Tiểu luận hệ thống ngân hàng Việt Nam

đánh giá qui mô:

Tính đến tháng 08/2010 cả nước có 5 ngân hàng quốc doanh, 39 ngân hàng cổ phần, 11 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên doanh .Như vậy số lượng ngân hàng cổ phần có tăng nhưng tăng rất ít, số lượng ngân hàng nước ngoài và liên doanh đang giảm dần đi từ 44 xuống còn 11 ngân hàng.Tất cả những điều này cho thấy thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam luôn có sự thay đổi .

Quy mô vốn chủ sở hữu của NHTM VN hiện nay còn rất thấp. NHTMNN là nhóm ngân hàng có quy mô vốn tương đối cao trong toàn hệ thống cao nhất là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn [vốn điều lệ là 20.708 tỷ đồng].

Bạn đang xem nội dung tài liệu Tiểu luận Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

CHÀO MỪNG CÁC BẠN ĐẾN VỚI BÀI THUYẾT TRÌNH CỦA NHÓM 2 CHỦ ĐỀ: HỆ THỐNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM NGUYỄN THỊ MINH TUYẾT NGUYỄNTHỊ KIỀU OANH PHẠM VĂN HẬU NGUYỄN THỊ HOÀ ĐINH THỊ MỸ PHƯỢNG HÀ THỊ KIM DOANH NGUYỄN THỊ ĐÔNG LÊ TÔ LAN PHƯƠNG PHẠM THU THẢO TRẦN THỊ THÙY NỘI DUNG NHTM là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật. [Nghị định số 59/2009/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của NHTM] 1. KHÁI NIỆM Theo Luật Ngân hàng nhà nước: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán. 1. KHÁI NIỆM II. CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. Chức năng trung gian tài chính - Trung gian tín dụng - Trung gian tài chính Huy động vốn Cấp tín dụng Cho vay trực tiếp trong nền kinh tế 2. Chức năng tạo tiền: Là chức năng sáng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng khối tiền tệ cho nền kinh tế. Từ khoản tích trữ ban đầu, thông qua hành vi cho vay bằng chuyển khoản, hệ thống ngân hàng thương mại có khả năng tạo nên số tiền gửi [tức tiền tín dụng] gấp nhiều lần số dự trữ tăng thêm ban đầu. II. CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI II. CHỨC NĂNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3. Chức năng sản xuất Bao gồm việc huy động và sử dụng các nguồn lực để tạo ra sản phẩm và dịch vụ ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế. Ngân hàng thương mại nhà nước: NHTM nhà nước là NHTM do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức hoạt động kinh doanh, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế của nhà nước. Quản trị NHTM nhà nước là hội đồng quản trị do thống đốc ngân hàng nhà nước bổ nhiệm, miễn nhiệm sau khi thõa thận với ban tổ chức-cán bộ của chính phủ. Điều hành hoạt động của NHTM là tổng giám đốc. Giúp việc cho tổng giám đốc là phó giám đốc, kế toán trưởng và bộ máy chuyên môn nghiệp vụ. III. PHÂN LOẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI b. Ngân hàng thương mại cổ phần: NHTM Cổ phần là ngân hàng được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần.Vốn do các cổ đông đóng góp, trong đó có các doanh nghiệp nhà nước, tổ chức tín dụng, tổ chức khác và các cá nhân cùng góp vốn theo quy định của ngân hàng nhà nước III. PHÂN LOẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI III. PHÂN LOẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI c. NHTM liên doanh: Được thành lâp bằng vốn góp của bên ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Ngân hàng liên doanh là một pháp nhân Việt Nam, hoạt động theo giấy phép thành lập và theo các quy định liên quan của pháp luật PHÂN LOẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI d. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: Là ngân hàng được lập theo pháp luật nước ngoài, được phép mở chi nhánh tại Việt Nam, hoạt động theo pháp luât Việt Nam. Loại hình này xuất hiện ngày càng nhiều kể từ khi Việt Nam đổi mới và hội nhập kinh tế. IV.ĐÁNH GIÁ QUI MÔ VÀ KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NHTM đánh giá qui mô: Tính đến tháng 08/2010 cả nước có 5 ngân hàng quốc doanh, 39 ngân hàng cổ phần, 11 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và liên doanh .Như vậy số lượng ngân hàng cổ phần có tăng nhưng tăng rất ít, số lượng ngân hàng nước ngoài và liên doanh đang giảm dần đi từ 44 xuống còn 11 ngân hàng.Tất cả những điều này cho thấy thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam luôn có sự thay đổi . Quy mô vốn chủ sở hữu của NHTM VN hiện nay còn rất thấp. NHTMNN là nhóm ngân hàng có quy mô vốn tương đối cao trong toàn hệ thống cao nhất là ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn [vốn điều lệ là 20.708 tỷ đồng]. IV.ĐÁNH GIÁ QUI MÔ VÀ KHẢ NĂNG SINH LỜI CỦA NHTM Đánh giá khả năng sinh lời: Hiệu quả hoạt động kinh doanh và khả năng sinh lời của hệ thống ngân hàng Việt Nam chưa tương xứng với mức độ gia tăng rủi ro và quy mô hoạt động, đồng thời ở mức thấp so với các ngân hàng trong khu vực. Tính đến cuối năm 2009, lợi nhuận toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam đạt 29.241 tỷ VND, tăng khoảng 3,7 lần so với năm 2005 [7.984 tỷ VND]. Chi phí hoạt động của khu vực ngân hàng cũng tăng lên tương ứng [hơn 90% năm 2009]. Sự tăng lên tương ứng giữa thu nhập và chi phí phản ánh sự ổn định về lợi nhuận của hệ thống ngân hàng. Về hiệu quả hoạt động, tỷ lệ bình quân lợi nhuận ròng sau thuế so với tổng tài sản mặt dù tăng đều qua các năm [lên tới 1,2% cuối 2009], nhưng vẫn còn thấp so với một số nước Châu Á mới nổi như Indonesia TB 2%, Singapore TB 1,4 %, Malaysia, Philippines TB 1,5%. v. PHÂN TÍCH ĐIỂM MẠNH, ĐIỂM YẾU Điểm mạnh Có hệ thống mạng lưới, chi nhánh rộng khắp Am hiểu về thị trường trong nước. Đội ngũ khách hàng của NHTM Việt Nam khá đông đảo. Chiếm thị phần lớn về hoạt động tín dụng, huy động vốn và dịch vụ. Đội ngũ nhân viên tận tuỵ, ham học hỏi và có khả năng tiếp cận nhanh với các kiến thức, kỹ thuật hiện đại. Có được sự quan tâm và hỗ trợ đặt biệt từ phía NHTW. Môi trường pháp lý thuận lợi. Hầu hết đều đang thực hiện hiện đại hoá ngân hàng v. PHÂN TÍCH ĐIỂM MẠNH, ĐIỂM YẾU Quy mô vốn của các NHTM còn nhỏ nên chưa thực hiện được mục tiêu kinh doanh hoàn chỉnh. Năng lực quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế so với yêu cầu của NHTM hiện đại, bộ máy quản lý cồng kềnh kém hiệu quả. Sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng, chưa đáp ứng được nhu cầu toàn diện của khách hàng Chính sách xây dựng thương hiệu còn kém. Chất lượng nguồn nhân lực kém, chính sách tiền lương chưa thoả đáng. Các tỷ lệ về chi phí nghiệp vụ, khả năng sinh lời của các NHTM Việt Nam đều thua kém ngân hàng các nước trong khu vực. Thiếu sự liên kết giữa các NHTM với nhau. Lĩnh vực kinh doanh chủ yếu là tín dụng, nợ quá hạn cao, nhiều rủi ro. Hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ nhất quán. Việc thực hiện chương trình hiện đại hoá NHTM VN chưa đồng đều.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • 307_tong_quan_ve_nhtm_day_la_slide_ne.ppt

