Tỷ lệ trích lập dự phòng của các ngân hàng

Khách hàng giao dịch tại VietinBank Chi nhánh Ba Đình. [Ảnh: Trần Việt/TTXVN]

Trong bối cảnh nguy cơ nợ xấu tiếp tục tăng mạnh, nhiều ngân hàng đã mạnh tay trích lập dự phòng rủi ro cho vay, tăng "sức đề kháng" trước bão COVID-19.

Mới đây nhất, ông Trần Minh Bình, Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Thương mại cổ phần Công Thương Việt Nam [VietinBank] đã tuyên bố ngân hàng này sẽ tăng tỷ lệ bao phủ nợ xấu từ 119% hồi cuối tháng 9/2021 lên mức 169% trong 2 tháng cuối năm; chi phí dự phòng rủi ro cũng tăng từ mức 14.000 tỷ đồng lên khoảng 17.000 tỷ đồng.

Theo ông Bình, đây không chỉ là chi phí dự phòng đảm bảo cho các khoản nợ xấu phát sinh do dịch COVID-19 mà còn là bộ đệm cho ngân hàng trong năm 2022.

"Chúng tôi tăng cường sự thận trọng, để nếu năm 2022 có những biến cố thì VietinBank vẫn có bộ đệm dự phòng tốt," ông Bình khẳng định.

Tính đến ngày 30/9/2021, dự phòng rủi ro cho vay khách hàng của VietinBank là 21.500 tỷ đồng, tăng 8.900 tỷ đồng [tương đương tăng 71%] so với đầu năm.

Chi phí dự phòng rủi ro cho vay trích lập trong 9 tháng năm 2021 là 14.000 tỷ đồng, tăng 2.500 tỷ đồng [tương đương tăng 22%] so với cùng kỳ năm trước. Riêng trong quý 3/2021, VietinBank trích lập 5.500 tỷ đồng.

VietinBank đẩy mạnh trích lập dự phòng khi tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng tăng lên 1,67%, cao nhất trong 4 quý gần đây.

Trong khi đó, tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam [Vietcombank], chi phí dự phòng đã tăng lên 8.012 tỷ đồng trong 9 tháng qua, tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái. Riêng trong quý 3, Vietcombank cũng trích lập dự phòng 2.500 tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm mạnh từ 368% hồi đầu năm xuống còn 243%.

Nguyên nhân chính là do nợ xấu tại Vietcombank đã tăng gấp đôi sau 9 tháng. Số dư nợ xấu từ 5.230 tỷ đồng hồi đầu năm đã lên 10.884 tỷ đồng khi kết thúc quý 3. Kéo theo đó, tỷ lệ nợ xấu cũng tăng từ 0,62% lên 1,16% gây áp lực lên hoạt động trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng này.

Còn tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam [BIDV], chi phí trích lập dự phòng trong quý 3 đã tăng 30% lên khoảng 7.500 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng, BIDV đã trích lập dự phòng tới 23.194 tỷ đồng, tăng 44% so với cùng kỳ.

Đây cũng đang là ngân hàng có quy mô nợ xấu lớn trong số các ngân hàng niêm yết dù đi ngang ở mức 21.433 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu giảm từ 1,76% hồi đầu năm xuống còn 1,61%.

Báo cáo tài chính quý 3 của nhiều ngân hàng thương mại khác cũng cho thấy chi phí dự phòng rủi ro tăng gấp nhiều lần trong 9 tháng năm 2021.

Khách hàng giao dịch tại Hội sở chính Vietcombank, Hà Nội. [Ảnh: Trần Việt/TTXVN]

Cụ thể, tính đến hết ngày 30/9/2021, Ngân hàng Thương mại cổ phần Á Châu [ACB] đã dành hơn 2.812 tỷ đồng cho dự phòng rủi ro, cao gấp 4 lần so với cùng kỳ năm trước. Riêng trong quý 3, chi phí dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng này cũng tăng đến hơn 5 lần so với cùng kỳ, lên mức 820 tỷ đồng.

Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Thương Tín [VietBank] trong quý 3 tăng gấp đôi cùng kỳ, lên mức 51 tỷ đồng; lũy kế 9 tháng, chi phí dự phòng tăng 120% lên 78 tỷ đồng.

[Đại dịch COVID lần thứ 4: Nguy cơ gia tăng nợ xấu là hiện hữu]

Ngân hàng Thương mại cổ phần Việt Nam Thịnh Vượng [VPBank] cũng đã chủ động trích lập dự phòng rủi ro cho các khoản nợ bị ảnh hưởng bởi dịch. Chi phí dự phòng hợp nhất đến cuối tháng 9 là 13.631 tỷ đồng. Riêng trong quý 3, ngân hàng đã dành 4.979 tỷ đồng cho chi phí dự phòng, tăng 18,6% so với quý trước đó.

Ngân hàng Thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt [LienVietPostBank] trong quý 3 tăng mạnh 157% chi phí dự phòng lên mức 271 tỷ đồng; lũy kế sau 9 tháng là 887 tỷ đồng, tăng 176% so với 9 tháng năm 2020.

Hay như tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Tiên Phong [TPBank] dự phòng rủi ro tín dụng trong quý 3 tăng 223% so cùng kỳ lên 1.345 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng, TPBank tăng gần gấp đôi chi phí dự phòng rủi ro tín dụng so với cùng kỳ, trích gần 2.349 tỷ đồng.

Dự phòng rủi ro vốn được coi như "của để dành" của các ngân hàng, là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết.

Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của các tổ chức tín dụng. Việc xác trích lập dự phòng rủi ro tín dụng được căn cứ vào việc phân loại nợ tại ngân hàng.

Theo quy định, tỷ lệ trích lập dự phòng hiện nay đối với từng nhóm nợ như sau: 0% với nợ tiêu chuẩn-nợ nhóm 1; 5% với nợ cần chú ý trích lập-nợ nhóm 2; 20% với nợ dưới chuẩn-nợ nhóm 3; 50% với nợ nghi ngờ-nợ nhóm 4 và 100% với nợ có khả năng mất vốn-nợ nhóm 5.

Ngoài ra, các ngân hàng còn phải trích lập dự phòng chung với tổng dư nợ [từ nhóm 1 đến nhóm 4] theo tỷ lệ 0,75%.

Tuy nhiên, theo Thông tư 14/2021/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư 01/2020/TT-NHNN và Thông tư 03/2021/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, ngân hàng bắt buộc phải trích 30% dự phòng phần dư nợ tái cơ cấu vào cuối năm nay và 100% trong 2 năm tới.

Do đó, áp lực trích dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng đối với các khoản nợ cơ cấu cho khách hàng là rất lớn. Thậm chí theo Tiến sỹ Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, ngay cả những khoản nợ nhóm 1 [nợ đủ tiêu chuẩn, có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi] cũng có thể bị ảnh hưởng. Bởi khi chuỗi cung ứng bị đứt gãy do dịch bệnh, doanh nghiệp lâm vào khó khăn thì nguy cơ nợ xấu trong tương lai là rất cao.

Theo Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 28/9/2021, các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với hơn 272.100 khách hàng với dư nợ cho vay khoảng 331.000 tỷ đồng, tương đương 3,8% tổng dư nợ của toàn hệ thống.

Tổng số tiền lãi giảm lũy kế từ 15/7 đến 30/9 của 16 ngân hàng là khoảng 12.236 tỷ đồng, đạt 59,36% so với cam kết.

Đánh giá độ trễ của đại dịch COVID-19 tác động tới ngành ngân hàng sẽ kéo dài sang năm 2022, Ngân hàng Nhà nước dự báo tỷ lệ nợ xấu nội bảng và nợ xấu tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng cuối năm 2021 có thể tăng lên từ 7,1-7,7%, gấp đôi so với cuối năm 2020. Vì vậy, việc tăng nguồn lực dự phòng rủi ro của các ngân hàng lại càng trở nên cấp thiết./.

