Vận dụng các đặc điểm trong giáo dục rèn luyện nhân cách học sinh thpt

Giáo dục nhân cách cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn huyện Đông Anh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây [1003.86 KB, 120 trang ]

119

Đại học quốc gia Hà Nội
trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị





Nguyễn Đức Bình






Giáo dục nhân cách cho học sinh
trung học phổ thông trên địa bàn huyện Đông Anh
hiện nay




Luận văn thạc sĩ Triết học












Hà Nội - 2006
120

Đại học quốc gia Hà Nội
trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị




Nguyễn Đức Bình




Giáo dục nhân cách cho học sinh
trung học phổ thông trên địa bàn huyện Đông Anh
hiện nay



Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60.22.80


Luận văn Thạc sĩ Triết học


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Đoàn Quang Thọ




Hà Nội - 2006


1

Mục lục
Mở đầu 3
Chương 1. Nhân cách và vai trò của giáo dục nhân cách cho học sinh trung
học phổ thông trong điều kiện hiện nay 7
1.1. Nhân cách và những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát
triển nhân cách học sinh trung học phổ thông trong điều kiện hiện
nay 7
1.2. Giáo dục nhân cách học sinh trung học phổ thông - vai trò, nội
dung, phương thức giáo dục nhân cách trong điều kiện hiện nay 33
Chương 2. Thực trạng và những vấn đề đặt ra của việc giáo dục nhân cách
cho học sinh trung học phổ thông Đông Anh hiện nay 46
2.1. Khái lược về tình hình kinh tế, văn hóa xã hội huyện Đông Anh. 46
2.2.Thực trạng giáo dục nhân cách cho học sinh trung học phổ thông ở
Đông Anh hiện nay 51
2.3. Những vấn đề đặt ra. 72
Chương 3. Những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục nhân
cách cho học sinh trung học phổ thông ở Đông Anh hiện nay 80
3.1. Nâng cao vai trò lãnh đạo của đảng và chính quyền các cấp đối với
việc giáo dục nhân cách 80
3.2. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho mọi người về việc giáo dục

nhân cách cho học sinh trong điều kiện hiện nay 83
3.3. Đổi mới nội dung và phương thức giáo dục nhân cách theo hướng
phát huy tính chủ động, tích cực và năng lực thực hành của học sinh . 88
3.4. Tăng cường sự phối kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội
trong quản lý, giáo dục học sinh 92
3.5. Tạo môi trường tích cực đối với giáo dục nhân cách cho học sinh
trung học phổ thông 97
Kết luận 109
Danh mục tài liệu tham khảo 111
2

Bảng quy ước chữ viết tắt trong luận văn

BCHTƯ : Ban chấp hành Trung ương
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
CNH : Công nghiệp hoá
GDCD : Giáo dục công dân
HĐH : Hiện đại hoá
KHKT : Khoa học kỹ thuật
THPT : Trung học phổ thông
THCS : Trung học cơ sở
TNCS : Thanh niên Cộng sản
UBND : Uỷ ban nhân dân
3

Mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
Kể từ khi chúng ta tiến hành đổi mới, Đảng ta luôn coi “con người và
nguồn nhân lực là yếu tố quyết định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá”. Do đó tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ

IX, Đảng ta đã xác định “Bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê
hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lí tưởng XHCN, lòng nhân ái, ý thức tôn
trọng pháp luật, tinh thần hiếu học, chí tiến thủ lập nghiệp, không cam chịu
nghèo hèn” là phẩm chất của thế hệ trẻ ngày nay. Trong thành tựu chung
của công cuộc đổi mới, chúng ta vui mừng thấy có sự đóng góp to lớn của
nền giáo dục nước nhà. Phần lớn thanh niên năng động phấn đấu vươn lên,
vượt qua thử thách, đua tranh, tự chịu trách nhiệm với bản thân, lao vào học
tập rèn luyện lập nghiệp. Tuy nhiên cũng từ khi chúng ta thực hiện nền kinh
tế vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN thì trật tự giá trị trong phần lớn nhân dân bị thay đổi, đặc biệt
là thế hệ trẻ, như Nghị quyết TƯ2 khoá VIII đã nhận định: Một bộ phận học
sinh, sinh viên có tình trạng suy thoái đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, có lối
sống thực dụng, thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp, có lối sống thụ động
trông chờ. Qua thực tế cho thấy lối sống của học sinh hiện nay đang có xu
hướng coi nặng các giá trị vật chất, kinh tế, coi nhẹ các giá trị tinh thần xã
hội, con người sẵn sàng hy sinh chuyển sang con người hướng vào lợi ích cá
nhân.
Thực trạng trên, trách nhiệm một phần thuộc về ngành giáo dục - đào
tạo. Chúng ta phải thừa nhận rằng trong những năm qua nền giáo dục nước
ta có phần thiên về “dạy chữ”, ít chú ý đến “dạy người”, hoặc phương thức
“dạy người” chủ yếu nặng về lí thuyết truyền đạt, bắt học sinh phải theo một
“mẫu” có sẵn, mà chưa chú ý đến các phương thức giáo dục tích cực chủ
động nhằm tạo nên động cơ, mục đích bên trong từ đó phát huy quá trình
4

hình thành nhân cách một cách tự giác trong học sinh. Trong khi đó chúng
ta biết rằng 3 mục tiêu: Dân trí, nhân lực, nhân tài của giáo dục - đào tạo chỉ
có thể đạt được trên một cơ sở chung là nhân cách. Chính vì thế mà giáo dục
nhân cách cho học sinh, đặc biệt là học sinh THPT - đối tượng chuẩn bị trở
thành chủ thể của xã hội - là vấn đề mang tính cấp thiết hơn lúc nào hết.

