Tỷ lệ bao phủ nợ xấu của các ngân hàng

Là “Số dư dự phòng của các khoản nợ xấu/Nợ xấu“, được dùng để đánh giá khả năng phòng thủ của ngân hàng trước những rủi ro liên quan đến nợ xấu.

Trong thực tế, các báo cáo của các ngân hàng Việt Nam không có tách bạch về số dư dự phòng các khoản nợ xấu, do đó các nhà đầu tư có thể tham khảo một tỷ lệ khác thay thế, tạm gọi là “Tỷ lệ bao phủ nợ quá hạn”, được tính bằng [Số dư dự phòng cụ thể + 0,75% dư nợ nhóm 2, 3, 4]/Tổng nợ quá hạn.

Giao dịch tại MB. [Ảnh: CTV/Vietnam+]

Ngân hàng Thương mại cổ phần Quân đội [MB-mã MBB] vừa công bố kết quả hoạt động năm 2021 với tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng hợp nhất duy trì ở mức thấp, chỉ 0,9%, riêng ngân hàng là 0,68%. Đáng chú ý, quỹ dự phòng bao phủ nợ xấu riêng ngân hàng MB gần 400%, hợp nhất gần 268% - là 1 trong 2 ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao nhất toàn ngành, chỉ sau Vietcombank.

Năm 2021 MB cũng ghi nhận lợi nhuận hợp nhất ở mức 16.527 tỷ đồng, tăng trưởng tới 54,6% so với kết quả đạt được trong năm 2020.

Bên cạnh đó, mảng tín dụng mang về cho MB khoản lãi thuần 26.200 tỷ đồng, tăng trưởng 29,2% so với năm trước. Lãi thuần từ hoạt động dịch vụ cũng tăng 22,1%, lên 4.367 tỷ đồng. Mảng mua bán chứng khoán kinh doanh, chứng khoán đầu tư và góp vốn dài hạn mang về khoản lãi 1.667 tỷ đồng, tăng trưởng tới 75,3%.

[Techcombank và MB thu xếp 1,4 tỷ USD cho dự án điện khí của PVPower]

Lãi thuần từ hoạt động kinh doanh khác tăng trưởng gấp đôi, lên 3.254 tỷ đồng trong khi thu nhập từ góp vốn, mua cổ phần cũng tăng 23,7%, đạt 115 tỷ đồng.

Tổng thu nhập hoạt động trong năm của MB theo đó đạt 36.934 tỷ đồng, tăng trưởng 35% so với năm trước trong khi tổng chi phí hoạt động chỉ tăng 17,3% và chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng tăng 31,3%, lên mức lần lượt 12.377 tỷ đồng và 8.030 tỷ đồng.

Với kết quả này, MB nằm trong nhóm ngân hàng thương mại tốp đầu về các chỉ số hiệu quả, chất lượng hoạt động. Chỉ số ROA [lợi nhuận trên tổng tài sản] và ROE [lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu] hợp nhất của ngân hàng lần lượt đạt 2,4% và 23,49%.

Các giới hạn an toàn được đảm bảo theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, trong đó riêng hệ số an toàn vốn [CAR] ở mức 11%. Tiền gửi không kỳ hạn [CASA] tăng trưởng ấn tượng từ 41% lên 49%, quy mô CASA đạt gần 190.000 tỷ đồng.

Bên cạnh sự tăng trưởng vượt bậc của ngân hàng mẹ, các công ty thành viên của Tập đoàn cũng ghi nhận mức tăng trưởng cao năm 2021, với tổng doanh thu của 6 công ty thành viên ước đạt 18.221 tỷ đồng, tăng 48,8% so với cùng kỳ, hoàn thành 104,3% kế hoạch. Trong đó, Công ty tài chính MB Shinsei [Mcredit] sau 5 năm thành lập đã vươn lên vị trí tốp 3 về thị phần.

Đặc biệt, năm 2020, MB gây ấn tượng với toàn thị trường khi tăng trưởng đột phá về số lượng khách hàng với khoảng 2 triệu người dùng mới. Đến năm 2021, con số này tiếp tục bứt phá khi App MBBank ghi nhận khoảng 6,3 triệu người dùng mới, lũy kế đạt 9,5 triệu người dùng, tăng gấp 3,2 lần so với năm 2020.

"Đến nay, giao dịch trên kênh số tại MB chiếm khoảng 92%. Tỷ trọng giao dịch số đứng trong nhóm đầu của châu Á. Chúng tôi đang không ngừng hoàn thiện hệ sinh thái số, mục tiêu từng bước cung cấp cho khách hàng trải nghiệm ngân hàng số 4.0, dẫn đầu về số hóa" đại diện MB cho biết./.

