Trung Quốc bất đầu tiến hành công cuộc cải cách mở cửa vào thời gian nào của thế kỷ 20

Trung Quốc: Nhìn lại quá trình 40 năm cải cách, mở cửa

Ngày đăng: 22/11/2018 07:12
Mặc định Cỡ chữ
Hội nghị Trung ương 3 khóa XI Đảng Cộng sản Trung Quốc [năm 1978] mang ý nghĩa lịch sử quan trọng, mở ra một thời kỳ mới cho nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa trong công cuộc cải cách, mở cửa, hội nhập quốc tế. Trải qua 40 năm, sự nghiệp cải cách, mở cửa của Trung Quốc đạt nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, tạo cơ sở vững chắc đưa quốc gia này tiếp tục tiến lên con đường chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc.
Vận chuyển hàng hóa tại Liên Vận Cảng, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Ảnh: TTXVN

Các giai đoạn cải cách, mở cửa

Giai đoạn đầu chuyển đổi thể chế kinh tế [1978 - 1991]

Đảng Cộng sản Trung Quốc với phương châm “giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị”, chuyển trọng tâm công tác từ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm” nhằm mục tiêu xây dựng hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa. Giai đoạn đầu tập trung vào chuyển đổi thể chế kinh tế với việc “khoán ruộng đất”, “phát triển xí nghiệp hương trấn” ở nông thôn, sau đó tiến hành mở rộng thí điểm quyền tự chủ kinh doanh của xí nghiệp quốc hữu ở thành phố, tiến hành mở cửa, xây dựng đặc khu kinh tế, xây dựng các loại thị trường. Việc xây dựng các đặc khu kinh tế [SEZs] ở Trung Quốc tương đối thành công. SEZs đã phát huy được vai trò “cửa sổ” và “cầu nối” có ảnh hưởng tích cực đối với trong và ngoài nước. SEZs của Trung Quốc đã đạt được thành công bước đầu trong sự kết hợp giữa kế hoạch và thị trường. Những năm 1984 - 1991, cải cách xí nghiệp quốc hữu là trọng tâm, cải cách giá cả là then chốt trong toàn bộ cuộc cải cách. Trong giai đoạn chuyển đổi thể chế kinh tế [1979 - 1991], Trung Quốc đã tìm tòi, tổ chức thí điểm, từng bước tiếp nhận cơ chế thị trường, sửa chữa những khuyết điểm của thể chế kinh tế kế hoạch.

Giai đoạn xây dựng khung thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa [1992 - 2002]

Bước sang thập niên 90 của thế kỷ XX, tình hình thế giới diễn ra những biến đổi to lớn và sâu sắc. Hệ thống xã hội chủ nghĩa tan rã, Liên Xô giải thể, đảng cộng sản ở các nước Đông Âu mất địa vị cầm quyền. Chiến tranh lạnh kết thúc, nhiều nước tiến hành điều chỉnh chính sách phát triển kinh tế - xã hội, đối ngoại.

Tại Trung Quốc, sự nghiệp cải cách, mở cửa đối mặt với nhiều thách thức to lớn. Vấn đề cải cách, mở cửa thành công hay thất bại, đi theo con đường xã hội chủ nghĩa [họ Xã] hay tư bản chủ nghĩa [họ Tư] thổi bùng các cuộc tranh luận [đại luận chiến]. Trước tình hình đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc chủ trương gác lại các cuộc tranh luận, tiến hành “Ba điều có lợi” [có lợi cho phát triển sức sản xuất xã hội chủ nghĩa, có lợi cho đất nước, có lợi cho đời sống nhân dân], mạnh dạn xông pha vào thực tiễn và lấy thực tiễn để kiểm nghiệm. Đại hội XIV Đảng Cộng sản Trung Quốc [năm 1992] nêu mục tiêu xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh mở cửa. Đây được coi là cuộc giải phóng tư tưởng lần thứ hai, là mốc qụan trọng trong tiến trình cải cách, mở cửa ở Trung Quốc.

Đại hội XIV của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3 khóa XIV [năm 1993] thông qua “Quyết định về một số vấn đề xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa”, trong đó chỉ rõ: “lấy chế độ công hữu làm chủ thể, nhiều thành phần kinh tế khác cùng phát triển,... xây dựng chế độ phân phối thu nhập, lấy phân phối theo lao động làm chính, ưu tiên hiệu quả, quan tâm tới công bằng, khuyến khích một số vùng, một số người giàu có lên trước, đi con đường cùng giàu có”[1]. Đại hội XV Đảng Cộng sản Trung Quốc [năm 1997] đã xác định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa.

Giai đoạn đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa [2002 - 2012], cải cách theo chiều sâu

Năm 2001 Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới [WTO]. Sự kiện này đánh dấu tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng của Trung Quốc. Từ Đại hội XVI [năm 2002] Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, đứng đầu là Tổng Bí thư Hồ Cẩm Đào đã nêu ra quan điểm phát triển khoa học, xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy phát triển toàn diện hài hòa và bền vững kinh tế - xã hội. Đại hội XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc [năm 2007] nêu chủ trương từ “tam vị nhất thể” - bao gồm kinh tế, chính trị và văn hoá sang “tứ vị nhất thể” - bao gồm kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội.