Đông Anh là một huyện ngoại thành Hà Nội, là địa phương mà quá
trình đô thị hoá đang diễn ra rất mạnh mẽ. Những giá trị nhân cách, nhất là
học sinh THPT ở Đông Anh cũng ngày càng bị thay đổi theo sự biến đổi của
xã hội. Chính vì vậy nhằm định hướng cho nhân cách của các em như mong
muốn thì việc giáo dục nhân cách và định hướng những giải pháp giáo dục
cho học sinh THPT ở đây càng trở thành vấn đề cấp thiết. Xét tình hình thực
tế ở Đông Anh và với cương vị của một nhà giáo cho nên tôi đã chọn đề tài
“Giáo dục nhân cách cho học sinh THPT trên địa bàn huyện Đông Anh hiện
nay” mong được góp phần nhỏ bé của mình vào quá trình phát triển con
người và nguồn nhân lực địa phương.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhân cách là những phẩm chất xã hội của một con người cụ thể, nó
được hình thành và phát triển dưới tác động chủ yếu của các yếu tố xã hội.
Cho nên khi cuộc sống của con người bị thay đổi thì các thang giá trị của
nhân cách cũng thay đổi theo. Kể từ khi chúng ta bắt đầu xây dựng nền kinh
tế thị trường theo định hướng XHCN thì nó cũng kéo theo những sự thay
đổi nhất định về nhân cách con người Việt Nam nói chung và nhân cách thế
hệ trẻ nói riêng. Chính vì vậy, trong những năm gần đây rất nhiều công trình
nghiên cứu về giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ.
Đề tài “Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện
kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” của Hoàng Anh lại nghiên cứu về
xây dựng nhân cách của sinh viên trong điều kiện hiện nay.
Đề tài “Kinh tế thị trường với sự hình thành và phát triển nhân cách
người thầy giáo Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của Nguyễn Như Thơ
5

lại nghiên cứu về nhân cách người thầy giáo trong điều kiện kinh tế thị
trường.
Còn về vấn đề giáo dục nhân cách học sinh THPT trong điều kiện
hiện nay, nhất lại ở trên phạm vi của một địa phương có độ đô thị hoá và

công nghiệp hoá cao [như Đông Anh] thì chưa có một đề tài nào nghiên
cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn
- Làm rõ những yêu cầu cơ bản đối với nhân cách học sinh THPT
hiện nay và vai trò của việc giáo dục nhân cách cho học sinh trong điều kiện
kinh tế thị trường.
- Trên cơ sở làm rõ thực trạng giáo dục nhân cách cho học sinh hiện
nay, từ đó luận văn đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục nhân cách cho học sinh trong điều kiện hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn
- Nghiên cứu làm rõ khái niệm nhân cách và vai trò của việc giáo dục
nhân cách cho học sinh THPT trong điều kiện hiện nay.
- Nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân của việc giáo dục nhân cách
cho học sinh THPT ở Đông Anh hiện nay.
- Nghiên cứu đề ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục nhân cách cho học sinh THPT ở Đông Anh hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn này được nghiên cứu trên tình hình thực tế học sinh của các
trường Phổ thông trên địa bàn huyện Đông Anh - Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục.
6

- Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong luận văn là phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử với phương pháp điều tra xã hội
học, thống kê và phân tích, đánh giá.
6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ những yêu cầu đối và vai trò của việc giáo dục

nhân cách cho học sinh THPT ở Đông Anh trong điều kiện hiện nay.
- Đề ra một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiện quả giáo dục
nhân cách cho học sinh THPT ở Đông Anh trong điều kiện hiện nay.
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn, luận văn có thể
làm tài liệu tham khảo, ứng dụng vào công tác giáo dục nhân cách cho học
sinh THPT ở huyện Đông Anh cũng như ở địa phương khác.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn này ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, được chia thành 3 chương, 10 tiết.

7

Chương 1
Nhân cách và vai trò của giáo dục nhân cách
cho học sinh trung học phổ thông
trong điều kiện hiện nay
1.1. Nhân cách và những nhân tố tác động đến sự hình thành và
phát triển nhân cách học sinh trung học phổ thông trong điều kiện hiện
nay
1.1.1. Nhân cách và những yêu cầu đối với nhân cách học sinh
trong điều kiện hiện nay
1.1.1.1. Khái niệm nhân cách
Cùng với sự tồn tại và phát triển của xã hội, con người luôn là vấn đề
trung tâm và trở thành đối tượng của nhiều ngành khoa học. Cũng như mọi
công trình nghiên cứu, khi nghiên cứu con người cần phải có hệ thống các
khái niệm công cụ, trong đó khái niệm nhân cách được coi là khái niệm
trung tâm và cơ bản nhất.
Khái niệm nhân cách đầu tiên được hai nhà tâm lý học người Đức là
Dolthey và Spranger nêu ra vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Theo các
ông: Nhân cách là các mặt nạ có tính chất xã hội che “Cái tôi" bên trong khi

nào các mặt nạ đó trùng với "Cái tôi" bên trong thì nhân cách phát triển đến
độ chín muồi. Cho đến nay, khái niệm nhân cách đã được đề cấp đến ở rất
nhiều góc độ khác nhau.
Có quan điểm cho bản chất nhân cách là thuộc tính sinh vật, hay nói
cách khác là sinh vật hoá bản chất nhân cách. Nhân cách được coi là bản
năng tình dục [S.Freud], là đặc điểm của hình thể [Krestchmer], siêu đẳng,
bù trừ [A.Adler] vô thức tập thể [Kaal Jung], là các kiểu hoạt động thần kinh
cao cấp của người [một số nhà tâm lý học quá sùng bái học thuyết Pavlov].
Thực chất của các quan điểm trên dù hình thức biểu hiện ở mỗi người có
8