Thúy Hà [Vietnam+]

Nâng tỷ lệ bao phủ cao kỷ lục, ngân hàng giảm nỗi lo ẩn số nợ xấu

Lãnh đạo nhiều ngân hàng thương mại cổ phần cho hay đã trích lập đủ dự phòng rủi ro cho nợ tái cơ cấu, nếu Ngân hàng Nhà nước không gia hạn thông tư về cơ cấu nợ.

Nợ xấu và trích lập dự phòng tại nhiều ngân hàng đã được cải thiện  vượt bậc. Ảnh: Đức Thanh

Bao phủ nợ xấu tại nhiều ngân hàng tăng cao kỷ lục

Tuần qua, một số ngân hàng TMCP bắt đầu công bố báo cáo tài chính quý IV/2021. Theo báo cáo tài chính của Ngân hàng TMCP Bản Việt, nợ xấu của ngân hàng này cuối năm 2021 là 2,5%, giảm đáng kể so với mức xấp xỉ 3% cuối năm 2020. Trong khi đó, tại TPBank, tỷ lệ nợ xấu cuối năm 2021 cũng chỉ còn 0,9%, so với mức 1,14% của năm trước đó.

“Ngấm đòn” nợ xấu năm 2020 làm nhiều ngân hàng chạy đua xử lý nợ xấu, việc tăng tốc trích lập dự phòng năm 2021 khiến con số nợ xấu và trích lập dự phòng của nhiều ngân hàng cải thiện ở mức đáng ngạc nhiên.

Trong số các ngân hàng công bố kết quả kinh doanh năm 2021, có thể nói, BIDV là trường hợp ấn tượng nhất về kiểm soát và xử lý nợ xấu. Suốt 5 năm qua, ngân hàng này luôn trong cảnh trích lập dự phòng rủi ro tăng cao hơn lợi nhuận, khiến nhiều cổ đông sốt ruột. Cuối năm 2020, tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng này là 1,76%, bao phủ nợ xấu mới đạt xấp xỉ 90%.

Tuy nhiên, theo ông Phan Đức Tú, Chủ tịch Hội đồng Quản trị BIDV, tính đến cuối năm 2021, nợ xấu của ngân hàng này đã giảm mạnh còn 0,81%. Đặc biệt, tỷ lệ bao phủ nợ xấu [dư quỹ dự phòng rủi ro tín dụng/dư nợ xấu] đạt 235%, mức cao nhất trong những năm gần đây và cao hơn nhiều so với mục tiêu đề ra.

Mặc dù vậy, nếu xét về vị trí “vô địch” về tỷ lệ bao phủ nợ xấu, Vietcombank mới là ngân hàng đứng đầu. Ông Nguyễn Thanh Tùng, Phó tổng giám đốc phụ trách Ban Điều hành Vietcombank cho hay, tỷ lệ bao phủ nợ xấu lên tới 424%, cao nhất ngành ngân hàng. Đặc biệt, toàn bộ dư nợ cơ cấu theo Thông tư 03/2021/TT-NHNN đã được Ngân hàng trích lập đủ 100%, sớm trước 2 năm so với thời hạn quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Mặc dù Covid-19 gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động của ngân hàng, song tỷ lệ nợ xấu của Vietcombank năm 2021 vẫn bằng năm trước đó. Tỷ lệ nợ nhóm 2 [nợ cần chú ý] của ngân hàng này cũng chỉ ở mức 0,34%, cho thấy chất lượng tín dụng được kiểm soát rất tốt và không tiềm ẩn rủi ro đáng kể nào cho năm 2022.

Tương tự, VietinBank cũng nâng tỷ lệ bao phủ nợ xấu năm 2021 lên 171%, thay vì mức 132% cuối năm 2020.

Ngân hàng dự báo nợ xấu giảm trong năm 2022

Trao đổi với phóng viên Báo Đầu tư, lãnh đạo nhiều ngân hàng cho rằng, ngân hàng là một trong những ngành thích ứng nhanh nhất với tình hình dịch bệnh. So với năm 2020, ngành ngân hàng đã có nhiều kinh nghiệm xử lý nợ xấu, kiểm soát chất lượng tín dụng hơn trong năm 2021.