Bước sang thế kỷ XXI, Trung Quốc đã xây dựng được cục diện cải cách, mở cửa toàn phương vị, đa tầng nấc; hình thành các cực tăng trưởng, Trước đó, Tiểu Chu Giang với nòng cốt là Quảng Châu, Thâm Quyến được coi là cực tăng trưởng thứ nhất của Trung Quốc, hình thành trong giai đoạn đầu của cải cách, mở cửa với việc xây dựng 4 đặc khu [Thâm Quyến, Chu Hải, Sán Đầu, Hạ Môn]. Tiếp đó, từ năm 1984, Trung Quốc tiến hành mở cửa 14 thành phố ven biển, ven sông, ven biên giới. Từ năm 1990, Trung Quốc đẩy mạnh xây dựng Phố Đông, coi đây là “đầu tàu” lôi kéo và kết nối các điểm tăng trưởng hạ lưu sông Trường Giang và ven biển Đông Hải. Sự ra đời của Phố Đông [Thượng Hải] đánh dấu sự xuất hiện cực tăng trưởng thứ hai của Trung Quốc. Ngày 6-6-2006, Chính phủ Trung Quốc đã công bố “Ý kiến về mấy vấn đề thúc đẩy mở cửa phát triển Khu mới Tân Hải Thiên Tân”, đánh dấu việc chủ trương đưa Thiên Tân vươn lên trở thành cực tăng trưởng thứ ba của Trung Quốc, gắn liền các điểm tăng trưởng xoay quanh vịnh Bột Hải. Tiếp đó, vùng Thành Đô - Trùng Khánh [Xuyên Du], Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ [Quảng Tây], Khu kinh tế bờ Tây [Phúc Kiến] cũng phấn đấu trở thành cực tăng trưởng tiếp theo ở Trung Quốc. Năm 2008, Quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn “Cương yếu quy hoạch Khu kinh tế Vịnh Bắc Bộ”, thể hiện quyết tâm của Trung Quốc trong xây dựng cực tăng trưởng mới - cực tăng trưởng kết nối giữa Trung Quốc và ASEAN.

Giai đoạn cải cách toàn diện và sâu rộng [từ năm 2012 đến nay]

Từ Đại hội XVIII của Đảng Cộng sản Trung Quốc, đặc biệt là Hội nghị Trung ương 3 khóa XVIII thông qua Nghị quyết về cải cách toàn diện và sâu rộng, thực hiện “giấc mộng Trung Quốc”, “phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa”. Tổng Bí thư Tập Cận Bình với tư cách là “hạt nhân lãnh đạo” đã kế thừa, phát huy và hoàn thiện cương lĩnh, đường lối phát triển của Trung Quốc, hình thành nên “Bố cục tổng thể”: phát triển “5 trong 1” [kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường] và bố cục chiến lược “Bốn toàn diện”. Kinh tế bước vào giai đoạn “trạng thái bình thường mới”, “Made in China 2025”... tìm kiếm chuyển đổi phương thức tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế và động lực phát triển mới. Sáng kiến “Vành đai, Con đường” được xem là giải pháp chiến lược, vừa thúc đẩy cải cách trong nước, vừa phát huy vai trò đối ngoại.

Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc thời đại mới đã được Đại hội XIX khẳng định, đưa vào Điều lệ Đảng, trở thành tư tưởng chỉ đạo đối với Đảng và Nhà nước Trung Quốc sau khi Hiến pháp được bổ sung, sửa đổi năm 2018. Trung Quốc đẩy mạnh cải cách, mở cửa toàn diện và sâu rộng hướng tới mục tiêu trở thành cường quốc xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

Thành tựu và những vấn đề đặt ra trong tiến trình cải cách, mở cửa của Trung Quốc

Thành tựu

Trong hai thập niên cuối thế kỷ XX, ở Trung Quốc đã diễn ra những thay đổi to lớn. Trung Quốc đã thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội với bước chuyển biến lịch sử là “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm”. Thể chế kinh tế, xã hội có bước chuyển biến mạnh mẽ theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Trung Quốc cũng đạt được nhiều thành công trong ổn định tình hình trước những biến động lớn của thế giới. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Trung Quốc cũng đứng trước những thách thức to lớn, như phân hóa giàu nghèo, phân cực đô thị - nông thôn, ô nhiễm môi trường, nợ công của các địa phương, tham nhũng... Xây dựng Nhà nước pháp trị xã hội chủ nghĩa trở thành phương hướng cải cách và phát triển chính trị ở Trung Quốc trước thềm thế kỷ XXI. Nâng cao năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc, kiện toàn hệ thống chính trị, đẩy mạnh dân chủ xã hội chủ nghĩa trở thành yêu cầu và đòi hỏi quan trọng để Trung Quốc ứng phó thành công với khủng hoảng tài chính tiền tệ châu Á [năm 1997] và đặc biệt là chủ động mở cửa, đưa Trung Quốc phát triển vượt bậc khi gia nhập WTO. Năm 2010, Trung Quốc đã vượt Nhật Bản trở thành nền kinh tế có tổng lượng GDP lớn thứ hai trên thế giới sau Mỹ[2]. Mức tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1997 - 2008 bình quân đạt trên 8%/năm.

Từ khi bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI đến nay, kinh tế Trung Quốc đạt được nhiều thành tựu. Năm 2017, GDP của Trung Quốc đạt 82.712,2 tỷ nhân dân tệ [NDT], tăng 6,9% so với năm 2016[3]. Tốc độ tăng trưởng bình quân GDP của Trung Quốc trong giai đoạn 2013 - 2017 là 7,1%, trong khi mức tăng trưởng trung bình của toàn cầu là 2,6% và của các nền kinh tế đang phát triển là 4%. Mức đóng góp trung bình của Trung Quốc vào tăng trưởng kinh tế thế giới trong giai đoạn 2013 - 2017 là khoảng 30%, lớn nhất trong tất cả các quốc gia và cao hơn cả tổng mức đóng góp của Mỹ, các nước trong khu vực đồng ơ-rô và Nhật Bản[4]. Một điểm đáng chú ý nữa là GDP của Trung Quốc năm 2016 đã đạt 10.730 tỷ USD, hoàn thành sớm hơn 4 năm mục tiêu GDP năm 2020, tăng gấp 4 lần năm 2000. Tỷ trọng GDP của Trung Quốc trong GDP toàn cầu từ 1,8% năm 1978 tăng lên 15% năm 2018.

Sáng tạo trở thành định hướng và giải pháp quan trọng trong chuyển đổi phương thức phát triển kinh tế của Trung Quốc. Mức chi cho nghiên cứu và phát triển [R&D] đã tăng 52,2% kể từ năm 2012, đạt 1.570 tỷ NDT vào năm 2016. Tỷ lệ chi tiêu cho R&D trong GDP đã tăng từ 1,91% lên 2,11% [từ năm 2012 đến 2016]. Số lượng các đơn xin cấp bằng sáng chế mà Trung Quốc nhận được trong năm 2016 tăng 69% kể từ năm 2012, trong khi số bằng sáng chế được cấp năm 2016 tăng 39,7% kể từ năm 2012. Năm 2017, chi cho R&D là 1.750 tỷ NDT, tăng 11,6% so với năm 2016.