Tóm tắt nội dung tài liệu

  1. Tiểu luận: Thực trạng của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam 1
  2. MỤC LỤC Lời mở đầu................................ ................................ ............................... 1 Mục lục ................................ ................................ ............................. .2 Nội dung: thực trạng và giải pháp ................................ .......................... .5 I. Vốn và các vấn đề về vốn ................................ ................................ ..... .5 1. Vốn tự có ................................ ................................ ............................. .5 1.1. Tổng quan................................ ................................ ........................... .5 1.2. Thực trạng ................................ ................................ .......................... .6 1.3. Giải pháp ................................ ................................ ............................ 11 1.3.1. Đối với NHTM ................................ ................................ ................ 11 1.3.2. Đối với ngân hàng nhà nước. ................................ ........................... 11 2. Vốn pháp định ................................ ................................ ....................... 12 2.1. Khái niệm ................................ ................................ ........................... 12 2.2. Thực trạng ................................ ................................ .......................... 12 2.3. Ứng xử NHTM ................................ ................................ ................... 13 3. Huy động vốn và lãi suất huy động vốn ................................ ................. 13 3.1. Thực trạng ................................ ................................ .......................... 13 3.2. Nguyên nhân ................................ ................................ ...................... 17 3.3. Giải pháp ................................ ................................ ............................ 18 4. Cổ phiếu và trái phiếu ................................ ................................ ............ 19 4.1. Cổ phiếu ................................ ................................ ............................. 19 4.1.1. Thực trạng ................................ ................................ ....................... 19 4.1.2. Giải pháp ................................ ................................ ......................... 20 4.2. Trái phiếu ................................ ................................ .......................... 20 4.2.1. Khái niệm trái phiếu ................................ ................................ ........ 20 4.2.2. Thực trạng ................................ ................................ ....................... 21 4.2.3. Giải pháp ................................ ................................ ......................... 21 II. Hoạt động tín dụng của ngân hàng ................................ .................... 22 1. Rủi ro tín dụng................................ ................................ ....................... 22 1.1. Khái niệm chung................................ ................................ ................. 22 1.1.1. Tín dụng, tín dụng ngân hàng................................ ........................... 21 2
  3. 1.1.2. Rủi ro tín dụng ................................ ................................ ................. 21 1.2. Rủi ro gắn với hoạt động của ngân h àng thương mại .......................... 22 1.2.1. Các hình thức rủi ro tín dụng ................................ ........................... 22 1.2.2. Các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng ................................ ......... 23 1.2.2.1 Nguyên nhân từ phía khách hàng ................................ ................... 23 a. Khách hàng gian lận, cố ý lừa ngân hàng ................................ ............... 23 b. Khách hàng không gian lận................................ ................................ .... 23 1.2.2.2. Nguyên nhân từ phía ngân hàng ................................ .................... 23 1.2.2.3. Nguyên nhân từ môi trường kinh doanh ................................ ........ 24 a. Môi trường kinh tế ................................ ................................ ................. 24 b. Môi trường pháp lý ................................ ................................ ................ 24 1.2.2.4. Nguyên nhân từ môi trường xã hội................................ ................ 25 1.3. Giải pháp hạn chế, phòng ngừa rủi ro tín dụng................................ .... 25 1.3.1. Nghiên cứu khách hàng ................................ ................................ ... 25 1.3.2. San sẻ rủi ro ................................ ................................ ..................... 26 1.3.3. Thực hiện bảo đảm rủi ro tín dụng ................................ ................... 26 1.3.4. Giám sát và cưỡng chế thi hành những quy định hạn chế ................. 27 1.3.5. Hạn chế tín dụng ................................ ................................ .............. 27 1.3.6. Đa dạng hóa đầu tư ................................ ................................ .......... 27 2. Lợi nhuận thu được của các ngân hàng thương mại ............................... 27 III. Dịch vụ chăm sóc khách hàng ................................ .......................... 28 1. Dịch vụ ngân hàng qua Internet ................................ ............................ 29 2. Dịch vụ thẻ ATM ................................ ................................ ................. 30 IV. Mạng lưới ................................ ................................ .......................... 31 1. Mạng lưới NHTM ở Việt Nam ................................ .............................. 31 2. Giải pháp cho hệ thống NHTM ở Việt Nam................................ ........... 38 V. NHTM VN cạnh tranh với NHTM nước ngoài ................................ . 39 1. Việt Nam gia nhập WTO: cơ hội và thách thức................................ ...... 39 2. Cạnh tranh với NHTM NNg: thách thức lớn đối với NHTM VN ........... 41 2.1. Năng lực tài chính................................ ................................ ............... 41 2.2. Năng lực công nghệ ................................ ................................ ............ 43 3
  4. 2.3. Nguồn nhân sự................................ ................................ .................... 43 2.4. Năng lực quản lý điều hành ................................ ................................ 44 2.5. Mạng lưới hoạt động................................ ................................ ........... 44 2.6 Mức độ đa dạng hóa sản phẩm ................................ ............................. 44 3. Giải pháp cạnh tranh ................................ ................................ .............. 45 3.1. Tiếp tục tăng cường năng lực tài chính ................................ ............... 45 3.2. Tiếp tục đầu tư đổi mới công nghệ ngân hàng ................................ ..... 46 3.3. Chú trọng chiến lược phát triển nguồn nhân lực................................ .. 47 3.4. Tăng cường năng lực quản trị điều hành theo tiêu chuẩn quốc tế ........ 47 3.5. Mở rộng mạng lưới ngân hàng, đa dạng hóa sản phẩm........................ 48 3.6. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về tiền tệ NH và dịch vụ NH ............... 48 Kết luận…………………………………………………………………….50 4