Lê Phương [TTXVN/Vietnam+]

Có những loại nợ nào? Trường hợp nào được coi là nợ xấu? Phân loại các loại nợ xấu ngân hàng? Quy định mới nhất về các loại nợ xấu, trích lập dự phòng rủi ro tại ngân hàng? Nợ xấu có thể bị truy cứu hình sự không?

Phân loại nợ là việc các tổ chức tín dụng căn cứ vào các tiêu chuẩn định tính và định lượng để đánh giá mức độ rủi ro của các khoản vay và các cam kết ngoại bảng, trên cơ sở đó phân loại các khoản nợ vào các nhóm nợ thích hợp.

Theo khoản 2 điều 2 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN Ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng, theo đó trích lập dự phòng rủi ro được định nghĩa là : “Dự phòng rủi ro là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng. Dự phòng rủi ro bao gồm: Dự phòng cụ thể và Dự phòng chung”. Cụ thể:

+ “Dự phòng cụ thể” là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ thể các khoản nợ quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra.

+ “Dự phòng chung” là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất chưa xác định được trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể và trong các trường hợp khó khăn về tài chính của các tổ chức tín dụng khi chất lượng các khoản nợ suy giảm.

Như vậy phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro được hiểu là những biện pháp mà các ngân hàng áp dụng để phòng ngừa rủi ro tín dụng có thể xẩy ra do khách hàng không thực hiện nghĩa vụ thanh toán như đã cam kết.

Tư vấn pháp luật về phân loại các loại nợ xấu và trích lập dự phòng rủi ro: 1900.6568

2. Quy định về phân loại nợ:

Phân loại nợ là việc các tổ chức tín dụng căn cứ vào các tiêu chuẩn định tính và định lượng để đánh giá mức độ rủi ro của các khoản vay và các cam kết ngoại bảng, trên cơ sở đó phân loại các khoản nợ vào các nhóm nợ thích hợp.

Việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng được quy định rất chi tiết trong các văn bản pháp luật Việt Nam, cụ thể:

+ Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước: Ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng;

Xem thêm: Quy định về phân bổ chi phí dự phòng mới nhất năm 2022

+ Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN ngày 25/04/2007 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước: Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN;

+ Thông tư số 14/2014/TT-NHNN ngày 20/05/2014: Sửa đổi, bổ sung một số điều của quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN.

Các văn bản trên quy định về việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, được thể hiện ở các khía cạnh sau: đối tượng phải phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro; phương pháp phân loại nợ và tính tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro.

+ Đối tượng phải phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro

Theo quy định tại khoản 1, Điều 1 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về đối tượng phải phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro bắt buộc là các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam trừ Ngân hàng Chính sách Xã hội [NHCSXH]. 

Phân tích quy định này cho thấy hoạt động của các tổ chức tín dụng vì mục tiêu lợi nhuận nên luôn đối mặt với các rủi ro tiềm ẩn, còn đối với NHCSXH thực hiện các nhiệm vụ cho vay theo các chương trình của Thủ tướng Chính phủ, phục vụ cho các mục đích xoá đói giảm nghèo, cho vay các đối tượng là người nghèo không vì mục tiêu lợi nhuận. Toàn bộ rủi ro trong hoạt động của NHCSXH được Ngân sách Nhà nước bảo đảm, do vậy NHCSXH không thuộc đối tượng điều chỉnh của Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN.

Ngoài ra, trường hợp chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam muốn thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo quy định của ngân hàng nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài phải trình Ngân hàng Nhà nước chính sách trích lập dự phòng của ngân hàng nước ngoài để xem xét, quyết định. Chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ được phép thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng theo quy định của Hội sở chính ngân hàng nước ngoài sau khi được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.