Từ năm 2013, Trung Quốc đã trở thành quốc gia hàng đầu trên toàn cầu về doanh số bán rô-bốt công nghiệp. Cường quốc rô-bốt sẽ là một nhiệm vụ chiến lược để Trung Quốc thúc đẩy mạnh mẽ Chiến lược “Made in China 2025”. Năm 2016, Trung Quốc đầu tư cho R&D là 1.567,67 tỷ NDT; nguồn tài chính dành cho khoa học công nghệ là 776,07 tỷ NDT. Năm 2016, trong số 53 doanh nghiệp khoa học công nghệ tiến hành IPO trên thế giới [phát hành cổ phiếu ra công chúng lần đầu], Trung Quốc có 18 doanh nghiệp. Năm 2016, Trung Quốc trở thành nước xuất khẩu các sản phẩm khoa học công nghệ cao đứng đầu châu Á. Các hạng mục khoa học lớn được hoàn thành, như máy tính Thiên Hà, tàu vũ trụ Thần Châu, trạm vũ trụ Thiên Cung, máy lặn Giao Long, máy bay vận tải cỡ lớn..

Về kinh tế đối ngoại, giá trị của thương mại hàng hóa đạt 27,7 nghìn tỷ NDT vào năm 2017, chiếm hơn 11% tổng khối lượng thương mại toàn cầu. Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của hơn 120 nước.

Mức độ đô thị hóa từ 17,9% năm 1978 tăng lên 58,5% năm 2017. Số thành phố từ 193 tăng lên 657 thành phố. Hiện nay, Trung Quốc có 136.000km đường cao tốc và 25.000km đường sắt cao tốc. Năm 2017, đường sắt cao tốc chuyên chở hơn 3 tỷ lượt khách[5].

Thu nhập của người dân được nâng cao, với mức bình quân đầu người tăng từ 7.311 NDT năm 2012 lên 23.821 NDT năm 2016, tỷ lệ tăng hằng năm là 7,4%. Năm 2017, thu nhập bình quân cư dân đạt 25.974 NDT. Thu nhập bình quân đầu người của người dân nông thôn ở khu vực nghèo tăng bình quân 10,7% trong giai đoạn 2013 - 2016, tăng nhanh hơn mức bình quân 8% đối với tất cả người dân nông thôn. Số người nghèo ở nông thôn từ 97,5% năm 1978 giảm xuống 3,1% năm 2017, còn khoảng 30,46 triệu người nghèo[6]. Mạng lưới an sinh xã hội đã được hình thành rộng khắp. Bảo hiểm dưỡng lão xã hội đã bao phủ tới 900 triệu dân, bảo hiểm y tế cơ bản đã tới hơn 1,3 tỷ người dân.

Năm 2017, dân số Trung Quốc là 1,39 tỷ người, trong đó dân số đô thị khoảng 813,47 triệu người. Số nghiên cứu sinh là 2,63 triệu người, sinh viên đại học, cao đẳng: 27,53 triệu, số học sinh trung học phổ thông: 23,74 triệu; trung học cơ sở: 44,42 triệu; tiểu học: 1.009 triệu. Từ năm 2011, số lượng nhân lực khoa học - công nghệ đã vượt 63 triệu người, năm 2017 đạt 81 triệu người. Số sinh viên du học nước ngoài trở về nước là hơn 1,1 triệu người. Năm 2016, số lượng đăng ký bản quyền tác giả là 1.257.439 [WIPO]. Năm 2017, Trung Quốc đứng thứ 25 trong bảng xếp hạng “sức mạnh mềm” thế giới.

Những vấn đề đặt ra đối với Trung Quốc hiện nay

Sau 40 năm tiến hành cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã đạt được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt, song cũng đang đứng trước nhiều vấn đề, thách thức lớn. Trung Quốc đang tìm kiếm sự thay đổi về phương thức và mô hình phát triển thay thế phương thức tăng trưởng chủ yếu dựa vào tài nguyên và nhân công rẻ, dựa vào đầu tư lớn và xuất khẩu mạnh trước đây. Kinh tế Trung Quốc nằm trong xu thế suy giảm tăng trưởng. Tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc năm 2014 là 7,4%, mức thấp nhất trong 24 năm kể từ năm 1990, năm 2015 là 6,9%; năm 2016: 6,7%; năm 2017: 6,9%. Vấn đề đặt ra đối với kinh tế Trung Quốc hiện nay là chất lượng tăng trưởng kinh tế vẫn còn thấp, mất cân bằng, không hợp lý và không bền vững. Vấn đề nợ công và vấn đề sản xuất thừa vẫn chưa được giải quyết. Do tăng trưởng tốc độ cao trong một thời gian dài, những hệ lụy để lại cho nền kinh tế Trung Quốc vẫn chưa được giải quyết triệt để, chưa được khắc phục kịp thời, như cạn kiệt các nguồn tài nguyên và ô nhiễm môi trường, mức độ chênh lệch giàu - nghèo cao, phát triển không cân đối... vượt qua “bẫy thu nhập trung bình”, hướng tới thu nhập cao, chất lượng cao, phát triển xã hội và quản trị xã hội vẫn là những thức thức lớn. Từ năm 2018, vận hành kinh tế Trung Quốc là vượt qua ba trận chiến phòng ngừa hóa giải rủi ro lớn, xóa đói, giảm nghèo chuẩn xác, phòng, chống ô nhiễm[7] ; phát triển từ “tốc độ cao” sang “chất lượng cao” đặt ra nhiều thử thách lớn không dễ giải quyết nhanh chóng.

Trọng tâm của cải cách, xây dựng hiện đại hóa của Trung Quốc sẽ mở rộng từ kinh tế sang chính trị, xã hội. Qua bốn thập niên cải cách, mở cửa, các tầng lớp xã hội mới xuất hiện, sự di động xã hội giữa các tầng lớp và khu vực diễn ra mạnh mẽ. Sự xuất hiện của các tầng lớp xã hội mới, đặc biệt là tầng lớp trung lưu gắn với xây dựng xã hội khá giả sẽ là nhân tố không thể bỏ qua trong quá trình cải cách chính trị ở Trung Quốc. Việc chuyển đổi mô hình phát triển, cải cách xã hội đòi hỏi Đảng Cộng sản Trung Quốc phải chuyển đổi phương thức lãnh đạo và nâng cao năng lực cầm quyền. Xây dựng và thúc đẩy pháp trị, dân chủ trở thành yêu cầu bức thiết.