  5. LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng thương mại[ NHTM] là một chủ đề hiện đang được rất nhiều người quan tâm nghiên cứu trong thời gian qua. Nhưng trước tiên chúng ta cần hiểu NHTM là gì? Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của Ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu. Ngân hàng thương mại là loại hình Ngân hàng xuất hiện đầu tiên và phổ biến nhất hiện nay. Hơn 20 năm sau khi đổi mới đất nước, hệ thống Ngân hàng Thương mại đã góp vai trò không nhỏ trong sự phát triển nền kinh tế nước nhà: Thứ nhất, đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, từng bước duy trì sự ổn định giá trị đồng tiền và tỉ giá, góp phần cải thiện kinh tế vĩ mô, môi trường đầu tư và sản xuất kinh doanh. Thứ hai, góp phần thúc đẩy hoạt động đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và hoạt động xuất nhập khẩu. Thứ ba, tín dụng Ngân hàng đã đóng góp tích cực cho việc duy trì sự tăng trưởng kinh tế với nhịp độ cao trong nhiều năm liên tục. Thứ tư, đã hỗ trợ có hiệu quả trong việc tạo việc làm mới và thu hút lao động, góp phần cải thiện thu nhập và giảm nghèo bền vững. Thứ năm, góp phần tích cực vào việc bảo vệ môi trường sinh thái, đảm bảo phát triển bền vững. Tuy nhiên, các Ngân hàng Thương mại nước ta hiện nay còn gặp nhiều khó khăn trong hoạt động cũng như trong quản lý. Do đó chúng có những thực trạng đáng buồn mà không ít người quan tâm. Đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập kinh tế thế giới hiện nay. Nhận thấy tầm quan trọng cũng như những hạn chế của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam, chúng em quyết định chọn đề tài “Thực trạng của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu. Thực tế có nhiều sinh viên cũng như những chuyên gia kinh tế đã nghiên cứu về vấn đề này. Đây là thuận lợi cho chúng em trong quá trình tìm kiếm, thu thập thông tin; kế thừa những kinh nghiệm trong việc nghiên cứu khoa học. Nhưng đó cũng chính là khó khăn khi thời gian có hạn mà trình độ, kiến thức tích lũy cũng như kinh nghiệm nghiêm cứu của chúng em chưa nhiều. Cho nên, bài tiểu luận của chúng em sau đây chắc chắn sẽ còn thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được lời góp ý của cô và các bạn để bài làm được hoàn thiện hơn. Tiểu luận của nhóm 1 sẽ góp phần hữu ích đối với các bạn sinh viên, đặc biệt là lớp Tài chính Ngân hàng K09 để có được một góc nhìn trước hoạt động của các Ngân hàng Thương mại nước nhà. Đồng thời bổ sung thêm nguồn tài liệu học tập cho các bạn học tốt hơn môn học này. 5
  6. NỘI DUNG: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP I. THỰC TRẠNG VỐN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. Vốn tự có 1.1. Tổng quan Thực tế cho thấy, trong khoảng thời gian những năm gần đây, khối Ngân hàng Thương mại cổ phần [NHTM CP] đã có những bước tiến ngoạn mục, đóng một vai trò không nhỏ vào sự phát triển chung của ngành Ngân hàng và nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, khi mà cánh cửa hội nhập đang đến “gõ cửa” từng doanh nghiệp và lộ trình của nó đang ngày một rút ngắn về thời gian thì các NHTM nói chung và khối các NHTM CP nói riêng đang ph ải đối mặt với những thách thức nhất định. Trong đó vấn đề năng lực tài chính là vấn đề trọng tâm. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam [NHNN VN] đã đưa ra nhiều biện pháp để thực hiện những chủ trương, chỉ đạo của Nhà nước nhằm giúp các NHTM mở rộng quy mô hoạt động, hiệu quả kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh và hòa nhập tốt với nền kinh tế khu vực và thế giới. Một trong những giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM CP Việt Nam trong thời gian tới là tăng vốn tự có. Về mặt kinh tế, vốn tự có là vốn riêng của Ngân hàng do các chủ sở hữu đóng góp và nó còn được tạo ra trong qúa trình kinh doanh dưới dạng lợi nhuận giữ lại. Vốn tự có cơ bản bao gồm vốn điều lệ [vốn ngân sách cấp, vốn cổ phần thường, vốn cổ phần ưu đãi vĩnh viễn], quỹ dự trữ, dự phòng, lợi nhuận không chia và các khoản khác [các tài sản nợ khác theo qui định của NHNN]. Với nền kinh tế thị trường, vốn tự có là cơ sở hình thành pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp, đồng thời cũng là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong việc đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng. Với lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, vốn tự có còn là yếu tố có ý nghĩa quyết định sống còn đến sự hình thành và phát triển lâu dài của Ngân hàng. Giai đoạn từ năm 2006 cho đến nay đ ã chứng kiến việc đua nhau tăng vốn của các Ngân hàng cổ phần, nhất là khối các NHTMCP trong nước. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, mặc dầu vốn tự có b ình quân của các NHTMCP có tăng nhưng kết quả việc tăng vốn vẫn chưa đáp ứng hết được những mong đợi của các Ngân hàng. Việc tăng vốn tự có nhanh trong một khoảng thờ i gian ngắn mà không kèm theo những thay đổi chưa chắc đã giúp các NHTMCP nâng cao vị thế và tạo ra những ảnh hưởng tốt đến các quyết định của thị trường, ngược lại có thể tạo thêm nhiều nguy cơ rủi ro tiềm ẩn lớn hơn. Để rõ hơn về thực trạng nguồn vốn tự có của doanh nghiệp, dưới đây là một số kết quả đã đạt được của các NHTM trong thời gian qua, bên cạnh đó là những mặt còn hạn chế, nguyên nhân và giải pháp để từng bước khắc phục những hạn chế đó. 1.2. Thực trạng Điểm đáng nổi bật trên thị trường tài chính thời gian qua là Nghị định 141/2006/NĐ-CP, đến cuối năm 2010 vốn điều lệ của các NHTM CP phải đạt 3.000 tỷ 6
  7. đồng. Các tổ chức tín dụng [TCTD] đều rất nỗ lực để hoàn thành việc tăng vốn điều lệ theo đúng lộ trình quy định của Chính phủ. Tuy nhiên, quá trình tăng vốn điều lệ đã chịu tác động của một số nguyên nhân khách quan như bối cảnh nền kinh tế thế giới sau khủng hoảng chưa có dấu hiệu thực sự khả quan. Bên cạnh đó, việc Chính phủ có chủ trương hạn chế các Tổng công ty, doanh nghiệp Nhà nước góp vốn ra ngoài lĩnh vực chính cũng là một khó khăn lớn cho các TCTD cổ phần có cổ đông hiện hữu là các Tổng công ty, doanh nghiệp Nhà nước khi thực hiện tăng vốn điều lệ. Ngoài ra, một số TCTD cổ phần đã niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán cũng gặp phải một số quy định về thời gian khi phát hành cổ phiếu ra công chúng mà không thể hoàn tất việc tăng vốn điều lệ đúng thời hạn quy định. Thủ tướng Chính phủ đã chấp thuận đề xuất giãn lộ trình tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỉ đồng đối với các ngân hàng thương mại đến 31-12-2011 theo như đề xuất của ngân hàng Nhà nước. Cho đến thời điểm có quyết định gia hạn, có khoảng 17 trên tổng số hơn 40 Ngân hàng và các tổ chức tín dụng vẫn ch ưa thể hoàn thành mục tiêu tăng vốn điều lệ theo Nghị định 141. Mặc dù lộ trình tăng vốn điều lệ của các Ngân hàng đã được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận ngay từ cuối tháng 9, vẫn có khá nhiều nguyên nhân khiến việc thực hiện kế hoạch gặp nhiều khó khăn ở một số Ngân hàng. Để tăng vốn điều lệ, các Ngân hàng chủ yếu huy động từ 3 nguồn chính: phát hành ra công chúng qua th ị trường chứng khoán, phát hành cho các cổ đông hiện hữu và phát hành cho các cổ đông chiến lược nước ngoài. Tuy nhiên, bất ổn kinh tế vĩ mô trong nước khiến thị trường chứng khoán trong năm trồi sụt và ảm đạm, các cổ đông hiện hữu là các tổng công ty, doanh nghiệp nh à nước hay Ngân hàng lớn của nhà nước bị hạn chế góp vốn cho các hoạt động ngo ài lĩnh vực chính, thậm chí còn bị yêu cầu thoái vốn từ các tổ chức tài chính, trong khi kinh tế thế giới phục hồi chậm lại khiến sự quan tâm của nh à đầu tư nước ngoài không còn mặn mà. Các nguồn huy động này còn đặc biệt khó khăn hơn nữa đối với các Ngân hàng nhỏ, chưa có thương hiệu và còn đang gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh. Ước tính còn khoảng 10 nghìn tỷ đồng mà các Ngân hàng này cần phải huy động thêm nếu muốn thực hiện đúng quy định, điều m à khó có thể hoàn thành trong khoảng thời gian ngắn ngủi còn lại của năm 2010. Rõ ràng, việc giãn thời gian tăng vốn điều lệ là không thể tránh khỏi, nếu Ngân hàng Nhà nước không muốn những biến động khó kiểm soát trong hệ thống tài chính trong bối cảnh kinh tế vĩ mô trong n ước năm 2010 vẫn chưa ổn định. Ví dụ, ở thời điểm hiện tại, việc sát nhập những Ngân hàng nhỏ và năng lực điều hành kém có thể sẽ là giải pháp mang lại nhiều xáo trộn, Ngân hàng Nhà nước khó giám sát phòng ngừa và ngăn chặn rủi ro. 7