Một cuộc khảo sát mới được Ngân hàng Nhà nước tiến hành gần đây cho thấy, trái ngược với dự đoán về nợ xấu có thể tăng trở lại trong năm 2022, khi Thông tư 14/2021/TT-NHNN [sửa đổi Thông tư 03/2021/TT-NHNN] hết hiệu lực, đa số tổ chức tín dụng được khảo sát đều nhận định nợ xấu toàn hệ thống sẽ “giảm nhẹ” trở lại trong quý I/2022.

Tất nhiên, xét theo tỷ lệ toàn hệ thống, nợ xấu năm 2021 có thể sẽ tăng hơn so với năm 2020. Mặc dù vậy, không có cú sốc nào về nợ xấu xảy ra. Thậm chí, lợi nhuận tăng trưởng khả quan giúp nhiều ngân hàng tăng mạnh chi phí trích lập dự phòng rủi ro.

Theo các chuyên gia phân tích của Công ty Chứng khoán SSI, năm 2022, rủi ro cho nợ xấu ngân hàng là Thông tư 14 về cơ cấu nợ không được gia hạn. Song ngay cả khi trường hợp này xảy ra, tình hình cũng không đến mức báo động, vì nền kinh tế đang dần phục hồi, khả năng trả nợ của doanh nghiệp cũng được hồi phục. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng đã trích lập dự phòng 100% cho nợ cơ cấu.

“Rủi ro tín dụng chỉ có thể xảy ra với các ngân hàng yếu kém và các ngân hàng có bộ đệm dự phòng mỏng. Chúng tôi vẫn lạc quan về triển vọng của các ngân hàng đã trích lập dự phòng trước hoặc trích lập dự phòng đầy đủ cho dư nợ cơ cấu”, chuyên gia phân tích SSI đánh giá.

Luật Xử lý nợ xấu có thể được ban hành trong năm 2022, khả năng gia hạn Thông tư 14/2021/TT-NHNN và tiếp tục hoãn lộ trình siết vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn khá cao cũng khiến áp lực nợ xấu năm 2022 bớt căng thẳng.

Thực tế, tâm lý lo ngại về nợ xấu ngân hàng năm 2022 đã phản ánh khá rõ nét vào diễn biến cổ phiếu vua trên sàn chứng khoán nửa cuối năm 2021. Tuy nhiên, nỗi lo này đang được giải tỏa một phần khi kết quả kinh doanh quý IV/2021 được hé lộ với bức tranh khá sáng sủa về lợi nhuận, nợ xấu.

Nhiều chuyên gia kinh tế nhận định, bức tranh nợ xấu năm 2022 vẫn chưa rõ ràng do Thông tư 14/2021/TT-NHNN vẫn đang còn hiệu lực, vẫn cần phải cảnh giác. Tuy nhiên, với những nỗ lực bao phủ nợ xấu và kiểm soát chất lượng tín dụng của ngành ngân hàng thời gian qua, chưa cần phải quá lo lắng về chất lượng tài sản ngân hàng.

Năm 2021, VietinBank kiểm soát nợ xấu ở mức rất thấp, con số nợ xấu 1,3% là nợ xấu thực chất của Ngân hàng. Trên cơ sở đánh giá hết sức thận trọng để đưa ra kịch bản an toàn cho năm 2022, chúng tôi đã tăng mạnh tỷ lệ bao phủ nợ xấu. Mặc dù so với một số ngân hàng thương mại khác, tỷ lệ bao phủ nợ xấu của VietinBank chưa lớn, song đã tăng mạnh so với trước, thể hiện sự quyết tâm, quyết liệt của VietinBank trong việc tiếp tục củng cố nền tảng.

- Ông Nguyễn Minh Bình, Chủ tịch HĐQT VietinBank

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao chứng tỏ ngân hàng trích dự phòng nhiều hơn so với nợ xấu hiện hữu. Ảnh: Dũng Minh

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng cao

Trong cuộc trao đổi với báo chí, bà Nguyễn Thị Phượng, Phó tổng giám đốc Agribank cho biết, thận trọng trước những rủi ro có thể phát sinh, trong năm 2021, Agribank đã tăng cường trích lập dự phòng, nâng tỷ lệ bao phủ nợ xấu từ 120% lên 140% để dự phòng cho năm 2022.

Tại VietinBank [mã CTG], ông Trần Minh Bình, Chủ tịch HĐQT Ngân hàng cho hay, tỷ lệ bao phủ nợ xấu hiện ở mức 171%, tăng mạnh so với con số 132% của cuối năm 2020.