Cục diện thế giới có nhiều diễn biến mới với vai trò và vị thế của Trung Quốc được nâng cao khi tổng lượng kinh tế đã đứng thứ hai thế giới. Mặt khác, Trung Quốc cũng phải đối mặt với những thách thức về vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, giữa cải cách trong nước và mở cửa đối ngoại, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước láng giềng, đặc biệt là cạnh tranh chiến lược với các nước lớn hiện nay.

Bài học kinh nghiệm

Qua bốn mươi năm cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm có giá trị tham khảo cho các mô hình chuyển đổi.

Thứ nhất, giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị. Cải cách, mở cửa trước hết phải giải phóng tư tưởng, đổi mới tư duy. Chuyển từ “lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” sang “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm” là bước đột phá về giải phóng tư tưởng, đổi mới tư duy; “thực tiễn là tiêu chuẩn duy nhất kiểm nghiệm chân lý”, lấy cải cách kinh tế làm trọng tâm, phát triển miền duyên hải phía Đông giàu có lên trước; đó còn là nhận thức và giải quyết các mâu thuẫn chủ yếu trong xã hội, nhận thức về thời đại của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Thứ hai, cải cách theo định hướng thị trường: Cải cách, mở cửa là quá trình thay đổi nhận thức và hành động cải cách theo định hướng thị trường; phát huy được các nguồn lực trong xã hội. Qua 40 năm cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã gây dựng được các loại thị trường của các loại hàng hóa, ngành, nghề; xây dựng các chuỗi giá trị theo các ngành nghề, hàng hóa; các nguồn vốn xã hội được huy động và phát huy. Kinh tế dân doanh trở thành lực lượng quan trọng. Năm 2017, Trung Quốc có 65,79 triệu hộ công thương cá thể, có hơn 27,2 triệu doanh nghiệp công thương dân doanh, đóng góp thuế vượt 50% tổng thuế thu; đóng góp cho GDP và đầu tư ra nước ngoài đều vượt 60%, chiếm hơn 70% doanh nghiệp kỹ thuật cao mới[8].

Thứ ba, tiến trình cải cách, mở cửa là tiến trình xử lý các cặp quan hệ giữa cải cách - phát triển và ổn định, giữa nhà nước với thị trường và xã hội, giữa kinh tế với chính trị và xã hội. Cải cách ở Trung Quốc tiến hành theo phương thức tiệm tiến, lấy cải cách kinh tế làm trọng tâm; thí điểm trước, nhân rộng sau.

Tiến trình cải cách, phát triển ở Trung Quốc 40 năm qua phản ánh quá trình kết hợp giữa cải cách thể chế kinh tế và thể chế chính trị [như thực hiện chế độ khoán ở nông thôn, cải cách doanh nghiệp nhà nước, cải cách hành chính, chuyển chức năng của chính quyền theo hướng xây dựng chính phủ pháp trị, phục vụ; thực hiện chiến lược phát triển phối hợp vùng, miền...] Tuy nhiên, để cải cách sâu rộng, toàn diện thì cải cách thể chế phải đi trước một bước. Cải cách chính trị, xã hội phải có sự thích ứng trước những biến đổi của tình hình mới, yêu cầu mới. Phải đổi mới tư duy và tháo gỡ về thể chế để mở đường, dẫn dắt. Trung Quốc cũng chú ý giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc, quan tâm phát triển xã hội, bảo đảm công bằng và bình đẳng.

Một trong những bài học kinh nghiệm lớn của Trung Quốc qua 40 năm cải cách, mở cửa là thực hiện kết hợp giữa sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhân dân làm chủ và quản trị đất nước theo pháp luật; giải quyết mối quan hệ giữa cải cách kinh tế và cải cách chính trị - xã hội; phát huy sáng tạo của đội ngũ trí thức, tính tích cực của các tầng lớp xã hội. Xây dựng hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả, hiệu lực pháp luật, ý thức chấp hành pháp luật, minh bạch... Nâng cao năng lực quản trị quốc gia.

Từ cải cách mở cửa, thể chế chính trị đã được hình thành với mô thức: “Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, quản trị đất nước theo pháp luật” và bốn chế độ cơ bản “chế độ đại hội đại biểu nhân dân, chế độ hợp tác đa đảng do Đảng Cộng sản lãnh đạo và hiệp thương chính trị; chế độ tự trị dân tộc và chế độ tự trị quần chúng cơ sở”. Theo thống kê năm 2016, Trung Quốc có 4,518 triệu tổ chức cơ sở đảng với 89,447 triệu đảng viên[9]. Đây là lực lượng chính và cơ sở để Đảng Cộng sản Trung Quốc triển khai các công tác. Đây cũng là lực lượng lãnh đạo xã hội, lực lượng nòng cốt trong thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Trung Quốc.

Từ quá trình cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã vượt qua hai cuộc khủng hoảng kinh tế [năm 1997 và năm 2007], vượt qua thách thức chu kỳ kinh tế. Trung Quốc cũng vượt qua thách thức của bất ổn xã hội [đỉnh cao là sự kiện Thiên An Môn năm 1989].

Trung Quốc đã lợi dụng tốt thời cơ gia nhập WTO, đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng, tận dụng tốt các nguồn lực trong và ngoài nước, bứt phá trong phát triển, trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới. Trung Quốc cũng chú trọng giải quyết vấn đề “tam nông”, bảo đảm các vấn đề về an ninh, quản lý và phát triển xã hội. Trung Quốc cũng đã có nhiều kinh nghiệm trong sử dụng “thời kỳ cơ hội chiến lược”, xử lý quan hệ với các nước lớn, đặc biệt là với Mỹ.

Trung Quốc đang nỗ lực phấn đấu hướng tới mục tiêu xây dựng thành công xã hội khá giả toàn diện, hướng tới mục tiêu cơ bản hoàn thành hiện đại hóa vào năm 2035 và trở thành cường quốc hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI.