khác nhau nhưng đều sinh vật hoá bản chất nhân cách, đều mang quan điểm
duy tâm siêu hình.
Có quan điểm cho rằng bản chất nhân cách là nhân tính con người
[trường phái nhân văn và đại diện là: C.Rogers, R.May, A.Maslow, G.
Allport, Ch.Buhlerova, J.Bugental, A.Sutich, C.Moustakas ]. Những người
ở trường phái này đều quan tâm đến giá trị tiềm năng bẩm sinh của con
người, đến những đặc tính riêng của mỗi người, những kinh nghiệm của con
người. A.Maslow cho rằng tính xã hội nằm trong bản năng con người.
Những nhu cầu như giao tiếp, tình yêu, lòng kính trọng đều có tính chất bản
năng, đặc trưng cho giống người. Nhân cách là động cơ tự động điều hành
[G. Allport], là nhu cầu [A.Muarray], là tương tác xã hội [G.H.Mead], là lo
lắng [K.Hornej]. Những quan điểm này đều đề cao tính chất tự nhiên sinh
vật của con người, phủ nhận bản chất xã hội của nhân cách, do đó cũng rơi
vào chủ nghĩa duy tâm.
Có quan điểm cho rằng nhân cách được hiểu như là toàn bộ mối quan
hệ xã hội của cá nhân [Lucien Seve, Zeigarnite, Ogorodnikov]. Trong thực
tế của đời sống, một số người lấy quan hệ xã hội của cá nhân [gia đình, nhà
trường, cơ quan công tác, nghề nghiệp, bạn bè] làm chuẩn để đánh giá nhân
cách. Về thực chất của quan điểm này là xã hội hoá nhân cách một cách đơn

giản.
Nhân cách cũng được hiểu đồng nghĩa với khái niệm con người. Như
K.K. Platonov cho rằng nhân cách là con người có ý thức, nhân cách là con
người có lý trí, có ngôn ngữ, lao động [Từ điển Giáo dục, Đại bách khoa
toàn thư Liên Xô]. Loại quan điểm này nói về cái chung, cái đặc trưng nhất
của con người mà không chú ý đến cái đặc thù, cái riêng của nhân cách.
Có quan điểm cho rằng nhân cách được hiểu như cá nhân con người
với tư cách là chủ thể của mỗi quan hệ hoạt động có ý thức. [A.G.KAvalev,
I.X.Kon, từ điển tâm lý học Liên Xô]. Hiện nay quan điểm này được đa số
9

các nhà tâm lý học xã hội chấp nhận, coi nhân cách là cá nhân, là cá thể so
với tập thể và xã hội.
Nhân cách cũng được hiểu như là các thuộc tính nào đó tạo nên bản
chất nhân cách như các thuộc tính ổn định, các thuộc tính sinh vật hoặc
thuộc tính xã hội. P.Bueva cho rằng nhân cách là con người với toàn bộ
những phẩm chất con xã hội của nó. Nhân cách là toàn bộ những đặc tính và
những quy luật cá nhân [H.Hipso và M.Phor vec], là tổng số những đặc
điểm cá nhân con người mà không người nào có [E.P.Hollander].
Nhân cách được hiểu như cấu trúc hệ thống tâm lý của cá nhân.
Trong hàng chục năm lại đây, nhiều nhà tâm lý học đều có xu hướng hiểu
nhân cách là cấu trúc, hệ thống tâm lý [A.N.Leonchiev, K.Obuchowxki].
Nhân cách là cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong mối quan hệ
sống của cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của con người đó [A.N.
Leonchiev], với quan niệm bản chất nhân cách là một hệ thống tổ chức. K.
Obuchokxki định nghĩa nhân cách như sau: “Nhân cách là sự tổ chức những
thuộc tính tâm lý của con người có tính chất lịch sử xã hội, ý nghĩa của nó
cho phép và giải thích và dự đoán hành động cơ bản của con người”. Mặc
dù có những điểm khác nhau về cấu trúc nhân cách [thành phần cấu trúc, sự
phối hợp, các thành phần đó, thứ bậc của thành phần, v.v ], nhưng nói

chung có nhược điểm là quy nhân cách về tâm lý học, là biểu hiện của chủ
nghĩa duy vật y học trong quan niệm nhân cách mà Lucien Seve đã phê
phán.
ở Việt Nam, theo từ điển tiếng Việt nhân cách được hiểu là những
phẩm chất con người. Tuy nhiên, trên thực tế cách hiểu của người Việt Nam
về nhân cách có thể theo các mặt sau đây:
- Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và
năng lực, hoặc là con người có phẩm chất: đức, trí, thể, mỹ, lao [lao động].
- Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người.
10

- Nhân cách được hiểu như các phẩm chất của con người mới: làm
chủ, yêu nước, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động.
- Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con
người.
Như vậy, khái niệm nhân cách thường gắn liền với khái niệm con
người [ít nói đến cá nhân]. Những phẩm chất nhân cách đó là những phẩm
chất đòi hỏi ở mỗi người phải có.
Ngày nay, với sự phát triển của khoa học xã hội và nhân văn, vấn đề
nhân cách càng nổi lên với những công trình nghiên cứu đồ sộ. Có thể nói,
không một lĩnh vực khoa học nào có đủ khả năng và điều kiện để nghiên
cứu nhân cách một cách độc lập và biệt lập. Trong số hàng trăm định nghĩa
về nhân cách khó có thể tìm được một định nghĩa có tính phổ quát nói lên
được hoàn toàn đầy đủ các tố chất hợp thành khái niệm nhân cách. Mỗi
ngành khoa học: Tâm lý học, Xã hội học, Đạo đức học, Luật học, Văn hoá
học đều đã chọn một mặt, một phương diện nào đó của nhân cách và lấy
đó làm đối tượng phân tích khoa học của mình. Điều này lý giải tại sao lại
có nhiều định nghĩa nhân cách và vì sao có những sự khác nhau nhất định
giữa các quan niệm ấy.
Tuy nhiên có thể nhận thấy rằng các quan điểm về nhân cách của các

nhà khoa học được chia làm hai khuynh hướng:
- Một là: Coi nhân cách là đặc trưng, chức năng, vai trò vị trí của con
người trong xã hội.
- Hai là: Coi nhân cách là đặc trưng bản chất của con người [13,
tr.11].
Khi bàn về con người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đặc biệt
chú ý đến bản chất xã hội của con người, lý giải các mối quan hệ xã hội
tham gia vào sự hình thành bản chất ấycũng như vai trò của thực tiễn và
hoạt động thực tiễn đối với sự hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân
11