“Trên cơ sở đánh giá hết sức thận trọng để đưa ra kịch bản an toàn cho năm 2022, chúng tôi đã tăng mạnh tỷ lệ bao phủ nợ xấu. Mặc dù so với một số ngân hàng thương mại khác, tỷ lệ này ở VietinBank chưa lớn, song đã tăng mạnh so với trước đây, thể hiện sự quyết tâm trong việc tiếp tục củng cố nền tảng”, ông Bình nói.

Tương tự, BIDV [mã BID] cũng đưa tỷ lệ bao phủ nợ xấu lên mức cao nhất từ trước đến nay, đạt 235%, trong khi số liệu này tại thời điểm 30/9/2021 ở mức 140% và trước đó, vào cuối năm 2020 chỉ là gần 89%.

Đặc biệt, Vietcombank [mã VCB]gây chú ý khi công bố tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao kỷ lục trong ngành ngân hàng, đạt 424% và lãnh đạo Vietcombank lý giải: “Mỗi đồng nợ xấu nội bảng của Vietcombank được đảm bảo bằng hơn 4 đồng dự phòng”.

Không chỉ các ngân hàng có vốn nhà nước chi phối, nhiều ngân hàng thương mại tư nhân cũng công bố tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao như Techcombank [mã TCB] tăng từ 171% vào cuối năm 2020 lên 184% như hiện nay, Mbbank [mã MBB] tăng từ 134% lên 233%, ACB [mã ACB] tăng từ 160% lên 198%…

Cũng trong diễn biến có liên quan, theo Thông tư 16/2021/TT-NHNN quy định việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài mua, bán trái phiếu doanh nghiệp, kể từ ngày 15/1/2022, các ngân hàng không được phép mua trái phiếu doanh nghiệp với mục đích cơ cấu lại các khoản vay có vấn đề/quá hạn. Bên cạnh đó, dự thảo Nghị định sửa đổi Nghị định 153/2020 về thị trường trái phiếu doanh nghiệp cũng là một động thái nhằm kiểm soát chặt chẽ hơn thị trường này của cơ quan quản lý. Ngoài ra, việc tái cơ cấu nợ theo Thông tư 14/2021/TT-NHNN dự kiến sẽ kết thúc vào ngày 30/6/2022, sau đó số liệu nợ xấu thực sự tại các ngân hàng sẽ được hé lộ.

Ngân hàng Nhà nước ước tính, tỷ lệ nợ xấu [bao gồm nợ xấu được công bố, nợ xấu tồn đọng, nợ xấu đã bán cho VAMC, dư nợ tái cơ cấu] đạt khoảng 7,3% vào cuối năm 2021, mức này gần tương đương với năm 2017. Song song đó, Ngân hàng Nhà nước tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý về chất lượng tài sản và xử lý nợ xấu với việc ban hành Thông tư 11/2021 về phân loại dư nợ và trích lập dự phòng, Thông tư 23/2021 sửa đổi Thông tư 52/2018 về đánh giá các tổ chức tín dụng, đặc biệt thời điểm Nghị quyết 42/2017/QH14 sẽ hết hiệu lực vào giữa tháng 8/năm 2022, trong khi công tác xử lý các ngân hàng “0 đồng” được đẩy mạnh hoàn thiện.

Các khoản lãi dự thu theo dõi ngoại bảng liên quan đến các khoản vay tái cơ cấu có thể quay trở lại báo cáo lãi - lỗ [P&L]. Theo các Thông tư 01, 03 và 14, lãi dự thu liên quan đến các khoản vay tái cơ cấu được theo dõi ngoại bảng nếu không thực thu bằng tiền mặt. Do đó, trong trường hợp các khoản vay tái cơ cấu phục hồi sẽ tạo ra một nguồn thu nhập lãi bổ sung, vì lãi dự thu liên quan sẽ được hạch toán lại vào báo cáo lãi - lỗ.

“Dưới tác động kéo dài của dịch bệnh Covid-19 và 2 thời hạn quan trọng là cuối tháng 6/2022 với Thông tư 14/2021 và giữa tháng 8/2011 với Nghị định 42/20217, việc cẩn trọng về rủi ro tín dụng đối với các ngân hàng yếu kém và/hoặc các ngân hàng có ‘bộ đệm’ trích lập dự phòng mỏng là điều cần thiết. Đối với những ngân hàng đã trích lập dự phòng trước và/hoặc trích lập đầy đủ các khoản cho vay tái cơ cấu như Vietcombank, VietinBank, ACB, MBBank, Techcombank…, rõ ràng triển vọng sẽ là khác biệt”, tổng giám đốc một ngân hàng thương mại cổ phần nhận định.