Trung Quốc cũng bước vào “thời đại mới”, với sự chuyển biến từ “xây dựng kinh tế làm trung tâm” sang “lấy nhân dân làm trung tâm”, giải quyết các mâu thuẫn chủ yếu mới. Về kinh tế, tiếp tục đẩy mạnh chuyển biến từ “tốc độ cao” sang “chất lượng cao” qua các giải pháp, như xây dựng hệ thống kinh tế hiện đại hóa, tiếp tục thúc đẩy ý tưởng chiến lược “Vành đai, Con đường”, đẩy mạnh thực hiện thí điểm các khu mậu dịch tự do mới, tiêu biểu là khu mậu dịch tự do thí điểm Hải Nam. Trung Quốc đang hướng tới mục tiêu cường quốc với sự tin tưởng về con đường, lý luận, chế độ và văn hóa [4 tự tin].

Tuy nhiên, Trung Quốc tiến hành cải cách giai đoạn mới trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực biến đổi nhanh chóng và khó lường. Đặc biệt là sự đối nghịch giữa xu hướng đẩy mạnh toàn cầu hóa kinh tế và chống toàn cầu hóa kinh tế, chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, chủ nghĩa dân tộc, dân túy... trong khi tình hình địa - chính trị xung quanh Trung Quốc có nhiều thách thức, như vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, quan hệ hai bờ eo biển Đài Loan, vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển với một số nước Đông Á..., cạnh tranh giữa các nước lớn trong khu vực và trên thế giới, đặc biệt là cạnh tranh chiến lược Trung Quốc - Mỹ, thể hiện trực tiếp qua cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung Quốc hiện nay.

Bước sang thập niên thứ ba của thế kỷ XXI, dự báo Trung Quốc về cơ bản giữ được ổn định xã hội, kinh tế giữ tốc độ tăng trưởng trung bình, song những mâu thuẫn lớn có khả năng phát sinh từ nửa cuối thập niên thứ ba thế kỷ XXI. Chúng ta trông chờ Trung Quốc tiếp tục phát triển phồn vinh, đóng góp tích cực cho hòa bình và phát triển trong khu vực và trên thế giới. /.

TS.Nguyễn Xuân Cường - Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

---------------------------------------------------------

[1] //www.china.com.cn/chinese/archive/131747.htm
[2] //finance.sina.com.cn/roll/20100818/01258499585.shtml
[3] Công báo thống kê kinh tế xã hội Trung Quốc 2017 [人民日报 2018年03月01日 10 版]
[4] //europe.chinadaily.com.cn/business/2017-10/11/content_33104818.htm
[5] //www.gov.cn/xinwen/2018-02/14/content_5266772.htm
[6] //www.xinhuanet.com/politics/2018-09/04/c_1123374403.htm
[7] //politics.people.com.cn/n1/2017/1221/c1001-29719813.html [21-12-2017]
[8] //www.xinhuanet.com/fortune/2018-05/02/c_1122769552.htm
[9] //www.xinhuanet.com/politics/2017-06/30/c_1121242478.htm

Theo: tapchicongsan.org.vn

Về trang trước
Gửi email In trang

Mục lục

Cải cách kinh tế Trung Quốc [giản thể: 改革开放; bính âm: Găigé kāifàng] [Cải cách khai phóng]; [chi tiết theo từng chữ:cải cách và mở cửa; được nói ở phương Tây là Mở cửa Trung Quốc] nói tới những chương trình cải cách kinh tế được đặt tên là"Chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc" và "kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa" ở Cộng hòa nhân dân Trung Quốc chương trình mà những nhà cải cách trong Đảng cộng sản Trung Quốc - được lãnh đạo bởi Đặng Tiểu Bình- đã bắt đầu vào 18 tháng 12 năm 1978.

Trước cải cách, nền kinh tế Trung Quốc bị chi phối bởi sở hữu nhà nước và kế hoạch hóa tập trung. Từ năm 1950 tới 1973, GDP thực tế bình quân đầu người của Trung Quốc tăng trung bình 2,9% mỗi năm; mặc dù sự thay đổi thất thường bắt nguồn từ Đại nhảy vọt và Cách mạng văn hóa. Mức này gần với mức trung bình của những quốc gia châu Á trong thời kì này, so với những quốc gia tư bản như Nhật Bản, Nam Triều Tiên và của Đài Loan thì tỉ lệ tăng của Trung Quốc thấp hơn nhiều. Bắt đầu năm 1970, nền kinh tế đã bước vào một giai đoạn trì trệ, và sau cái chết của Mao Trạch Đông, lãnh đạo Đảng cộng sản hướng vào cải cách theo định hướng thị trường để cứu sự sụp đổ của nền kinh tế.

Những người cầm quyền Đảng cộng sản đã thực hiện những cải cách thị trường trong hai giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên, khoảng cuối những năm thập kỷ 70 và đầu những năm thập kỷ 80, bao gồm phi tập thể hóa nông nghiệp, mở của đất nước để đón nhận đầu tư nước ngoài, và cho phép doanh nhân bắt đầu công việc kinh doanh. Tuy niên hầu hết nền công nghiệp vẫn thuộc sở hữu nhà nước. Giai đoạn hai của cải cách, khoảng cuối những năm thập kỉ 80 và đầu thập kỉ 90, bao gồm tư nhân hóa và rút vốn khỏi nhiều ngành công nghiệp thuộc sở hữu nhà nước và bãi bỏ những chính sách kiểm soát giá cả, chủ nghĩa bảo hộ, và các quy định, mặc dù sự độc quyền nhà nước trong nhiều lĩnh vực như ngân hàng và dầu mỏ vẫn còn. Khu vực tư nhân đã phát triển đặc biệt, chiếm 70% tổng sản phẩm quốc nội khoảng năm 2005. Từ năm 1978 cho tới 2013, sự phát triển chưa từng thấy đã xảy ra, với nền kinh tế tăng khoảng 9.5% một năm. Chính quyền bảo thủ của Hồ Cẩm Đào đã điều chỉnh và quản lý nền kinh tế chậm chạp hơn sau năm 2005, đảo chiều một vài cải cách.

