nào đưa ra vấn đề chia học sinh ra
làm hai loại: loại có năng khiếu và loại không có năng khiếu. Nhưng thực tế
trong giờ thực hành lại có sự phân chia đó. Thường thường một lớp học chỉ
một số em biết đọc diễn cảm, còn đa số các em khác thì không biết đọc diễn
cảm và thầy cô giáo cũng chỉ chú trọng tới một vài em có năng khiếu đó.
Vì vậy một vấn đề cấp bách được đặt ra là có thể đọc diễn cảm cho tất
cả các em học sinh được không, và có cần thiết phải làm điều đó không ?
Khoa học hiện đại đã phân tích các hiện tượng như khả năng, năng khiếu,
thiên tài, trực giác và khí chất như thế nào.
Không nên phủ nhận một sự thật là có những trẻ em có năng khiếu và
những học sinh không có năng khiếu. Tâm lí học hiện đại thừa nhận có sự
khác nhau về năng lực của học sinh, nhưng không cho điều đó là hiện tượng
23