Ảnh hưởng kém tích cực sẽ không nhiều

Chia sẻ với Báo Đầu tư Chứng khoán, TS. Lê Xuân Nghĩa, chuyên gia kinh tế cho biết, ở Việt Nam không có khái niệm xóa nợ cho người vay tiền ngân hàng, nên món nợ khách hàng không trả được thì để ở ngoại bảng và ngân hàng cứ đi đòi.

Phân tích cụ thể hơn, một lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước cho biết, các quốc gia trên thế giới sử dụng cơ chế phá sản cá nhân để xoá nợ, nhưng tại Việt Nam, Luật Phá sản không có cơ chế này. Nếu khách hàng chết hoặc doanh nghiệp phá sản thì nghĩa vụ trả nợ chấm dứt theo Bộ luật Dân sự và Luật Phá sản.

Đối với câu chuyện trích lập dự phòng rủi ro, vị lãnh đạo này cho biết, có 2 loại gồm dự phòng rủi ro chung [trích lập trên tổng dư nợ - tức là gồm cả nợ tốt và xấu] và dự phòng rủi ro cụ thể trích theo từng khoản nợ, theo kết quả phân loại nợ của từng khoản nợ cụ thể [từ nhóm 2 đến nhóm 5] và giá trị tài sản bảo đảm được khấu trừ mức trích dự phòng rủi ro cụ thể.

Còn tỷ lệ bao phủ nợ xấu là tỷ lệ tính tổng dự phòng rủi ro [dự phòng rủi ro chung và dự phòng rủi ro cụ thể] đã trích/nợ xấu. Với tổ chức tín dụng có tỷ lệ nợ xấu thấp thì tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao [vì phần dự phòng rủi ro chung] có thể lên tới 400%. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao chứng minh chất lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng tốt và ngược lại.

Cũng theo vị này, bản chất lợi nhuận đến từ thu nhập trừ đi chi phí [chi phí bao gồm cả chi phí dự phòng rủi ro] và trên thực tế, ảnh hưởng của dự phòng rủi ro đối với lợi nhuận khá phức tạp. Cụ thể, nếu chất lượng tín dụng tốt [không phải trích thêm dự phòng rủi ro] thì chi phí dự phòng rủi ro không tăng, lợi nhuận có thể cao; trường hợp chất lượng tín dụng quá tốt, có thể được hoàn nhập dự phòng, thì lợi nhuận sẽ tăng tương ứng với phần dự phòng được hoàn nhập và ngược lại.

“Theo công thức trên thì các thay đổi của 2 cấu phần thu nhập và chi phí sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng”, vị lãnh đạo Ngân hàng Nhà nước nói.

Trao đổi với phóng viên, giám đốc nguồn vốn một ngân hàng thương mại cổ phần nhận định, tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao chứng tỏ ngân hàng đang trích dự phòng nhiều hơn so với nợ xấu hiện hữu và đây là điều rất tốt.

Liên quan đến việc tỷ lệ bao phủ nợ xấu tác động như thế nào đến lợi nhuận, vị giám đốc nguồn vốn cho rằng, ảnh hưởng theo hướng không tích cực sẽ không nhiều vì khi cho vay, ngân hàng đã tính cả phần dự phòng chung.

“Hơn nữa, số liệu rất có thể đang được chia trên nợ xấu danh nghĩa, chưa bao gồm nợ cơ cấu do Covid-19, trong khi dự phòng có thể bao gồm dự phòng nợ cơ cấu bởi dịch bệnh. Nhiều ngân hàng đã trích đủ dự phòng nợ cơ cấu do dịch nên tỷ lệ này sẽ cao và năm sau, khi nợ cơ cấu bởi dịch giảm, thì sẽ được hoàn nhập dự phòng, từ đó tác động tích cực đến lợi nhuận”, vị giám đốc nguồn vốn phân tích.

Một báo cáo của Công ty Chứng khoán SSI vừa công bố cho biết, ước tính tăng trưởng lợi nhuận trước thuế năm 2022 trung bình của các ngân hàng đạt 21% so với năm 2021. Đáng chú ý, ước tính này không bao gồm thu nhập bất thường tiềm năng từ phí bancassurance và/hoặc thoái vốn công ty con của VietinBank, HDBank, Techcombank, VPBank, MBBank và Sacombank. Lợi nhuận trước thuế năm 2022 ước tính của khối ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân tăng 22%, cao hơn so với khối ngân hàng có vốn nhà nước chi phối là 19% do triển vọng tăng trưởng tín dụng tươi sáng hơn.

Nhuệ Mẫn

Video liên quan

Chủ Đề