cách. Mác đã đưa ra nhận xét bản chất của con ngườilà phẩm chất xã hội
của con người. Như vậy, con người là một thực thể sinh học xã hội mang
bản chất xã hội, còn nhân cách phản ánh trình độ phát triển về mặt xã hội,
phản ánh mức độ cá thể hóa, tính độc đáo trong mỗi cá nhân con người.
Nhân cách là sự thống nhất biện chứng giữ yếu tố xã hội và cá nhân trong
mỗi con người. Sự thống nhất này tạo điều kiện cho quá trình hình thành và
phát triển nhân cách.
Triết học Mác-Lênin xem nhân cách là một chỉnh thể cá nhân có tính
lịch sử cụ thể. Nó tham gia vào hoạt động thực tiễn, đóng vai trò chủ thể
của nhận thức và sự phát triển xã hội [4, tr.33]. Hay nói cách khác nhân
cách là con người cụ thể đã định hình và phát triển về mặt xã hội và trở
thành chủ thể của xã hội.
Như vậy nói đến nhân cách trước hết là nói đến nhân cách của một
con người hiện thực, gắn liền với bản chất xã hội của nó, là sản phẩm của
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể. Nó là kết quả của hoạt động người trong
quá trình họ tiếp nhận sự giáo dục của xã hội và quá trình tự giáo dục của
bản thân. Quá trình này không chỉ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong sự
phát triển nhân cách mà còn là phương diện chủ yếu để tạo ra diện mạo
nhân cách của con người. ở đây các yếu tố sinh vật di truyền, tâm sinh lý, xã

hội hòa quyện vào nhau. Đối với sự phát triển nhân cách, yếu tố di truyền và
tâm sinh lý là cơ sở sinh vật, là điều kiện tự nhiên mà trên cơ sở đó hình
thành những đặc điểm lịch sử - xã hội của con người.
Mặt khác, nhân cách là nhân cách của từng cá nhân cụ thể có quan hệ
mật thiết với điều kiện tự nhiên và xã hội xung quanh. Mỗi cá nhân mang
nhân cách này vừa có khả năng tự đánh giá của bản thân vừa có khả năng
đánh giá hành vi của cá nhân mang nhân cách khác. Quá trình tự đánh giá
và được đánh giá đó là quá trình cá nhân thực hiện những hành vi cho mình
và cho người khác theo yêu cầu chung của nhân cách xã hội. Nói cách khác,
12

nhân cách là phẩm chất bên trong của mỗi cá nhân trước những đòi hỏi của
xã hội và của bản thân cá nhân để cá nhân đó tồn tại và làm tròn trách nhiệm
của mình với bản thân và với xã hội. Do đó nhân cách bị chi phối bởi nhân
cách xã hội, phản ánh nhân cách xã hội, đồng thời nhân cách xã hội tìm thấy
mình qua những hình ảnh, diện mạo riêng rất đa dạng của mỗi nhân cách cá
nhân.
Nghiên cứu khái niệm nhân cách nhằm xây dựng một nhân cách của
con người Việt Nam hài hoà thì không thể không nghiên cứu cấu trúc nhân
cách.
Cấu trúc nhân cách là sự xắp xếp các tính chất, thành phần, thuộc tính
của nhân cách thành một chỉnh thể trọn vẹn tương đối ổn định trong những
mối liên hệ và quan hệ nhất định. Hiện nay đang tồn tại những quan niệm
khác nhau về cấu trúc nhân cách. Học thuyết phân tâm của S. Freud cho
rằng con người được tạo ra bởi ba khối: Vô thức, tiền ý thức và ý thức.
Tương ứng với ba khối này cấu trúc nhân cách có ba phần: Nó [Freud gọi là
Id]; Tôi [Freud gọi là Ego] và siêu tôi [Freud gọi là super Ego]. Id là nơi
chức năng lượng tâm thần, khát vọng, bản năng, hoạt động theo nguyên tắc
khoái cảm, nghĩa là yêu cầu được thoả mãn ngay tức khắc những khát vọng
bản năng. Ego được hình thành do áp lực của thực tại bên ngoài tới toà bộ

khối bản năng, hoạt động theo nguyên tắc của nhu cầu thực tại, nghĩa là con
người phải dùng một năng lượng đáng kể để kiềm chế và kiểm soát những
phi lí của Id. Super Ego được hình thành do kết quả của giáo dục và văn
hoá, hoạt động theo nguyên tắc phê phán và kiểm duyệt. Nhân cách sẽ phát
triển bình thường nếu ba khối này ở trạng thái cân bằng tương đối. Sự xung
đột, mâu thuẫn giữa ba khối này chính là cơ chế hoạt động tinh thần của con
người.
Phái "Lý luận hai thành phần trong sự phát triển tâm lý" cho rằng cấu
trúc nhân cách gồm hai cấu trúc nhỏ: nội tâm lý và ngoại tâm lý: Nội tâm lý
13

bao gồm các yếu tố sinh vật của nhân cách, còn ngoại tâm lý bao gồm tất cả
các nội dung xã hội của nhân cách.
Những quan niệm trên hoặc đã tuyệt đối hoá mặt bản năng sinh vật
của con người [Freud], hoặc đã phân chia một cách siêu hình hai thành phần
xã hội và sinh vật của con người [Phía hai thành phần].
Khắc phục những sai lầm đó, các nhà khoa học mác xít đã xác lập cấu
trúc nhân cách trên cơ sở cuộc sống thực và hoạt động thực của con người.
Nhà tâm lý học [Liên xô cũ] A. G. Côvaliốp cho rằng nhân cách gồm bốn
thuộc tính: xu hướng, khí chất, tính cách, năng lực. Theo J. Stêpphannôvic
[Tiệp khắc] cấu trúc nhân cách gồm 5 thành phần: Đặc điểm tích cực - động
cơ của nhân cách thể hiện tính xu hướng của nhân cách; đặc điểm lập
trường - quan hệ của nhân cách thể hiện giá trị của nhân cách: đặc điểm
hành động của nhân cách thể hiện khả năng hoạt động của nhân cách; đặc
điểm tự điều chỉnh của nhân cách thể hiện khả năng tự điều chỉnh, kiểm tra,
đánh giá, phê bình của nhân cách; đặc điểm về động thái của nhân cách thể
hiện ở khí chất của nhân cách
ở Việt Nam, khi nói đến nhân cách người ta thường nói đến hai thành
phần cơ bản: Đức và Tài hay phẩm chất và năng lực. Phẩm chất là yếu tố
nền tảng có ý nghĩa định hướng, định vị cho mỗi người và là một trong