  8. Vậy, việc gia hạn thêm thời gian cho các NHTM ho àn thành lộ trình tăng vốn điều lệ theo Nghị định là một việc làm mang lại lợi ích hay gây khó khăn cho các NHTM? Để trả lời cho câu hỏi đó, ta cần xét đến tác động của nó trong ngắn hạn và dài hạn. Trước hết, trong ngắn hạn, tác động dễ thấy nhất của quyết định gia hạn tr ên thị trường chứng khoán là do không còn áp lực tăng vốn, hiện tượng phát hành ồ ạt thêm cổ phiếu hoặc trả cổ tức bằng cổ phiếu của các Ngân hàng và áp lực bán tháo cổ phiếu Ngân hàng để cổ đông có tiền cho những đợt tăng vốn sẽ không còn. Ngoài ra, những dòng vốn từ công chúng hay cổ đông hiện hữu, th ay vì phải được huy động vào hệ thống Ngân hàng để đáp ứng nhu cầu tăng vốn điều lệ, th ì nay có thể tìm đến thị trường chứng khoán để tìm kiếm lợi nhuận. Cộng với tâm lý không còn quá bi quan với cổ phiếu ngành Ngân hàng nói riêng và hệ thống tài chính nói chung, thị trường chứng khoán trong ngắn hạn sẽ hưởng lợi từ việc hoãn hạn chót tăng vốn. Mặc dù các Ngân hàng vẫn phải tăng vốn cho đến 31/12/2011, nhưng với số vốn bổ sung thêm chỉ còn 10 nghìn tỷ đồng, hiện tượng cổ phiếu ngành Ngân hàng bị pha loãng có thể sẽ không tái diễn, khi các Ngân hàng có tới một năm để thu xếp các nguồn vốn cần thiết, trong kỳ vọng chính sách tiền tệ có thể không còn quá thắt chặt vào quý 2 năm 2011. Trong khi đó, các Ngân hàng quy mô nhỏ có thể quẳng gánh lo tăng vốn điều lệ trong ngắn hạn để tập trung khả năng và nguồn lực để giải quyết những vấn đề nội tại như đảm bảo các điều kiện an toàn theo Thông tư 13, đ ảm bảo thanh khoản cho thời điểm cuối năm và giáp Tết, hoàn thành các chỉ tiêu tín dụng và lợi nhuận và củng cố khả năng cạnh tranh trong bối cảnh lãi suất gia tăng. Một phần nguồn tiền của các cổ đông hiện hữu, b ên cạnh đầu tư vào thị trường chứng khoán, cũng có thể tìm đến hệ thống Ngân hàng như những khoản đầu tư tiết kiệm, và theo đó, sức ép thanh khoản đáp ứng nhu cầu vốn cuối năm của hệ thống sẽ được giảm nhẹ, cuộc đua lãi suất có thể vì thế mà bớt đi căng thẳng. Tuy nhiên, việc hoãn tăng vốn điều lệ đến một năm có thể phải trả giá trong d ài hạn. Không phải vô cớ mà Ngân hàng Nhà nước muốn các Ngân hàng thương mại tăng vốn điều lệ năm 2010 là 3.000 tỷ đồng, và có lộ trình tăng lên 5 nghìn tỷ [năm 2012] và 10 nghìn tỷ [năm 2015]. Một hệ thống tài chính gồm quá nhiều Ngân hàng quy mô nhỏ, năng lực tài chính yếu luôn là một rủi ro đến an toàn hệ thống. Những hiện tượng như cuộc đua lãi suất bắt nguồn từ những Ngân hàng nhỏ do tình trạng khát vốn, cho vay lãi suất cao trong khi khả năng quản trị điều hành kém, vay ngắn hạn trên thị trường liên Ngân hàng để cho vay dài hạn và đẩy lãi suất liên Ngân hàng tăng cao... là những ví dụ cho thấy việc tồn tại song song những Ngân hàng có quy mô khác biệt lớn có thể gây bất ổn đến hệ thống như thế nào. 8
  9. Việc trì hoãn tăng vốn trong vòng 1 năm tới cũng đồng nghĩa với việc những hiện tượng trên nhiều khả năng sẽ còn tiếp tục tái diễn, và theo đó, nỗ lực giảm lãi suất và bình ổn thị trường vốn sẽ còn gặp rất nhiều cam go. Ngoài ra, quy định hệ số an toàn vốn CAR trong Thông tư 13 sẽ tiếp tục là cản trở các Ngân hàng không thể tăng mạnh được tài sản đã điều chỉnh rủi ro, nếu phần tử số - vốn tự có - vẫn ở quy mô thấp. Do đó, mức lãi suất đầu ra ở các Ngân hàng, đặc biệt các Ngân hàng nhỏ, sẽ tiếp tục gặp khó trong quá trình điều chỉnh giảm. Hơn nữa, động thái gia hạn th êm với thời gian tương đối dài là không cần thiết, khi các Ngân hàng nhỏ đã có rất nhiều nỗ lực để tăng vốn điều lệ trong suốt năm qua, và số vốn mà các Ngân hàng còn thiếu thực ra không quá lớn, nếu có với quy mô và khả năng của cả hệ thống tài chính. Và cuối cùng nhưng chắc chắn chưa phải là hồi kết, những quan ngại “kinh niên” về tính nhất quán và hiệu lực của các quy định hay chính sách của Ngân hàng Nhà nước tiếp tục ám ảnh thị trường. Niềm tin, điều tối quan trọng để điều h ành chính sách tiền tệ có hiệu quả và theo đó ảnh hưởng đến ổn định trong dài hạn, vẫn tiếp tục là điều phải chờ đợi. Vấn đề cơ bản của quy định về vốn điều lệ của một Ngân hàng không hẳn ở chỗ một nền kinh tế có quá nhiều hay quá ít Ngân hàng, hay Ngân hàng quá nhỏ. Mấu chốt của vấn đề vốn điều lệ là đảm bảo an toàn cho hệ thống tài chính, nên việc tăng vốn theo quy định cần thực hiện đồng bộ với các giải pháp như phân loại và quản lý nợ theo chuẩn mực quốc tế thì mới đạt mục đích đề ra. Một hệ thống tài chính an toàn khi các Ngân hàng có hệ số an toàn vốn [CAR – capital adequacy ratio] cao, nói cách khác có đủ vốn để “chịu trận” khi lỗ. Nếu vốn thấp mà lỗ nặng, Ngân hàng sẽ phá sản và vì đặc thù của loại hình kinh doanh này sẽ rất dễ kéo toàn hệ thống sụp đổ theo, liên lu ỵ cho cả nền kinh tế. Hệ số an toàn vốn [vốn tự có/tổng tài sản có rủi ro, capital adequacy ratio – CAR] là một chỉ tiêu quan trọng phản ánh năng lực tài chính của các Ngân hàng. Chỉ tiêu này được dùng để xác định khả năng của Ngân hàng trong việc thanh toán các khoản nợ có thời hạn và đối mặt với các rủi ro khác như rủi ro tín dụng, rủi ro vận hành. Điều quan trọng là hệ số này phụ thuộc vào hai yếu tố: tử số là vốn điều lệ và mẫu số là tổng tài sản. Như vậy để tăng độ an toàn cho một Ngân hàng hay toàn bộ hệ thống, nhà quản lý hoặc chặn không cho Ngân hàng tăng tổng tài sản quá cao hoặc yêu cầu Ngân hàng phải tăng vốn. Việc NHNN yêu cầu các Ngân hàng tăng vốn tối thiểu lên 3.000 tỉ đồng có thể coi là một vế của kế hoạch tăng hệ số an to àn vốn cho toàn hệ thống, nhưng chỉ yêu cầu tăng vốn điều lệ tối thiểu là không đủ và có thể còn làm tăng rủi ro. + Thứ nhất, nếu Ngân hàng tăng vốn điều lệ đồng thời tăng tổng tài sản thì hệ số an toàn vốn có thể không tăng. Đây là khả năng rất dễ xảy ra vì một Ngân hàng khi đi huy động vốn điều lệ họ không thể nói tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu [ROE] 9