Trung Quốc: Thành tựu sau 40 năm cải cách mở cửa

09:49 13/09/2018
Trong 40 năm qua, từ khi Trung Quốc thực hiện cải cách mở cửa, các chuyên gia kinh tế đều thừa nhận, thành tích kinh tế mà Trung Quốc đã giành được là “kỳ tích”. “Phép màu” kinh tế Trung Quốc thực sự vượt khỏi những quan điểm thông thường, với khoảng 800 triệu người thoát nghèo chỉ sau vài thế hệ và Trung Quốc hiện đã trở thành một phần không thể thiếu của kinh tế toàn cầu.

  • Trung Quốc tiếp tục công cuộc cải cách mở cửa
  • Trung Quốc kỷ niệm 30 năm cải cách mở cửa

Những kỷ lục lịch sử

Nhiều tờ báo của Trung Quốc đã tổng kết, khi mới thực hiện cải cách mở cửa vào năm 1978, Trung Quốc là một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới. Theo chỉ số thống kê của Ngân hàng Thế giới [WB], tổng sản phẩm quốc nội [GDP] bình quân đầu người của Trung Quốc vào năm 1978 chỉ có 156 USD. Thời điểm đó, các nước ở vùng hạ Sahara, châu Phi, nơi được cho là khu vực nghèo nhất trên thế giới, nhưng GDP bình quân đầu người vào năm 1978 là 490 USD.

Tại thời điểm năm 1978, khi chưa cải cách mở cửa, Trung Quốc có tới 81% dân số sinh sống ở khu vực nông thôn, 84% dân số sống dưới mức chuẩn nghèo quốc tế với 1,25 USD/ngày. Khi đó, Trung Quốc cũng là nền kinh tế hướng nội, xuất khẩu chỉ chiếm 4,1% GDP, nhập khẩu chiếm 5,6%, cộng cả xuất khẩu và nhập khẩu chỉ có 9,7%. Hơn nữa, trên 75% hàng xuất khẩu là nông sản hoặc hàng gia công nông nghiệp.

Vậy mà, trên nền tảng yếu ớt ấy, theo thống kê, từ năm 1978-2017, kinh tế Trung Quốc đã giành được tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm là 9,5% trong 39 năm liên tiếp, chưa từng có quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào khác trong lịch sử nhân loại có tốc độ tăng trưởng cao và kéo dài như vậy, hơn nữa tốc độ tăng trưởng bình quân hằng năm của ngoại thương Trung Quốc đạt 14,5%, đây cũng là điều chưa từng có quốc gia nào trong lịch sử nhân loại có thể chuyển đổi từ nền kinh tế khép kín thành nền kinh tế mở cửa nhanh như vậy.

Với tốc độ tăng trưởng này, năm 2009 quy mô kinh tế của Trung Quốc vượt Nhật Bản, trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới. Năm 2010 kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc vượt Đức trở thành nước xuất khẩu lớn nhất tế giới, hơn nữa do trên 97% sản phẩm xuất khẩu là sản phẩm của ngành sản xuất, nên Trung Quốc được gọi là “công xưởng của thế giới”.

Sau 40 năm cải cách mở cửa, cuộc sống của người dân Trung Quốc đổi thay theo hướng tích cực. Ảnh: Time.

Anh là nước được gọi là “công xưởng của thế giới” sớm nhất sau cách mạng công nghiệp [cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19]. Cuối thế kỷ 19 nửa đầu thế kỷ 20 Mỹ trở thành “công xưởng của thế giới”. Sau Thế chiến hai, Đức, Nhật Bản trở thành “công xưởng của thế giới”. Và hiện nay là Trung Quốc.

Đánh dấu 40 năm tiến hành cải cách và mở cửa, Trung Quốc đã trở thành gã khổng lồ kinh tế với dự trữ ngoại hối lớn nhất thế giới [3.120 tỷ USD], GDP lớn thứ hai thế giới [11.000 tỷ USD] và có mức đầu tư trực tiếp nước ngoài cao thứ ba thế giới [170 tỷ USD]. Tỷ lệ nền kinh tế nước này trong nền kinh tế thế giới đã tăng từ chỉ 1,8% vào năm 1978 lên mức 18,2% đáng kinh ngạc trong năm 2017.

Các cải cách đã khởi động một cuộc quá độ xã hội - kinh tế không thể sánh được trong lịch sử nhân loại. GDP của Trung Quốc đã tăng 3.230% từ năm 1978 đến năm 2016, giúp 700 triệu người thoát khỏi cảnh nghèo đói và tạo ra 385 triệu người thuộc tầng lớp trung lưu mới.

Năm 2017, giá trị Tổng sản phẩm quốc nội [GDP] của Trung Quốc đạt 82.700 tỷ nhân dân tệ [hơn 12.100 tỷ USD], chiếm khoảng 15% tổng lượng kinh tế thế giới; tỷ lệ đóng góp của Bắc Kinh vào tăng trưởng kinh tế toàn cầu lên tới hơn 30%. Dự báo, năm 2018, GDP của Trung Quốc đạt mức 13.200 tỷ USD, vượt qua quy mô của nền kinh tế Khu vực đồng tiền chung châu Âu [Eurozone].

Với tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 3.690 tỷ USD, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của gần 130 quốc gia và khu vực, đồng thời là thị trường nhập khẩu tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Trung Quốc còn là nước có dự trữ ngoại hối, đầu tư ra nước ngoài và hệ thống công nghiệp hoàn thiện nhất thế giới.

Hàng hóa ngoại thương của Trung Quốc tăng 17.500%, biến Trung Quốc trở thành nước dẫn đầu thế giới về ngoại thương kể từ năm 2015. Năm 2013, tổng kim ngạch thương mại Trung Quốc vượt Mỹ, trở thành nước thương mại lớn nhất thế giới. Năm 2014, theo tính toán sức mua tương đương [PPP], quy mô kinh tế Trung Quốc vượt Mỹ, trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người năm 2017 đạt 8.640 USD, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình cao.