những điều kiện chủ quan để phát triển và sử dụng tốt năng lực. Còn năng
lực là yếu tố quan trọng, yếu tố hữu dụng đối với xã hội, thể hiện tính tích
cực của xã hội của mỗi cá nhân. Tuỳ sở trường mà năng lực được thể hiện ở
mặt này hay mặt khác. Đối với toàn xã hội mà nói, năng lực trí tuệ là quan
trọng nhất. Năng lực trí tuệ được thể hiện ở trình độ học vấn, trình độ tư
duy, khả năng suy nghĩ và hành động hợp lý, khả năng thích nghi với những
biến đổi của hoàn cảnh. Nếu nhìn từ gốc độ kinh tế, năng lực trí tuệ được
coi là nguồn tài nguyên quý giá của mỗi quốc gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh
khi nói về nhân cách cũng đã nêu ra cấu trúc nhân cách người cán bộ gồm
14

hai khối: Đức và tài. Người luôn coi trọng yếu tố "đức", thường đặt "đức"
trước "tài", "hồng" trước " chuyên": "Phải có chính trị trước rồi mới có
chuyên môn, chính trị là đạo đức, chuyên môn là tài, có tài mà không có
đức là hỏng" [26, tr.188] coi trọng đạo đức, lấy đạo đức cách mạng làm
gốc, song chưa bao giờ người xem nhẹ tài năng. Một người cách mạng chân
chính phải có cả đức lẫn tài, phẩm chất cách mạng và năng lực công tác, đó
là hai mặt không thể tách rời hoà quyện vào nhau trong nhân cách người cán
bộ. Biện chứng giữa đức và tài, phẩm chất và năng lực được thể hiện rất rõ
trong luận điểm sau của chủ tịch Hồ Chí Minh "Có tài mà không có đức ví
như anh làm kinh tế tài chính rất giỏi lại đi đến thụt két thì chẳng những
không làm được gì ích lợi cho xã hội mà còn có hại cho xã hội nữa. Nếu có
đưc mà không có tài ví như ông bụt không làm hại gì nhưng không cũng
không lợi gì cho loài người" [25, tr.74]. Trong những phân tích dưới đây
của luận văn, chúng tôi sử dụng quan niệm coi nhân cách bao gồm phẩm
chất và năng lực, quan niệm cấu trúc nhân cách như vậy gần gũi với những
quan niệm truyền thống của người Việt Nam và cũng phù hợp với định
nghĩa triết học về nhân cách mà chúng tôi sử dụng ở phần trên.
1.1.1.2. Những yêu cầu đối với nhân cách học sinh trung học phổ thông
Với quan niệm như vậy, qua nhiều năm làm công tác giáo dục tôi

nhận thấy học sinh trung học phổ thông hiện nay nói chung phải có nhưng
yêu cầu sau:
Thứ nhất: Có lí tưởng, có hoài bão và đạo đức trong sáng:
Lí tưởng là mục tiêu cuộc sống được phản ánh vào đầu óc con người
dưới hình ảnh mẫu mực và hoàn chỉnh, có tác dụng lôi kéo mạnh mẽ toàn bộ
cuộc sống cá nhân, chỉ đạo sự tu dưỡng và hành động của cá nhân trong một
thời gian dài. Như vậy lí tưởng của thanh niên, học sinh có vai trò rất quan
trọng trong việc hình thành nhân cách của họ. Nếu xác định lí tưởng đúng
đắn thì học sinh sẽ có sự tu dưỡng và hành động phù hợp với nhu cầu lợi ích
15

của xã hội và trở thành công dân có ích cho xã hội. Ngược lại, nếu lí tưởng
lệch lạc thì các em sẽ có cuộc sống buông thả, thiếu sự rèn luyện và hành
động vì lợi ích cá nhân dẫn đến ích kỷ, hẹp hòi. Tuy nhiên nói như vậy
không có nghĩa chúng ta phủ nhận lợi ích cá nhân. Lợi ích cá nhân phải
được kết hợp hài hoà trong lợi ích tập thể. Thực tế cho thấy hiện nay bên
cạnh sự hi sinh, phấn đấu và cống hiện cho lợi ích cộng đồng thanh niên rất
quan tâm đến lợi ích của gia đình mình. Do đó lí tưởng của thanh niên học
sinh hiện nay có nội dung là kết hợp hài hoà giữa lợi ích cộng đồng và lợi
ích cá nhân.
Trong sự nghiệp đổi mới việc xây dựng niềm tin lí tưởng trong thanh
niên nói chung và trong học sinh nói riêng là rất quan trọng. Bởi vì niềm tin
có quan hệ trực tiếp với hành động hàng ngày của con người, nó hướng dẫn,
thôi thúc nhân cách trong hoạt động thực tiễn, củng cố được niềm tin lí
tưởng trong các em sẽ làm cho các em cống hiến hết sức mình vào sự
nghiệp đổi mới và nó thể hiện cụ thể bằng thái độ tích cực học tập và rèn
luyện của các em. Do đó lí tưởng là một yêu cầu không thể thiếu của nhân
cách học sinh trung học phổ thông trong giai đoạn hiện nay.
Hiện nay, thanh niên học sinh đang đứng trước những nhiệm vụ to
lớn và đầy vinh quang là cùng nhân dân cả nước tiến hành công cuộc đổi

mới nhằm xây dựng đất nước giàu mạnh và bảo vệ toàn vẹn chủ quyền lãnh
thổ. Do đó thanh niên học sinh phải có hoài bão và đạo đức cách mạng.
- Có hoài bão là tính cách điển hình của thanh niên học sinh. Trong
cảnh đất nước bị xâm lăng, các thế hệ thanh niên học sinh đã mang hoài bão
lớn “ Xếp bút nghiên lên đường chiến đấu” sẵn sàng hi sinh tuổi thanh xuân
để góp phần giải phóng đất nước. Thanh niên ngày nay lại ra sức “Rèn đức,
luyện tài - ngày mai lập nghiệp” họ đã biết gắn liền sự phấn đấu vì cuộc
sống tốt đẹp hơn của bản thân và gia đình với ý chí mãnh liệt: xây dựng đất
nước giàu mạnh và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
16