  10. của Ngân hàng này sẽ giảm, như thế không ai bỏ tiền mua cổ phiếu của Ngân hàng đó. Để ROE không giảm trong khi hệ số an to àn vốn tăng, Ngân hàng buộc phải tăng tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản [ROA], một điều không dễ trong ho àn cảnh hoạt động Ngân hàng ở Việt Nam còn rất khó khăn như hiện nay. Liệu có ai tin một Ngân hàng không mấy tên tuổi có ROA cao hơn hẳn mặt bằng chung của toàn hệ thống? Ngược lại, để thu hút nhà đầu tư trong khi hàng loạt Ngân hàng đang phải cạnh tranh nhau huy động vốn, các Ngân hàng nhỏ sẽ phải quảng cáo ROE cao, cổ tức cao, bằng cách âm thầm giảm bớt hệ số an toàn vốn [tăng đòn bẩy – leverage]. Nghĩa là cuộc chạy đua tăng vốn điều lệ sẽ làm hệ thống Ngân hàng rủi ro hơn. + Thứ hai, vấn đề phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng cho các khoản nợ xấu đó của các Ngân hàng vẫn còn khoảng cách so với chuẩn mực quốc tế. Cứ giả sử NHNN thành công trong việc tăng hệ số an toàn vốn của toàn hệ thống, nhưng nếu nợ xấu vẫn được giấu kỹ ở đâu đó thì hệ số an toàn vốn mà các Ngân hàng báo cáo chỉ là số ảo, con số thực sẽ thấp h ơn nhiều và rủi ro tiềm ẩn cao hơn nhiều. Tạm thời bỏ qua các khoản nợ xấu trong lịch sử, việc yêu cầu tăng vốn điều lệ sẽ buộc các Ngân hàng phải chạy đua tăng ROE/ROA như đề cập ở trên để cạnh tranh thu hút vốn. Trường hợp này rủi ro nợ xấu sẽ tăng lên, do vậy không giải quyết được vấn đề phân loại và theo dõi nợ xấu. Yêu cầu tăng vốn điều lệ [để tăng hệ số an to àn vốn] do đó không giải quyết được bài toán an toàn cho hệ thống. + Thứ ba, khi các Ngân hàng không đáp ứng đủ điều kiện về vốn điều lệ, th ì buộc phải sáp nhập. Về mặt số học, đây là giải pháp sai lầm vì hai Ngân hàng có hệ số an toàn vốn thấp sau khi sáp nhập hệ số n ày không thể tăng dù vốn điều lệ tăng. Kể cả nếu bỏ qua hệ số an toàn vốn, liệu rủi ro hệ thống có giảm đi khi các Ngân hàng nhỏ sáp nhập lại với nhau không? NHNN lập luận rằng với số Ngân hàng ít đi họ sẽ giám sát chặt chẽ hơn và bản thân các Ngân hàng sẽ cẩn thận hơn và điều hành tốt hơn là những Ngân hàng nhỏ manh mún hiện nay. Trước hết cần xác định, Ngân hàng càng lớn thì hoạt động và sản phẩm càng phức tạp, NHNN sẽ càng khó giám sát và kiểm tra để phòng ngừa hay ngăn chặn rủi ro. Ngoài vấn đề quá lớn để thất bại [too -big-to-fail], nhiều nhà kinh tế như Krugman, Johnson đã cảnh báo hiện tượng “quá lớn để quản lý” [too-big-to-regulate]. Nghĩa là Ngân hàng lớn sẽ có nhiều cách để “lách luật”, hoặc tệ hơn nữa là tìm cách ảnh hưởng tới quá trình làm luật và các chính sách để có lợi cho mình. Lập luận cho rằng các Ngân hàng nhỏ hiện nay thiếu chuyên môn và hoạt động quá liều lĩnh có một phần chính xác. Tuy nhiên giải pháp sáp nhập các Ngân hàng nhỏ và/hoặc buộc tăng vốn điều lệ không giải quyết đ ược nguyên nhân căn bản. Chuyên môn và nghiệp vụ Ngân hàng không phải là điều quá khó để các Ngân hàng nhỏ có thể học được [với sự giúp đỡ của NHNN]. Việc điều h ành những Ngân hàng nhỏ có 1 – 2 chi nhánh đơn giản hơn nhiều so với một Ngân hàng lớn có chi nhánh toàn quốc và cả ở nước ngoài. Việc tăng chuyên môn phụ thuộc vào sự đào tạo, giúp đỡ, giám sát của NHNN nhiều hơn là vào việc sáp nhập. Các Ngân hàng nhỏ sau khi sáp nhập với nhau không có nghĩa đội ngũ nhân viên và lãnh đạo tự nhiên có trình độ chuyên môn tăng lên. 10
  11. + Thứ tư, điểm cuối cùng và không kém ph ần quan trọng, cần phải xác định đâu là nguyên nhân chính khiến các Ngân hàng nhỏ hoạt động quá rủi ro [ví dụ chạy đua lãi suất hay vay ngắn hạn trên thị trường liên Ngân hàng để cho vay dài hạn]. Đó không phải là vì họ nhỏ và thiếu chuyên môn mà đó là hậu quả tất yếu của việc các Ngân hàng quốc doanh và một vài Ngân hàng lớn được hưởng nhiều ưu đãi [vô tình hay cố ý] nên các Ngân hàng nhỏ không còn cách nào khác là phải liều lĩnh hơn để đạt được ROE như đã hứa với các cổ đông. Tỷ trọng vốn tự có/tổng tài sản của các Ngân hàng thương mại nhìn chung còn thấp chỉ đạt trên dưới 5%. Để đảm bảo hiệu quả sử dụng các nguồn vốn và đảm bảo phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh th ì các Ngân hàng thương mại nên tăng tỷ lệ này lên khoảng từ 8% - 10 % là hợp lý. Mặt khác vốn tự có/ nợ phải trả cho ta biết được cán cân vốn_nợ của Ngân hàng. Khi các Ngân hàng sử dụng các biện pháp tăng vốn, huy động vốn sẽ gây ra sự mất cân đối cán cân này. Nếu tỷ lệ vốn tự có/nợ phải trả quá cao th ì tức là Ngân hàng đang kinh doanh phần lớn bằng nguồn vốn của mình, khá độc lập với thị trường vốn, nhưng nếu như vậy lại dẫn đến chi phí sử dụng vốn cao vì không tận dụng được vốn của người khác để kinh doanh. Nếu vốn tự có/nợ phải trả thấp tức là Ngân hàng phụ thuộc khá nhiều vào thị trường vốn dẫn đến sức ép của nợ nần, tăng rủi ro cho hoạt động kinh doanh. Song n ếu quản lý và sử dụng tốt nguồn vốn vay thì sẽ mang lại khoản lợi nhuận lớn. 1.3. Giải pháp 1.3.1. Đối với từng Ngân hàng thương mại Phối kết hợp các biện pháp tăng vốn [phát h ành cổ phiếu, trái phiếu...] một cách hiệu quả, phù hợp với tình hình của mỗi Ngân hàng trong từng giai đoạn nhằm phát huy tối đa ưu điểm của các biện pháp này và hạn chế các nhược điểm của từng biện pháp. Sau mỗi lần tăng vốn cần sử dụng một cách hiệu quả nguồn vốn bổ sung, kết hợp với việc cải cách Ngân hàng theo hướng nâng cao năng lực quản trị điều hành, năng lực tài chính, mở rộng quy mô và năng lực cạnh tranh cho Ngân hàng...làm tăng lợi nhuận cho Ngân hàng dẫn đến tăng thêm vốn từ lợi nhuận giữ lại. Các Ngân hàng thương mại cần củng cố và hoàn thiện mạng lưới chi nhánh [thế mạnh của NHTM VN], đi liền với chính sách chăm sóc khách h àng và tăng cường công tác tiếp thị; Các Ngân hàng thương mại Việt nam cần tiếp tục đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ Ngân hàng. Tất cả nhằm mục đích làm tăng uy tín của Ngân hàng - điều này rất quan trọng đối với những lần tăng vốn tiếp theo. 1.3.2. Đối với Ngân hàng nhà nước Quản lý thật tốt thị trường chứng khoán vì đây là một kênh huy động vốn hiệu quả cho các doanh nghiệp nói chung và cho các Ngân hàng TMCP nói riêng. Thị 11
  12. trường chứng khoán phát triển sẽ rất thuận lợi cho các NHTMCP phát h ành thêm cổ phiếu mới để tăng vốn tự có và nâng cao năng lực tài chính của mình. Việc cho phép các nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của các Ngân hàng thương mại trong nước [tối đa 30%] cũng góp phần tăng nhanh vốn điều lệ của các NHTMCP VN. Đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại hệ thống NHTM VN, cải cách Ngân hàng theo hướng nâng cao năng lực quản trị điều h ành, năng lực tài chính, mở rộng quy mô và năng lực cạnh tranh cho NHTM VN. Hình thành các tập đoàn tài chính -Ngân hàng đủ lớn, mạnh dạn sắp xếp lại NHTMCP theo hướng thanh lý, giải thể những Ngân hàng yếu kém, sáp nhập những Ngân hàng nhỏ không đủ vốn pháp định vào những Ngân hàng lớn [vốn pháp định NHTM đô thị cần điều chỉnh trên 200 tỷ đồng]. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng theo hướng hội nhập. Hai luật Ngân hàng cần khẩn trương hoàn thiện, bổ sung, sửa đổi sao cho phù hợp với cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Tất cả nhằm tạo cơ chế thông thoáng, môi trường pháp lý ổn định, chặt chẽ cho các Ngân hàng cạnh tranh công bằng và cùng nhau phát triển. Nếu các giải pháp trên đây được thực hiện đồng bộ, chắc chắn sẽ góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại VN trong tiến trình hội nhập quốc tế. 2. Vốn pháp định 2.1. Khái niệm Theo quy định tại Điều 4 Luật Doanh nghiệp [2005] th ì khái niệm vốn pháp định được hiểu là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định của pháp luật để th ành lập doanh nghiệp. Điều này có nghĩa là Nhà nước sẽ đặt ra mức sàn tối thiểu về vốn đối với một số ngành nghề cụ thể và nhà đầu tư phải đáp ứng số vốn đó từ bằng hoặc lớn hơn mức mà nhà nước đặt ra thì mới được thành lập doanh nghiệp và hoạt động trong ngành nghề đó. Quy định về vốn pháp định là việc làm cần thiết để nhằm tạo ra sự an to àn cho xã hội và đảm bảo trách nhiệm tài sản của doanh nghiệp trước đối tác và chủ nợ. Vì thực chất những ngành nghề như kinh doanh tiền tệ – tín dụng, kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh chứng khoán trên thế giới nhiều quốc gia cũng đ ã và đang áp dụng mức vốn pháp định, cho nên ở Việt Nam cũng không là ngọai lệ. 2.2. Thực trạng Theo Nghị định 10/2011/NĐ-CP về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22 tháng 11 năm 2006 về ban hành Danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng. Theo đó, tổ chức tín dụng được cấp giấy phép thành lập và hoạt động sẽ phải có biện pháp bảo đảm số vốn điều lệ thực góp hoặc được cấp tối thiểu tương đương mức vốn pháp định theo quy định, chậm nhất vào ngày 31/12/2011, thay cho quy định cũ thời hạn này là ngày 31/12/2010. 12