+ Phương pháp phân loại nợ

Xem thêm: Kế hoạch và đánh giá rủi ro an toàn lao động

Theo khoản 3, Điều 1 Quyết định 18/2007/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung Điều 6 Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN về việc phân chia các nhóm nợ, cụ thể là 5 nhóm:

“a] Nhóm 1 [Nợ đủ tiêu chuẩn] bao gồm:

– Các khoản nợ trong hạn và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn;

– Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng thời hạn còn lại;

– Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại Khoản 2 Điều này.

b] Nhóm 2 [Nợ cần chú ý] bao gồm:

– Các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;

– Các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu [đối với khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức thì tổ chức tín dụng phải có hồ sơ đánh giá khách hàng về khả năng trả nợ đầy đủ nợ gốc và lãi đúng kỳ hạn được điều chỉnh lần đầu];

Xem thêm: Giá gói thầu không bao gồm khoản dự phòng

– Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Khoản 3 Điều này.

c] Nhóm 3 [Nợ dưới tiêu chuẩn] bao gồm:

– Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;

– Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b Khoản này;

– Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;

– Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại Khoản 3 Điều này.

d] Nhóm 4 [Nợ nghi ngờ] bao gồm:

– Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;

Xem thêm: Việc phân loại nợ xấu và cam kết ngoại bảng theo nhóm

– Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;

– Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;

– Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại Khoản 3 Điều này.

đ] Nhóm 5 [Nợ có khả năng mất vốn] bao gồm:

– Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;

– Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;

– Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;

– Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn;

Xem thêm: Mua nhà chỉ có sổ hống có rủi ro gì không?

– Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;

– Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại Khoản 3 Điều này”.

Nợ xấu là nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5.

3. Quy định về trích lập dự phòng rủi ro:

Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định số 18/2007/QĐ-NHNN quy định về trích lập dự phòng rủi ro đối với các ngân hàng như sau:

– Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với 5 nhóm nợ như sau:

a] Nhóm 1: 0%

b] Nhóm 2: 5%

c] Nhóm 3: 20%

Xem thêm: Một số rủi ro pháp lý trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại

d] Nhóm 4: 50%

đ] Nhóm 5: 100%.

Riêng đối với các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý thì được trích lập dự phòng cụ thể theo khả năng tài chính của tổ chức tín dụng.

-Số tiền dự phòng cụ thể đối với từng khoản nợ được tính theo công thức sau:

R = max {0, [A – C]} x r

Trong đó:   R: số tiền dự phòng cụ thể phải trích

A: Số dư nợ gốc của khoản nợ

C: giá trị khấu trừ  của tài sản bảo đảm

Xem thêm: Một số lưu ý để phòng tránh rủi ro pháp lý trong quá trình đàm phán và soạn thảo hợp đồng thương mại

r: tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể.

Tổ chức tín dụng sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng đối với các khoản nợ trong các trường hợp sau đây:

– Khách hàng là tổ chức, doanh nghiệp bị giải thể, phá sản theo quy định của pháp luật; cá nhân bị chết hoặc mất tích.

– Các khoản nợ thuộc nhóm 5. Riêng các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý, tổ chức tín dụng được sử dụng dự phòng [nếu có] để xử lý rủi ro tín dụng.

Tổ chức tín dụng thực hiện việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng một quý một lần. Việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro theo những nguyên tắc sau:

a] Sử dụng dự phòng cụ thể để xử lý rủi ro tín dụng đối với khoản nợ đó.

b] Phát mại tài sản bảo đảm để thu hồi nợ: Tổ chức tín dụng phải khẩn trương tiến hành việc phát mại tài sản bảo đảm theo thoả thuận với khách hàng và theo quy định của pháp luật để thu hồi nợ.

c] Trường hợp phát mại tài sản không đủ bù đắp cho rủi ro tín dụng của khoản nợ thì được sử dụng dự phòng chung để xử lý đủ.

Xem thêm: Dự phòng ngân sách nhà nước cho phòng, chống thiên tai

Việc tổ chức tín dụng sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng không phải là xoá nợ cho khách hàng. Tổ chức tín dụng và cá nhân có liên quan không được phép thông báo dưới mọi hình thức cho khách hàng biết về việc xử lý rủi ro tín dụng.

Sau khi đã sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, tổ chức tín dụng phải chuyển các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng từ hạch toán nội bảng ra hạch toán ngoại bảng để tiếp tục theo dõi và có các biện pháp để thu hồi nợ triệt để.