Mặt khác, thế giới ngày nay đang chứng kiến những tiến bộ vĩ đại của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. Vì vậy, để thực hiện được hoài bão trên
các em phải có trí tuệ, có chí nâng cao trí tuệ về mọi mặt thì các em mới có
khả năng đáp ứng yêu cầu của đất nước và của thời đại.
Một đòi hỏi nữa đối với nhân cách của học sinh trung học phổ thông
hiện nay là phải không ngừng rèn luyện đạo đức. Đạo đức phải được thể
hiện sinh động trong cuộc sống hàng ngày phải hiếu thảo đối với cha mẹ,
kính già yêu trẻ tôn trọng thầy cô, bạn bè ở xã hội nào cũng vậy, con
người phải có đạo đức đó là cái gốc của nhân cách con người. Khi đất nước
chuyển sang kinh tế thị trường bên cạnh những mặt tốt, những mặt tích cực
cũng có những biểu hiện suy đồi đạo đức và những mặt tiêu cực. Do đó việc
rèn luyện đạo đức, bảo tồn những giá trị văn hoá và bản sắc dân tộc, chống
những biểu hiện suy đồi trong lối sống, đạo đức là một đòi hỏi bức thiết đặc
biệt là đối với thanh niên học sinh.
Thứ hai: Có ý thức tự lập, chủ động, sáng tạo trong học tập và cuộc sống
Học sinh trung học phổ thông là giai đoạn đầu của tuổi thanh niên. ở
tuổi ấu thơ các em được sống trong sự đùm bọc, che chở của gia đình, sự
chăm sóc của xã hội. Khi trưởng thành bước vào cuộc sống các em dần
thoát li khỏi sự bao cấp của gia đình, phải tự khẳng định mình trong cuộc

sống ngày càng đa dạng và phức tạp. Do đó, hình thành và phát triển tính tự
lập cho các em là một đòi hỏi khách quan nhằm chuẩn bị cho các em tự tin
bước vào cuộc sống.
Sự tự lập trong cuộc sống là một đặc điểm mới trong nhân cách của
học sinh trung học phổ thông mặc dù, ngay từ khi còn nhỏ con người luôn
có xu hướng tự khẳng định mình trong mọi hoạt động. Nhưng khi bước chân
vào nhà trường trung học phổ thông các em có hoạt động mới, địa vị mới
trong tập thể, những quan hệ mới với thế giới xung quanh. Những hoàn
cảnh này buộc các em phải ý thực được đặc điểm nhân cách của mình. Các
em phấn đấu để khẳng định mình trong đời sống tập thể.
17

Quá trình hình thành tính tự lập trong các em là quá trình lâu dài và
phức tạp. Các em không chỉ nhận thức về cái tôi của mình trong hiện tại như
thời niên thiếu mà các em còn nhận thức về vị trí của mình trong xã hội
trong tập thể, nó thể hiện rất rõ ở tinh thần trách nhiệm, lòng tự trọng ý thức
trong cộng đồng Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận rằng phát huy tính tự
lập trong mọi hoạt động của các em nếu thiếu sự quản lý giáo dục của gia
đình, nhà trường thì hậu quả rất khó lường. Do đó việc giáo dục, định hướng
cho các em là rất quan trọng.
Thứ ba: Có tinh thần trách nhiệm, có ý thức vươn lên trong học tập
và trong cuộc sống.
Tinh thần trách nhiệm và ý chí vươn lên trong cuộc sống là một trong
những đặc điểm không thể thiếu của nhân cách con người thời kỳ công
nghiệp hoá - nói chung và của học sinh trung học phổ thông nói riêng.
Như chúng ta đã biết trong cuộc sống con người luôn vươn tới sự tự
do. Nhưng từng con người không thể đạt được điều đó nếu họ đứng riêng
biệt không trong xã hội. Tự do cá nhân không thể phù hợp nhân tính kỷ luật,
nghĩa vụ công dân, sự tôn trọng người khác. Chủ nghĩa Mác - Lênin xem
quyền và trách nhiệm công dân trong sự thống nhất với nhau.

Trách nhiệm thường được hiểu là năng lực của con người, ý thức
được và thấy trước được những kết quả hoạt động của mình, xác định đến
lợi ích hoặc tác hại do hoạt động đó có thể đem lại cho xã hội [40, tr.52].
Như vậy trách nhiệm có thể tồn tại ngay khi cá nhân tiên đoán một cách
đúng đắn kết quả hoạt động của mình và có những khi kết quả đó trái với dự
tính. Trách nhiệm là quyền và nghĩa vụ của cá nhân đối với xã hội và ngược
lại xã hội đối với cá nhân. Trách nhiệm đó bao gồm việc từng cá nhân ý
thức được hành động của mình đối với chính mình, đối với mọi người và
đối với xã hội.
18