  13. Với các Ngân hàng thương mại, mức vốn pháp định áp dụng cho đến năm 2011 là 3.000 tỷ đồng; chi nhánh Ngân hàng nước ngoài là 15 triệu USD; với Ngân hàng chính sách, Ngân hàng phát triển là 5.000 tỷ đồng; Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng hợp tác và qu ỹ tín dụng Nhân dân Trung ương là 3.000 tỷ đồng; với công ty tài chính là 500 tỷ đồng; công ty cho thuê tài chính là 150 tỷ đồng. Theo Nghị định 141/2006/NĐ-CP, các NHTM có thời gian 4 năm để thực hiện việc tăng vốn điều lệ với 2 giai đoạn cụ thể [giai đoạn 1 kết thúc 31/12/2008 v à giai đoạn 2 kết thúc 31/12/2010]. Tuy nhiên, quá trình tăng vốn điều lệ đã chịu tác động của một số nguyên nhân khách quan, khiến việc tăng vốn điều lệ từ các nguồn khác nhau của nhiều NHTM trong nước gặp phải một số khó khăn. Vì vậy, việc gia hạn thời gian tăng vốn điều lệ cho các NHTM đến 31/12/2011 là một trong những chủ trương đúng đắn. Bởi sẽ giảm bớt áp lực về thời gian tăng vốn cho các NHTM chưa thể tăng đủ ngay mức vốn pháp định, nhưng đảm bảo có sự công bằng đối với những NHTM thời gian qua đ ã nỗ lực tăng vốn để đảm bảo đủ mức vốn pháp định theo chỉ đạo của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước. 2.3 Ứng xử của NHTM Dù được gia hạn việc nâng vốn pháp định lên 3.000 tỉ đồng thêm một năm nữa nhưng kết thúc năm 2010 [31-12], nhiều Ngân hàng thương mại vẫn nâng vốn pháp định đảm bảo quy định pháp luật. Như Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín [VIETBANK] đến ngày 30-12 mới chính thức hoàn thành các thủ tục pháp lý tăng vốn điều lệ lên 3.000 tỉ đồng. VIETBANK cho biết việc tăng vốn điều lệ này được thực hiện theo công văn chấp thuận tăng vốn lên 3.000 tỉ đồng của Ngân hàng Nhà nước ngày 21-9 và nằm trong kế hoạch của Ngân hàng theo đúng lộ trình. Không chỉ có VIETBANK mà Đại Á và Tiên Phong cũng nâng vốn đúng thời hạn. Các Ngân hàng trên cho biết dù được gia hạn thời gian thêm 12 tháng nhưng có ít Ngân hàng ỉ lại và nhiều Ngân hàng vẫn hoàn thành việc tăng vốn theo đúng lộ trình [31-12-2010]. Việc tăng vốn như quy định nhằm nâng cao năng lực tài chính cũng như vị thế cạnh tranh trong những năm tới. Và quan trọng, là vẫn đảm bảo tiếp tục duy trì mục tiêu tăng vốn điều lệ để nâng cao năng lực tài chính của các NHTM, tiếp tục khuyến khích các NHTM tăng vốn điều lệ để sớm đạt được mức vốn pháp định. 13
  14. 3. Huy động vốn và lãi suất huy động vốn 3.1. Thực trạng Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách h àng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Hầu hết các Ngân hàng thương mại chỉ có từ 20-30 % là vốn tự có, còn lại là vốn đi vay.Vì vậy, việc thu hút vốn là vấn đề hàng đầu của các Ngân hàng thương mại và vốn cũng là một câu hỏi lớn nhất của nền kinh tế Việt Nam. Những năm gần đây tốc độ tăng trưởng nguồn vốn đầu tư khá cao, tuy nhiên tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn lại thấp, mà chủ yếu là nguồn vốn ngắn hạn. Có nhiều hạn chế gây khó khăn trong việc huy động vốn của cac NHTM, trước hết là về phía bản thân các NHTM. Thứ nhất, mức độ cạnh tranh trên thị trường vốn ngày càng cao. Việc huy động vốn của các NHTM phải cạn h tranh với các kênh thu hút vốn khác như tiết kiệm bưu điện, bảo hiểm nhân thọ, hoạt động đầu tư bất động sản, đầu tư cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường tài chính. Thứ hai, nội lực của chính các Ngân hàng, với quy mô vốn nhỏ, nguồn nhân lực hạn chế, trình độ công nghệ còn chậm tiến so với các nước trong khu vực. Công nghệ Ngân hàng hiện đại và dịch vụ tuy đã có bước phát triển, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Hệ thống dịch vụ Ngân hàng trong nước còn đơn điệu, chất lượng chưa cao, chưa định hướng theo nhu cầu khách hàng và nặng về dịch vụ Ngân hàng truyền thống. Các Ngân hàng huy động vốn chủ yếu dưới dạng tiền gửi chiếm 94% tổng nguồn vốn huy động. Chưa có sự phân đoạn thị trường để có những sản phẩm huy động vốn, sản phẩm dịch vụ riêng cho từng nhóm khách hàng riêng biệt. Một chính sách Marketing tốt phải đưa ra chiến lược quản lý khách hàng, trong đó việc thực hiện phân đoạn thị trường theo các tiêu chí như vùng địa lý, các yếu tố nhân khẩu học, các yếu tố tâm lý, các yếu tố thuộc thói quen hành vi… Không phải mọi khách hàng đều có nhu cầu như nhau đối với các dịch vụ Ngân hàng và mang lại lợi nhuận như nhau cho Ngân hàng, nên cần có sự phân đoạn để có những chính sách chăm sóc khách h àng phù hợp. Các sản phẩm hiện nay mà các Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng cung cấp ra thị trường mang tính chất đại trà cho tất cả các khách hàng, không có sự phân biệt tới từng nhóm đối tượng. Thứ ba, dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút khách h àng. Tuy nhiên, công cụ này cũng chỉ có tác dụng ở mức giới hạn nhất định. Do không thể đa dạng hóa các loại hình dịch vụ Ngân hàng đã khiến các Ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu dựa vào công cụ lãi suất để cạnh tranh thu hút khách hàng 14
  15. Lãi suất là một trong những công cụ để các NHTM thu hút vốn, tuy nhiên, công cụ này cũng chỉ có tác dụng ở mức giới hạn nhất định. Sức ép cạnh tranh đã khiến các Ngân hàng gần như đồng loạt công bố tăng lãi suất huy động vốn. Đáng lo ngại trước tình trạng lãi suất đang chạm sát với giới hạn sinh lãi, khả năng an toàn các các Ngân hàng và tác động tới tăng trưởng kinh tế. Cạnh tranh trong việc thu hút vốn đ ã tạo ra cuộc chạy đua lãi suất trên thị trường nhằm giảm bớt những nguy cơ rủi ro thanh khoản đang có chiều hướng gia tăng. Nhiều NHTM đã liên tục tăng lãi suất với tần suất thay đổi có khi tới 3 đến 4 lần/tuần, và không chỉ diễn ra ở các NHTM cổ phần nhỏ mà còn đối với cả các NHTM cổ phần hàng đầu và các NHTM Nhà nước. NHNN cho biết, thời gian gần đây lãi suất huy động của các NHTM CP có mức điều chỉnh tăng từ 0,2-0,5%/năm. Các NHTM Nhà nước cũng có mức điều chỉnh tăng từ 0,1-0,3%/năm. Lãi suất huy động USD tăng khoảng từ 0,2 -0,4%/năm, tập trung chủ yếu ở nhóm NHTM cổ phần. Theo nhìn nhận của các chuyên gia, hiện lãi suất huy động vốn mà các NHTM đang áp dụng là quá cao, ngay cả khi lạm phát ở mức 10%. Thông th ường các NHTM chỉ nên đưa ra mức lãi suất huy động bảo đảm nguyên tắc lãi suất dương, có lợi cho người gửi tiền là được. Tuy nhiên, quan trọng hơn là nguyên tắc lãi suất dương cần được thực hiện phù hợp với thực tế thị trường để tạo cơ sở bảo đảm cho thị trường tín dụng tăng trưởng trong thế ổn định. Đó chính là lý do vì sao Hiệp hội Ngân hàng đã đưa ra và kêu gọi đồng thuận với mức lãi suất trần huy động là 12%/năm vào những tháng đầu năm 2010. Nhưng diễn biến lãi suất, cả huy động và cho vay hiện nay, lại không theo cái "lẽ phải thông thường" đó. Biểu hiện bất thường, ẩn chứa nhiều bất ổn của lãi suất có thể thấy ở hai khía cạnh lớn của vấn đề. Thứ nhất là nhiều NHTM, tuy chỉ niêm yết mức lãi suất huy động 12%/năm, nhưng cộng thêm các chi phí khuyến mãi [bằng cả thưởng tiền "nóng", thưởng lãi suất…] khiến lãi suất huy động trong thực tế đ ã vượt xa niêm yết. Có Ngân hàng thực hiện ghi lãi suất huy động trên sổ chỉ 12%/năm, nhưng lại kèm theo cam kết bằng văn bản trả thêm 3% lãi suất cho món tiền gửi đó khi đáo hạn. Tình trạng khuyến mãi huy động không chỉ diễn ra đối với NHTM nhỏ, m à ở cả các NHTM lớn. Thứ hai là có một số NHTM công khai "vượt trần" lãi suất huy động 12%/năm. Trường hợp “xé rào" đầu tiên là NHTM CP Sài Gòn [SCB]. Từ ngày 7/4/2008, SCB đã triển khai kế hoạch phát hành 3.000 tỷ đồng kỳ phiếu kéo dài cho tới 4/6/2008. Kỳ phiếu có thời hạn 270 ngày và 360 ngày, với lãi suất trả trước là 1%/tháng, tương đương 12%/năm. Như vậy lãi suất thực khách hàng được trả khi mua kỳ phiếu lên tới trên 13%/năm. Đặc biệt là khách hàng còn được khuyến mại thông qua tham gia chương trình quay số dự thưởng của SCB với tổng trị giá giải th ưởng là 2,5 tỷ đồng; trong đó có giải đặc biệt là 2kg vàng SJC trị giá hơn 1 tỷ đồng, kèm theo rất nhiều giải khác có giá trị. NHTM CP Sài Gòn – Hà Nội [SHB] cũng triển khai chương trình tiết kiệm nhận ngay tiền lãi, với 7 loại gửi tiết kiệm đồng Việt Nam kỳ hạn từ 1 tháng đến 6 15