Sau năm [05] năm kể từ ngày sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng, tổ chức tín dụng được xuất toán các khoản nợ đã được xử lý rủi ro tín dụng ra khỏi ngoại bảng. Riêng đối với các ngân hàng thương mại Nhà nước, việc xuất toán chỉ được phép thực hiện khi có đầy đủ hồ sơ, tài liệu chứng minh đã sử dụng mọi biện pháp thu hồi nợ nhưng không thu được nợ và phải được Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.

4. Nợ xấu có thể bị truy cứu hình sự không?

Tóm tắt câu hỏi:

Luật sư có thể tư vấn giúp em được không? Em đang muốn thế chấp sổ đỏ nhà ở vào Ngân hàng nhưng có một điều em chưa hiểu là nếu sau này em không có khả năng chi trả thì trở thành nợ xấu? Nợ xấu có bị truy cứu hình sự không? 

Luật sư tư vấn:

Điều 317 Bộ luật dân sự 2015 quy định Thế chấp tài sản là việc một bên [sau đây gọi là bên thế chấp] dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia [sau đây gọi là bên nhận thế chấp]. Trường hợp này bạn đang muốn thế chấp sổ đỏ vào ngân hàng để thực hiện việc vay tiền thì Điều 466 Bộ luật dân sự 2015 quy định Nghĩa vụ của bên vay tài sản. Theo đó bên vay tài sản là tiền thì phải trả đủ tiền khi đến hạn. Do đó, nếu bạn vay Ngân hàng bằng hình thức thế chấp mà không có đủ khả năng trả khi đến hạn thì có thể liệt vào khoản nợ quá hạn hoặc nợ xấu. 

Điều 2 Văn bản hợp nhất 22/VBHN-NHNN quy định về nợ quá hạn và nợ xấu như sau: 

Xem thêm: Các rủi ro pháp lý của hợp đồng đặt cọc

4. “Nợ” bao gồm:

a] Các khoản cho vay, ứng trước, thấu chi và cho thuê tài chính;

b] Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác;

c] Các khoản bao thanh toán;

d] Các hình thức tín dụng khác.

5. “Nợ quá hạn” là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã quá hạn.

6. “Nợ xấu” [NPL] là các khoản nợ thuộc các nhóm 3, 4 và 5 quy định tại Điều 6 hoặc Điều 7 Quy định này, Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng.

Như vậy, theo quy định trên, các khoản nợ sau sẽ được coi là nợ xấu: 

Xem thêm: Giao kết hợp đồng bằng lời nói? Rủi ro khi giao kết hợp đồng bằng miệng?

– Nợ dưới tiêu chuẩn bao gồm:

+ Các khoản nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;

Luật sư tư vấn pháp luật tài chính – ngân hàng trực tuyến qua tổng đài:1900.6568

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu, trừ các khoản nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 5 Văn bản hợp nhất 22/VBHN-NHNN;

+ Các khoản nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;

+ Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ gốc và lãi.

– Nợ nghi ngờ bao gồm:

Xem thêm: Lập hợp đồng vay nợ hợp pháp và tránh rủi ro trong trường hợp cho bạn vay tiền không lãi suất

+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;

+ Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là khả năng tổn thất cao.

– Nợ có khả năng mất vốn bao gồm:

+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ được cơ cấu lại lần thứ hai;

Xem thêm: Bài tập tình huống Luật tố tụng dân sự đề số 18

+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá hạn hoặc đã quá hạn;

+ Các khoản nợ khoanh, nợ chờ xử lý;

+ Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.

Như vậy, nếu đến hạn trả tiền mà bạn không có khả năng thanh toán thì nếu khoản nợ của bạn thuộc một trong số các trường hợp trên sẽ được coi là có nợ xấu.

Không phải có nợ xấu là sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu hành vi của bạn thỏa mã cấu thành của tội phạm cụ thể thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Nếu bạn có hành vi lừa dối, bỏ trốn nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ hoặc sử dụng tài sản vay vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản thì sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định Bộ luật hình sự 2015.

Video liên quan

Chủ Đề