Trách nhiệm khác với nghĩa vụ, nghĩa vụ của mỗi người biểu hiện ở
việc ý thức được và thể hiện các yêu cầu của xã hội, còn trách nhiệm biểu
hiện ở chỗ các yêu cầu đó được hoàn thành và không hoàn thành tới mức
nào. Trách nhiệm của mỗi người có nội dung khách quan và nội dung này
do tính tất yếu lịch sử quy định. Việc ý thức được tính tất yếu lịch sử cho
phép nhân cách quyết định, lựa chọn các hành vi của mình một cách có
trách nhiệm hơn.
Việc con người ý thức được tính tất yếu phải kết hợp hài hoà giữa lợi
ích và nhu cầu của mình với lợi ích và nhu cầu người khác, của toàn xã hội
cho phép họ biểu hiện ý thức trách nhiệm cao hơn đối với bản thân, đối với
người khác và đối với xã hội.
Khi chúng ta thực hiện nền kinh tế thị trường, con người được giải
phóng mọi năng lực cá nhân, lợi ích của con người được bảo đảm. Do đó
nếu thiếu tinh thần, trách nhiệm hoặc hiểu không đúng về tinh thần trách
nhiệm thì sẽ trở nên nhỏ nhen, ích kỷ, thậm chí đôi khi xung đột mâu thuẫn
vì lợi ích của tập thể hoặc toàn xã hội. Trong xã hội công nghiệp, nền sản
xuất với trình độ chuyên môn hoá cao thì càng đòi hỏi phải có ý thức trách
nhiệm cao, có như vậy mới hoàn thành được nhiệm vụ của mình.
Thực tế thế hệ trẻ nói riêng và học sinh trung học phổ thông hiện nay

đang rất mơ hồ về trách nhiệm, thậm chí còn thiếu trách nhiệm trước những
yêu cầu của xã hội. Qua điều tra hơn 2000 học sinh ở trường Trung học phổ
thông Vân Nội về ý thức trách nhiệm của các em cho thấy đến 98% số học
sinh cho rằng học tập là vì bản thân, vì gia đình, 1,7% cho rằng học tập vì xã
hội, còn lại là vì nguyên nhân khác.
Khi được hỏi “Anh [chị] có quan tâm đến các chỉ tiêu đời sống xã hội
không ?” 70% trả lời: không, 30% trả lời: ít quan tâm.
Từ kết quả trên đây chứng tỏ học sinh trung học phổ thông rất ý thức
trách nhiệm đối với xã hội, một bộ phận không có trách nhiệm đối với bản
19

thân. Do đó giáo dục ý thức trách nhiệm cho các em là điều hết sức quan
trọng.
Trong cơ chế thị trường bên cạnh những yếu tố tích cực, còn có vô số
những tác động tiêu cực làm cho cuộc sống có rất nhiều rủi ro, nếu không có
lập trường vững vàng, một ý chí vươn lên thì còn người sẽ chịu nhiều thất
bại. Đối với các em học sinh trung học phổ thông, từ nhỏ các em đã được sự
chăm lo, che chở, bảo hộ của gia đình, hầu như các em chưa vấp phải những
khó khăn trong cuộc sống, do đó ý thức chán trường, không chịu khắc phục
khó khăn, thách thức thường được biểu hiện rất rõ khi các em gặp khó khăn.
Một hiện tượng đáng báo động hiện nay trong đời sống tâm lý của các em
đó là lối sống buông thả do gặp phải rủi ro trong cuộc sống. Như vậy cùng
với việc giáo dục tinh thần trách nhiệm thì giáo dục ý chí vươn lên của các
em là hết sức cần thiết.
Thứ tư: Có ý thức chấp hành pháp luật của Nhà nước, quy định của
cộng đồng, nội quy, quy chế của nhà trường.
Con người là một thực thể sinh vật, nhưng đồng thời con người cũng
là một thực thể xã hội. Do đó mỗi con người là một thành viên không thể
tách rời một gia cấp, một tập thể, một xã hội nhất định. Khi tồn tại trong một
tổ chức nhất định mỗi cá nhân phải có nghĩa vụ phục tùng kỷ luật, kỷ cương

chung của tổ chức ấy, tức là cá nhân mỗi con người phải có nghĩa vụ chấp
hành.
Như chúng ta đã biết, trong cuộc sống, để tồn tại và phát triển mỗi
con người đều phải có những nhu cầu và lợi ích riêng và muốn được thoả
mãn những nhu cầu và lợi ích ấy. Muốn vậy con người phải lao động để tạo
ra của cải vật chất và tinh thần phục vụ nhu cầu cuộc sống của mình. Trong
lao động đòi hỏi phải có sự bình đẳng, sự đoàn kết và tính kỷ luật. Có như
vậy mới đạt hiệu quả cao trong lao động.
Tính chấp hành của nhân cách được biểu hiện ở thái độ phục tùng kỷ
luật của tổ chức, pháp luật của xã hội. Một tổ chức, một xã hội muốn có sức
20

mạnh thì phải có tính kỷ luật và đòi hỏi mọi thành viên của tổ chức, xã hội
ấy phải phục tùng. Có như vậy xã hội mới hoàn thành nhiệm vụ của mình
đem lại quyền lợi cho mỗi cá nhân.
Tính chấp hành của ý thức cần được thể hiện rõ ở ý thức biết đem nhu
cầu và lợi ích của mình phục tùng nhu cầu lợi ích của tập thể, của người
khác, của xã hội. Trong những trường hợp nhất định biết hy sinh nhu cầu và
lợi ích của mình cho nhu cầu lợi ích của toàn xã hội. Như vậy tính chấp
hành của nhân cách thể hiện ở tinh thần tập thể, tinh thần cộng đồng. Mỗi cá
nhân, trong cuộc sống của mình phải tham gia nhiều tập thể do đó ở địa
phương phải chấp hành những qui định ở địa phương, ở nhà trường phải biết
chấp hành nội qui của nhà trường và trong xã hội phải biết chấp hành pháp
luật của nhà nước.
Học sinh trung học phổ thông là nhóm nhân khẩu đặc thù tuổi từ 15-
16 và 17-18 có đặc điểm tâm lí sôi nổi nhưng bồng bột, các em dễ bị các
thói hư tật xấu lôi kéo, thích lối sống tự do, chán ghét sự chấp hành.
Thực tế qua điều tra cho thấy hầu hết các em cảm thấy khi chịu phải
chấp hành một qui định nào đó cho dù qui định đó là chính đáng. Có đến
95% số học sinh ở trường Vân Nội được hỏi trả lời khó chịu khi phải mặc