Trong quá trình này, hơn 700 triệu người Trung Quốc đã thoát nghèo theo chuẩn nghèo quốc tế, tỷ lệ đóng góp đối với sự nghiệp xóa đói giảm nghèo trên thế giới trong 40 năm qua là hơn 70%. Trong khoảng thời gian này, tuy thuyết về sự sụp đổ của nền kinh tế Trung Quốc liên tục nổi lên nhưng từ cải cách mở cửa đến nay, Trung Quốc là quốc gia duy nhất trên thế giới không xuất hiện khủng hoảng kinh tế.

1 trong 13 nền kinh tế tăng trưởng tốt nhất thế giới

Câu hỏi đặt ra là vì sao cuộc cải cách mở cửa của Trung Quốc có thể giành được những kỳ tích mang tính lịch sử? Sau Thế chiến hai, có 13 nền kinh tế tận dụng ưu thế của các nước phát triển để thực hiện tăng trưởng kinh tế bình quân 7%/năm hoặc cao hơn, liên tục trong 25 năm thậm chí lâu hơn, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển.

Sau cải cách mở cửa, Trung Quốc là 1 trong 13 nền kinh tế có biểu hiện tốt nhất, cũng là nền kinh tế có tốc độ đuổi kịp và vượt qua nhanh nhất. Lâm Nghị Phu, chuyên gia kinh tế, từng là Phó Tổng Giám đốc Ngân hàng Thế giới cho rằng nguyên nhân chủ yếu khiến kinh tế Trung Quốc có thể thực hiện tăng trưởng với tốc độ cao sau cải cách mở cửa là do Trung Quốc đã tận dụng ưu thế của cải cách thị trường; việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoặc nhà nước chủ đạo sang nền kinh tế thị trường đã giúp Trung Quốc phát triển ổn định và nhanh chóng.

Vào năm 1978, ông Đặng Tiểu Bình lãnh đạo đất nước bước vào một thời đại tăng trưởng chưa từng có. “Nền kinh tế Trung Quốc đã tăng trưởng trung bình khoảng 10%/năm trong thực tế”. Sự biến đổi trong nước cũng mang lại một sự biến đổi mang tính quốc tế. Trung Quốc đã vượt Mỹ trở thành điểm đến hàng đầu cho đầu tư trực tiếp nước ngoài của thế giới vào năm 2012.

Sau năm 1990, không một quốc gia nào khác phát triển nhiều hoặc nhanh như Trung Quốc. Khi Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới [WTO] vào năm 2001, đó là sự khởi đầu của một kỷ nguyên toàn cầu hóa mới. Trong năm 2005, khối kinh tế gồm các nền kinh tế mới nổi đã được tạo ra - BRICS [Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi]. Kể từ khi khối này mới thành lập, Trung Quốc đã có một vai trò then chốt trong khối.

Vào năm 2030, nếu Trung Quốc tiếp tục tăng trưởng nhanh chóng, và Mỹ tiếp tục tăng trưởng theo cách hiện tại, thì Trung Quốc sẽ bắt kịp Mỹ. Năm 2017, thương mại toàn cầu của Trung Quốc đạt hơn 630 tỷ USD. Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường đã nói vào năm 2014 khi chủ trì một cuộc họp tại Quốc vụ viện: “Ngoại thương là một phần quan trọng cũng như là động lực của nền kinh tế quốc gia”.

Cuối cùng, Trung Quốc đã khẳng định sự thành công của các cải cách liên tục trong ngoại thương và đã duy trì khả năng duy trì một tốc độ tăng trưởng xuất khẩu lành mạnh.

GDP tính theo ngang giá sức mua của Trung Quốc cao hơn so với của Mỹ vì nhiều lý do khác nhau. Giao thông công cộng của Trung Quốc xuất sắc và hiệu quả. Thực phẩm, quần áo và nhà ở của Trung Quốc rẻ hơn so với của Mỹ. Ngoài ra, Trung Quốc cung cấp giáo dục miễn phí trong 9 năm. Chính phủ Trung Quốc rất coi trọng giáo dục. Nước này tin rằng giáo dục là cơ sở để phát triển và hiện đại hóa đất nước.

Thứ hai, Chính phủ Trung Quốc đã đầu tư rất nhiều vào cơ sở hạ tầng thúc đẩy GDP, đặc biệt là ở các thành phố top đầu. Trung Quốc đã tạo ra hệ thống cấp bậc để phân loại các thành phố của mình, dựa trên GDP, chính trị và dân số. Trung Quốc có hơn 600 thành phố các cấp, được chia thành 4 cấp.

Từ một nước nghèo thành cường quốc có tầm ảnh hưởng toàn cầu

Sự trỗi dậy của Trung Quốc không chỉ là câu chuyện về sự phát triển trong kỷ nguyên hậu Thế chiến hai, mà còn về thành công của công cuộc quá độ từ một nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường.

Các chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng Cộng sản Trung Quốc đã phát triển trong nhiều năm. Các giá trị cốt lõi của chủ nghĩa xã hội hiện diện khắp mọi nơi ở Trung Quốc và được đưa vào sách giáo khoa Trung Quốc. Trong số nhiều nước đi theo con đường tương tự, Trung Quốc đã trở thành biểu tượng cho công cuộc quá độ thành công.

Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Tập Cận Bình, Trung Quốc đã chấm dứt thời kỳ “giấu mình chờ thời” để vươn ra thế giới. Từ tháng 3-2013, thời điểm Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình nhậm chức, trọng tâm và phương pháp chính sách ngoại giao Trung Quốc đã có hàng loạt dấu mốc điều chỉnh lớn, tương ứng với sự thay đổi phát triển của môi trường quốc tế. Số lượng các hoạt động ngoại giao chủ động của Trung Quốc thực hiện ở cấp độ song phương và đa phương tăng nhanh.

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã đi thăm khoảng 60 quốc gia trên thế giới, tiếp đón hơn 110 nguyên thủ nước ngoài đến Trung Quốc. Những hoạt động ngoại giao quan trọng này không những giúp tăng cường sự hiểu biết của cộng đồng quốc tế về Trung Quốc và nâng cao vị thế của Bắc Kinh mà còn hoạch định phương hướng giải quyết nhiều vấn đề có tính toàn cầu.

Nhiều thành phố hiện đại đã mọc lên tại Trung Quốc. Ảnh: Testmylife.com.