  16. tháng trả lãi trước là 10,5%/năm; các kỳ hạn từ 7 đến 13 tháng cũng trả lãi trước, với lãi suất 11,0%/năm. Nhìn bề ngoài thì lãi suất của SHB thực hiện theo đúng thoả thuận giữa các NHTM thành viên do Hiệp hội Ngân hàng chủ trì, nhưng do lãi trả trước nên tính thực ra lãi suất khách hàng được hưởng lên tới 12%/năm. Một số NHTM cổ phần quy mô nhỏ khác, hay NHTM CP nông thôn, NHTM CP nông thôn mới chuyển lên thành NHTM CP đô thị cũng cho biết đang chuẩn bị điều chỉnh lãi suất huy động vốn đồng Việt Nam lên trên 11%/năm. Các NHTM CP này kêu ca rằng họ đang ở vào thế bất lợi so với các NHTM NN và NHTM CP quy mô lớn, quy mô khá, do đó vốn huy động từ khi áp dụng trần lãi suất thỏa thuận không tăng, thậm chí cá biệt có Ngân hàng còn giảm. NHTM CP nào cũng vì lợi ích kinh doanh của mình, của cổ đông. Thêm vào đó, lãi suất trần huy động vốn tối đa chỉ mang tính thỏa thuận giữa các th ành viên do Hiệp hội Ngân hàng, không mang tính ràng buộc, không phải là quy định của cơ quan quản lý Nhà nước, tức là không có tính pháp lý và không có ch ế tài xử phạt. Nên việc thực hiện đúng các thỏa thuận đó là điều khó có thể đảm bảo. Thực tế đã chứng minh, trong quá trình hoạt động cũng đã nảy sinh nhiều diễn biến phức tạp như đã trình bày, khiến 2 tháng cuối năm hoạt động của thị trường tín dụng dường như đã có lúc nằm ngoài tầm với của chính sách kinh tế. Lại một lần nữa vấn đề lãi suất thực dương đã được các chuyên gia kinh tế đưa ra. Việc các NHTM đồng loạt tăng lãi suất đang gây ra nhiều lo ngại. Đại diện một NHTM phân tích, lãi suất huy động USD tăng cao sẽ ảnh hưởng đến chi phí đầu vào của cả doanh nghiệp và Ngân hàng. Bởi khi lãi suất huy động tăng thì lãi suất cho vay khách hàng cũng phải tăng. Điều này sẽ khiến chi phí của doanh nghiệp đội lên cao, gây áp lực tăng giá, một trong những nguyên nhân dẫn đến lạm phát. Cứ như thế, lạm phát tăng buộc các Ngân hàng lại phải tăng lãi suất huy động để đảm bảo thực dương. Đồng thuận với việc cần đảm bảo lãi suất thực dương là câu hỏi: Vậy lãi suất thực dương ở mức nào thì hợp lý? Lo ngại lớn nhất sau khi lãi suất huy động USD lên cao chính là việc tỷ giá VND/USD sẽ chịu nhiều áp lực. Bởi khi lãi suất USD tăng cũng đồng nghĩa với việc USD lên giá, khi đó VND bị coi là giảm giá so với USD. Điều n ày sẽ gây ra nhiều phản ứng tiêu cực trên thị trường tiền tệ đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế đang có nhiều biến động hiện nay. Lãi suất là giá cả của đồng vốn trong nền kinh tế. Một khi lãi suất huy động vốn cao sẽ dẫn đến lãi suất cho vay cao làm hạn chế nhu cầu vay vốn của các đối tượng sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng tới tăng trưởng chung của nền kinh tế và tạo thêm việc làm mới trong xã hội. Mặt khác lãi suất cho vay vốn của NHTM ở mức cao làm tăng chi phí đầu vào, tăng chi phí sử dụng vốn vay của DN, hộ sản xuất kinh doanh, tăng giá thành của sản phẩm và dịch vụ, tăng giá bán trên thị trường, tác động ngược chiều đến kiềm chế lạm phát. Sau những ảnh hưởng tiêu cực tới đời sống kinh tế của cuộc chay đua lãi suất, cuối năm 2010, Ngân hàng Nhà nước đã thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận và cùng với các biện pháp điều hành tiền tệ linh hoạt lãi suất huy động và cho vay VND của các 16
  17. Ngân hàng thương mại giảm dần [mức giảm khoảng 1%]. Hiện nay, các Ngân hàng đã thực hiện đồng thuận lãi suất huy động VND không vượt quá 14%/ năm. Thứ tư, những NHTM trong nước hiện đang nắm giữ khoảng gần 90% thị phần. Nhưng đây không phải là lợi thế của chúng ta mà chỉ là kết quả tất yếu của sự bảo hộ trong suốt thời gian qua. Bên cạnh những hạn chế của bản thấn các NHTM, cũng phải kể đến những hạn chế khách quan từ môi trường vĩ mô. Chính sách nhà nước về cổ phần hóa các doanh nghiệp nh à nước [trong đó có NHTMNN] còn chậm và nhà nước còn can thiệp vào hoạt động kinh doanh của Ngân hàng. Yếu tố giá cả tăng mạnh trong 2 năm gần đây gây ra tâm lý e ngại gửi tiền: Người dân e ngại gửi tiền VND dài hạn vào hệ thống Ngân hàng, dẫn đến việc người dân chuyển sang đầu tư vào bất động sản, hoặc tích trữ dưới dạng USD và vàng. Về phía khách hàng, tốc độ tăng trưởng kinh tế dù được duy trì ở mức cao trong nhiều năm nhưng thu nhập quốc dân bình quân đầu người vẫn còn thấp, tiết kiệm và tích lũy trong dân cư tuy đã tăng nhưng còn ở mức khiêm tốn và dân cư vẫn chưa thực sự tin tưởng khi gửi tiết kiệm. Chẳng hạn như: Nguồn vốn huy động của các Ngân hàng chỉ tập trung ở đô thị. Trong khi đó, thị trường nông thôn còn bỏ ngỏ, nhưng nơi đây nguồn vốn có nhiều tiềm năng, nhất là mấy năm gần đây nông thôn chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhiều trang trại, các hộ nuôi thủy sản, trồng cây ăn trái đặc sản, chăn nuôi... mỗi năm thu nhập hàng trăm triệu đồng và thậm chí cả tỷ đồng. Có khoản tiền lớn trong tay, họ xây dựng nh à, mua sắm phương tiện sinh hoạt, mua vàng cất trữ, không gởi tiền vào Ngân hàng nhưng đến khi cần vốn đầu tư cho sản xuất lại tiếp tục vay Ngân hàng. Như tỉnh Trà Vinh có hơn 2.300 trang trại vay Ngân hàng gần 200 tỉ đồng, có nhiều trang trại lãi ròng hàng trăm triệu nhưng hỏi ra không có mấy trang trại gởi tiền tiết kiệm Ngân hàng. Không chỉ riêng Trà Vinh mà là thực trạng chung của các tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long. Các tỉnh địa bàn nông thôn sâu lại càng khó huy động vốn. Nhiều xã vùng sâu, vùng xa thì nhu cầu vay vốn lớn, nhưng ngược lại huy động vốn rất ít. Qua thực tế trên cho thấy hiện nay, các Ngân hàng chưa tiếp cận các nguồn vốn ở nông thôn, chưa hướng người dân thay đổi tập quán cất vàng chuyển sang gởi tiền tiết kiệm tại các Ngân hàng. 3.2. Nguyên nhân Có nhiều nguyên nhân của thực trạng lãi suất cao. Phải kể đến những biến động tăng đột biến của giá vàng thế giới đã khiến giá vàng trong nước tăng vọt trong thời gian qua. Bên cạnh đó, biến động tỷ giá ngoại tệ. Không thể phủ nhận chính những biến động của giá vàng và tỷ giá đã làm nảy sinh tâm lý lo sợ lạm phát cao khiến một phần tiền gửi bị hút đầu tư vào vàng và đôla, khiến nguồn huy động của các NHTM 17