Bên cạnh đó, tăng cường ngoại giao nhân dân, giáo dục, trao đổi văn hóa, quảng bá các giá trị Trung Hoa ra thế giới cũng là một kênh quan trọng mà các nhà hoạch định chính sách của Trung Quốc tận dụng tối đa để gia tăng “sức mạnh mềm”. Trung Quốc hiện là nước đứng đầu châu Á, đứng thứ 3 thế giới về thu hút sinh viên nước ngoài sau Mỹ và Anh.

Nhiều sinh viên nhận được hỗ trợ từ Chính phủ Trung Quốc. Năm 2016, có 442.431 sinh viên nước ngoài từ hơn 200 nước học tập và nghiên cứu ở Trung Quốc, tăng 35% so với năm 2012. Với việc các trường đại học Trung Quốc ngày càng tăng thứ bậc trong bảng xếp hạng toàn cầu, tốc độ quốc tế hóa nhanh chóng, chính sách khuyến khích các sinh viên nước ngoài học tập ở Trung Quốc, cùng với chi phí học tập và sinh sống ở đây dễ chịu hơn so với các nước phương Tây, Trung Quốc sẽ sớm trở thành điểm đến hàng đầu cho các sinh viên quốc tế.

Sự thành công của nền kinh tế, tốc độ phát triển cơ sở hạ tầng, những tiến bộ nghiên cứu và khoa học, thành công trong các lĩnh vực thể thao và văn hóa của Trung Quốc sẽ tiếp tục giúp tăng cường “quyền lực mềm” của Bắc Kinh trong tương lai. Có thể thấy Trung Quốc đang ngày càng mở rộng tầm ảnh hưởng ra bên ngoài, không chỉ ở châu Á, mà đã vươn mạnh sang cả châu Phi, châu Âu và Nam Mỹ.

Thông qua chính sách đối ngoại thực dụng, Trung Quốc đang từng bước thực hiện tham vọng tới năm 2050 sẽ trở thành cường quốc có vai trò toàn cầu và tầm ảnh hưởng dẫn đầu thế giới.

Từ một nước trước kia không hề đóng vai trò gì trong các chiến dịch gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc cách đây 20 năm, Trung Quốc ngày nay chính là nước có đóng góp quân số lớn nhất. Trung Quốc cũng là nước đóng góp hơn 10% ngân sách Liên Hiệp Quốc, cao hơn nhiều quốc gia và chỉ xếp sau Mỹ - nước chi trả tới 28,5% ngân sách.

Quyền lực mềm và chính trị phụ thuộc một phần vào việc một siêu cường có đội ngũ các nhà ngoại giao đủ sức truyền thông điệp trên khắp thế giới và thuyết phục các quốc gia khác phục vụ lợi ích của mình.

Trong lĩnh vực văn hóa, Trung Quốc đã thiết lập các trung tâm Khổng Tử trên khắp thế giới để truyền bá tư tưởng của mình. Trung Quốc cũng khuyến khích du khách và sinh viên tới các quốc gia khác.

Tuy nhiên, Trung Quốc cũng phải đối phó với các thách thức. Trịnh Vĩnh Niên, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Đông Á - Đại học Quốc gia Singapore , mới đây có bài viết nhận định rằng, kể từ khi bước vào kỷ nguyên mới, những rủi ro bên trong và bên ngoài mà Trung Quốc phải đối mặt vẫn là “hai cái bẫy” quen thuộc đó là “bẫy thu nhập trung bình” ở bên trong và “bẫy Thucydides” ở bên ngoài.

Để tránh được bẫy thu nhập trung bình, Trung Quốc đang xây dựng chiến lược phát triển bền vững chứ không phát triển bằng mọi giá.

# bình quân đầu người cải cách mở cửa chương trình thoát nghèo chuyên gia kinh tế Ngân hàng Thế giới [WB] thành tích kinh tế tổng sản phẩm quốc nội [GDP]
Facebook Twitter Link gốc

Cách thức lịch sử Trung Quốc định hình quan điểm về thế giới của Tập Cận Bình

Nguồn hình ảnh, Getty Images

Những căng thẳng gia tăng với Đài Loan đã hướng sự tập trung về Trung Quốc. Nhiều người tự hỏi liệu Chủ tịch Tập Cận Bình muốn Trung Quốc được nhìn nhận như thế nào trên chính trường quốc tế. Lịch sử có thể mang lại những gợi ý, Rana Mitter, Giáo sư Lịch sử từ Đại học Oxford nhận định.

Trung Quốc hiện là cường quốc trên toàn cầu, một điều hiếm khi có thể tưởng tượng được cách đây vài thế kỷ.

Đôi khi sức mạnh của Trung Quốc cũng bắt nguồn từ sự hợp tác với thế giới rộng lớn, như ký Hiệp định về chống biến đổi Khí hậu Paris.

Hoặc thỉnh thoảng sức mạnh có nghĩa là cạnh tranh với Trung Quốc, như Sáng kiến Một vành đai một con đường, một mạng lưới các dự án xây dựng tại hơn 60 quốc gia, đầu tư vào nhiều quốc gia bị mất nguồn vốn vay từ các nước phương Tây.

Quảng cáo

Nhưng nhiều tuyên bố của Trung Quốc cũng mang tính đối đầu cao.

Bắc Kinh lên án Mỹ tìm cách "kiềm chế" mình thông qua Hiệp ước AUKUS, một thỏa thuận quân sự giữa Australia - Anh - Mỹ, cảnh cáo Anh sẽ gánh chịu "hậu quả' vì đã cấp visa đặc biệt cho người Hong Kong định cư sau Luật an ninh Quốc gia mới, và tuyên bố đảo Đài Loan phải được thống nhất với Trung Quốc Đại lục.

Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình cũng khẳng định vị trí của Trung Quốc trên chính trường quốc tế mạnh mẽ hơn bất kỳ người tiền nhiệm nào, kể từ thời của Mao Trạch Đông, lãnh tụ vĩ đại của Trung Quốc trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh.

Nhưng những nhân tố khác trong ngôn từ của Chủ tịch Tập đã bắt nguồn từ cội rễ sâu xa hơn - xét về tính chất lịch sử, cổ đại và hiện đại.

Đây là 5 trong số những chủ đề đã được lặp lại nhiều lần.

Video liên quan

Chủ Đề