  18. cũng bị ảnh hưởng. Người ta cũng nói đến một nguyên nhân nữa, các NHTM phải thực hiện Thông tư 13 và Thông tư 19 về việc chỉ được cho vay ra tối đa 80% vốn huy động đầu vào. Chỉ tiêu pháp định về an toàn thanh khoản này đã khiến các NHTM phải gia tăng nguồn huy động nhằm cân đối với nhu cầu mở rộng tín dụng. Đó cũng là áp lực khiến phải tăng lãi suất huy động. Ngoài ra, phải kể đến thực trạng mất cân đối trong cơ cấu nguồn vốn tại nhiều NHTM hiện nay. Đây là hệ quả của một thời gian khá dài các NHTM tập trung huy động kỳ hạn ngắn, đến mức đã kéo thẳng đường cong lãi suất. Phần vốn ngắn hạn buộc phải đáp ứng nhu cầu cho vay trung - dài hạn đó đã tạo áp lực đẩy lãi suất huy động tăng cao nhằm bù đắp thiếu hụt thanh khoản vốn ngắn hạn đáo hạn. Chính hiện tượng lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng tăng đột biến vào trung tuần tháng 11 mới đây đã cho thấy hệ lụy khó lường của tình trạng mất cân đối kỳ hạn về nguồn vốn nói trên. Cũng lại nhờ có sự can thiệp kịp thời bơm vốn giải quyết thanh khoản qua thị trường mở nên lãi suất thị trường liên Ngân hàng đã giảm hẳn và đang vận hành ổn định. Cuối cùng, theo các chuyên gia, lãi su ất huy động vốn vẫn giữ xu hướng tăng được cho là bởi kỳ vọng lạm phát vẫn tăng. Theo Tổng cục Thống kê tháng 11 đã tăng tới 1,86% so với tháng 10, đưa CPI 11 tháng tăng tới 9,58%. Bên cạnh đó, NHTM cổ phần quy mô nhỏ có mạng lưới hẹp, năng lực tài chính hạn chế, uy tín và thương hiệu chưa được nhiều người biết. Do đó cùng lãi suất huy động vốn như nhau, các NHTM Nhà nước, các NHTM cổ phần có mạng lưới rộng, có thương hiệu và uy tín, có năng lực tài chính mạnh, có điều kiện tăng chi phí cho quảng bá, tiếp thị… sẽ huy động được nhiều vốn hơn. Nên cuối cùng các NHTM cổ phần nhỏ lại phải đi vay lại vốn của các NHTM khác trên thị trường liên Ngân hàng với lãi suất cao. Đây cũng là lý do tại sao sau hơn 2 tuần thực hiện trần lãi suất của Hiệp hội Ngân hàng nhưng lãi suất trên thị trường liên Ngân hàng thì vẫn nóng vào những tháng đầu năm 2010. Lãi suất cho vay qua đêm vẫn lên tới 10% - 14%, lãi suất cho vay kỳ hạn 1 tuần và 2 tuần lên tới 15% - 16%/năm.Trong khi đó thoả thuận trần lãi suất huy động vốn tối đa giữa các NHTM thành viên do Hiệp hội Ngân hàng chủ trì không có tính ràng buộc, không phải là quy định của cơ quan quản lý Nhà nước, tức là không có tính pháp lý và không có chế tài xử phạt. NHTM cổ phần nào cũng vì lợi ích kinh doanh của mình, của cổ đông. Sau hơn 2 tuần thực hiện thoả thuận nhưng một số NH thành viên nhận ra sự bất lợi trong cạnh tranh nên đã tự ý phá vỡ thỏa thuận, đẩy mức lãi suất huy động lên cao hơn rất nhiều so với thỏa thuân ban đầu. 3.3. Giải pháp Các NHTM có kinh nghiệm có thể hạn chế sự chuyển dịch tiền gửi của khách hàng vì mục tiêu tìm kiếm lãi suất cao bằng các giải pháp khác thay vì tăng lãi suất . Người gửi tiền thực chất đang thực hiện hành vi đầu tư, điều này chỉ ra rằng lợi nhuận cao cũng đi liền với rủi ro cao. 18
  19. Để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền, Nhà nước đã có chính sách bảo hiểm tiền gửi. Theo đó, hạn mức chi trả ngay tiền gửi được bảo hiểm cho người gửi tiền hiện nay tối đa là 50 triệu đồng đã được quy định rõ tại Nghị định số 109/2005/NĐ-CP của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi, phần tiền gửi vượt hạn mức chi trả sẽ được thanh toán tiếp cho người gửi tiền theo quy định về giải quyết các nghĩa vụ nợ của Luật phá sản . Với quy định này, bản thân người gửi tiền cũng phải có trách nhiệm trong việc lựa chọn ngân hàng để gửi tiền và việc tuyên truyền nhằm nâng cao hiểu biết về chính sách bảo vệ quyền lợi người gửi tiền cũng cần được các NHTM thực hiện một cách đầy đủ, tích cực. Bên cạnh đó, để nâng cao niềm tin của công chúng, các NHTM có thể minh bạch hóa tối đa hoạt động của mình, nhằm chỉ ra độ an toàn trong hoạt động đối với khách hàng gửi tiền. Mặt khác, cũng nên đưa ra các khuyến cáo về mức lãi suất mất an toàn trong huy động vốn đối với hoạt động ngân hàng, khi mà đầu ra đã được chốt chặt bởi lãi suất cơ bản đã được Ngân hàng Nhà nước công bố . Trước diễn biến căng thẳng của thị trường lãi suất cũng như giải quyết một số mâu thuẫn nói trên đòi hỏi việc điều hành chính sách kinh tế vĩ mô cần linh hoạt và sát thực tiễn hơn, phù hợp với những diễn biến của thị trường, đảm bảo lợi ích chung của nền kinh tế, của người gửi tiền và cạnh tranh bình đẳng giữa các NHTM. 4. Cổ phiếu và trái phiếu 4.1. Cổ phiếu 4.1.1. Thực trạng Cổ phiếu là giấy chứng nhận số tiền nhà đầu tư đóng góp vào công ty phát hành. Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ đông của công ty đó. Nguời nắm giữ cổ phiếu trở thành cổ đông và đồng thời là chủ sở hữu của công ty phát hành. Thực tế không chỉ những cổ đông cá nhân thoái vốn, các NHCP lớn trước đây đã mạnh tay đầu tư vốn vào các Ngân hàng nhỏ cũng đang tìm cách thoái vốn để đảm bảo chỉ tiêu an toàn vốn [CAR] theo quy định tại Thông tư 13 của NHNN [có hiệu lực 1-10-2010]. Sức cung cổ phiếu ngày càng tăng trong khi tỷ suất cổ tức của các Ngân hàng nhỏ vẫn ở mức thấp so với lãi suất Ngân hàng, dù cổ tức ngành này tương đối ổn định. Nhưng thực tế từ đầu năm 2010 đến nay các NHTM đang phải nỗ lực chạy đua trước hàng loạt chỉ tiêu cơ quan quản lý quy định, đã tác động không chỉ đến hoạt động kinh doanh của Ngân hàng mà còn ảnh hưởng tâm lý nhà đầu tư quan tâm đến cổ phiếu ngành này. 19
  20. Cổ phiếu ngành Ngân hàng lình xình trong một thời gian dài đã khiến thị trường chứng khoán [TTCK] Việt Nam chưa thể có một đợt sóng lớn trong năm 2010. Nhiều số liệu cho thấy cổ phiếu Ngân hàng [CPNH] đang được giao dịch ở mức giá hấp dẫn nhưng vẫn không thuyết phục nhà đầu tư mua vào. TTCK Việt Nam hiện tại vẫn chưa phản ánh hết toàn bộ giá trị của các Ngân hàng vì nhiều CPNH vẫn chưa niêm yết đầy đủ. Với một thị trường mà nhà đầu tư, các công ty chứng khoán và qu ỹ đều chấp nhận chơi ngắn hạn sẽ rất khó để CPNH được ưa chuộng. Khối lượng cổ phiếu lưu hành quá lớn khiến cho những yếu tố đầu cơ rất khó “đụng” đến CPNH. 4.1.2. Giải pháp. Từ thực trạng trên, nhiều chuyên gia khẳng định không nên tìm cách “kích” CPNH trong ngắn hạn. CPNH có sức ì cũng tốt, nó là một cái đáy, cái nền của TTCK và trở thành của để dành cho nhà đầu tư. Các Ngân hàng sẽ phải nỗ lực hơn nếu muốn cổ phiếu của mình tăng trưởng, không thể cứ mãi tìm cách mở rộng mạng lưới, gia tăng tổng tài sản mà đi vào chiều sâu, tìm kiếm nguồn thu từ dịch vụ, không tiêu tốn quá nhiều vốn hoặc đòi hỏi chênh lệch giữa đầu vào đầu ra... Cũng với những con người, hạ tầng đó nhưng nếu năng động hơn, chuyên nghiệp hơn, nguồn thu sẽ được cải thiện đáng kể. Những Ngân hàng nào sớm tái cấu trúc được mô hình hoạt động của mình sẽ có lợi thế cạnh tranh, gia tăng lợi nhuận đột biến. 4.2. Trái phiếu 4.2.1. Khái niệm trái phiếu Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát hành [người vay tiền] phải trả cho người nắm giữ chứng khoán [người cho vay] một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn. Phát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành vay vốn, và như vậy, trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người nắm giữ trái phiếu [trái chủ] có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về khối lượng và thời hạn, song không có quyền tham gia vào những vấn đề của bên phát hành. Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố: + Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ thuộc vào chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của Ngân hàng trung ương, mức độ thâm hụt ngân sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó. 20

Page 2

YOMEDIA

Ngân hàng thương mại[ NHTM] là một chủ đề hiện đang được rất nhiều người quan tâm nghiên cứu trong thời gian qua. Nhưng trước tiên chúng ta cần hiểu NHTM là gì? Ngân hàng thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất của Ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. Ngân hàng thương mại là cầu nối giữa các cá nhân và tổ chức, hút vốn từ nơi nhàn rỗi và bơm vào nơi khan thiếu....

26-03-2011 3465 1006

Download

Giấy phép Mạng Xã Hội số: 670/GP-BTTTT cấp ngày 30/11/2015 Copyright © 2009-2019 TaiLieu.VN. All rights reserved.

Video liên quan

Chủ Đề