đồng phục, đi dép quai hậu; 76% trả lời khó chịu khi được sự quan tâm của
gia đình.
Ngày nay chúng ta đang xây dựng một nhà nước pháp quyền, do đó
tính chấp hành là một đặc điểm không thể thiếu trong nhân cách của con
người mới.
1.1.2. Các nhân tố chủ yếu tác động đến sự hình thành và phát
triển nhân cách học sinh Trung học phổ thông
Đối với học sinh trung học phổ thông cũng như các cá nhân khác
trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của mình cũng chịu ảnh
hưởng của hai yếu tố cơ bản đó là yếu tố sinh học và yếu tố xã hội. Yếu tố
sinh học được quy định chủ yếu từ cơ chế di truyền còn mặt xã hội của nhân
21

cách được quy định quá trình con người ra nhập vào môi trường xã hội.
Nhưng học sinh học sinh trung hoc phổ thông - nhóm nhân khẩu đặc thù thì
ngoài sự ảnh hưởng của hai yếu tố trên còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố
sau:
- Một là: Nhân tố tâm lý lứa tuổi:
Đa số học sinh trung học phổ thông là ở lứa tuổi mới lớn ở lứa tuổi
này các em có tính năng động và độc lâp ở mức độ cao hơn so với thời thiếu
niên. Do đó ý thức của các em đối với mọi hoạt động đều phát triển. Các em
có sức khoẻ, có bộ máy thần kinh và hoạt động thần kinh hoàn thiện nên các
em có khả năng phản xạ chính xác, nhanh nhẹn, dễ thích nghi với hiện thực
xung quanh, có thái độ ham hiểu biết, có nhu cầu về tình bạn, tình yêu phát
triển. Nhưng đặc điểm này tác động mạnh tới sự hình thành tư tưởng chính
trị của các em và khi các em xác định được niềm tin, lý tưởng thì các em sẵn
sàng xả thân vì lý tưởng.
ở lứa tuổi trung học phổ thông tư duy của các em cũng có bước phát
triển mạnh mẽ hơn so với tuổi thiếu niên. Trong hoạt động học tập các em
không chỉ tiếp thu một cách thụ động mà các em có đòi hỏi nắm vững, hiểu

rõ kiến thức được học, ở các em bắt đầu có tư duy lý luận. Do đó khi tiếp
thu tri thức các em thường đòi hỏi phải chứng minh, luận giải chặt chẽ. Do
sự phát triển của tư duy mà khả năng hiểu biết của các em cũng phát triển
nên các em thường hay tranh luận, tìm tòi thêm những kiến thức ở các
nguồn thông tin để bổ sung cho kiến thức của mình. ở các em quan hệ tình
bạn chiếm vị trí lớn trong quan hệ xã hội nên các em thích giao lưu, thích
sinh hoạt tập thể. Vì vậy các em tự nguyện tham gia các chương trình cộng
đồng, qua đó các em rèn luyện được cho mình năng lực thực tiễn. Do ở lứa
tuổi năng động nên các em không có tính trì trệ, bảo thủ, dễ thích nghị với
những cái mới. Chính vì vậy trong quá trình giáo dục nhân cách nếu không
có tính định hướng thì hậu quả thật khó tưởng tượng nhất là trong cơ chế thị
trường hiện nay.
22

Vấn đề hiện nay mà học sinh trung học phổ thông quan tâm nhiều
nhất là vấn đề tương lai, các em luôn hướng đến tương lai. Cho nên các em
cũng rất quan tâm đến những vấn đề lớn của đất nước, của dân tộc, đến chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Điều đó giúp các em định hướng
cho tương lai của mình. Chính vì vậy, việc giáo dục nhân cách cho các em
không chỗ dừng lại ở vấn đề giáo dục các chuẩn mực đạo đức chung chung
mà các việc định hướng tương lai cho các em, định hướng nghề nghiệp và
định hướng kiến thức. Đó là trách nhiệm của gia đình và nhà trường.
Đối với các em, kinh tế còn phụ thuộc gia đình cho nên các em coi
trọng gia đình, tích cực học tập. Các em phải ý thức được vai trò vị trí của
mình đối với gia đình. Do đó gia đình nói chung và giáo dục gia đình nói
riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự hình thành nhân cách của các
em vì gia đình không chỉ là cái nôi nuôi dưỡng mà còn là cái nôi tinh thần
của các em.
Trong quan hệ xã hội với đặc trưng lứa tuổi các em có khả năng cảm
thụ xúc cảm, đồng cảm phát triển mạnh. Cho nên, hầu hết học sinh trung

học phổ thông có tình cảm cởi mở, dễ hoà nhập, các em thích những hoạt
động giao lưu văn hoá, hoà nhập mình vào các mối quan hệ xã hội cũng từ
đây các em ý thức được vị trí của mình đối với xã hội, các em có ý thức tự
điều chỉnh, tự rèn luyện theo những chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước theo những chuẩn mực xã hội để khẳng định vị thế của mình
trong xã hội và tìm ra câu trả lời: Tôi là ai? tôi có vị trí như thế nào trong xã
hội? ý nghĩa cuộc đời tôi là gì? Đó là phẩm chất thế giới quan của nhân cách
học sinh.
Vì có hoàn bão lớn, có mơ ước và có lý tưởng chính trị, có ý chí vươn
lên nên học sinh trung học phổ thông đa số có xu hướng tích cực phấn đấu.
Tuy nhiên do đặc điểm tâm lý lứa tuổi nên cũng có những mặt tiêu cực tác
động đến sự hình thành nhân cách của các em.
23

- Do yếu tố giao tiếp quan hệ bạn bè giữ vai trò chủ đạo chi phối các
quan hệ khác trong đời sống xã hội của học sinh nên các em thích bàn luận
về những vấn đề tình bạn, tình yêu các vấn đề văn hoá nghệ thuật hơn là
những vấn đề chính trị, chính vì vậy ở các em chính trị ít được quan tâm cho
nên việc giáo dục những lý tưởng chính trị cần có những phương pháp phù
hợp không nên thuyết giảng cứng nhắc. Do tâm lý không thích bàn luận vấn
đề chính trị, kết hợp với sự chưa từng trải, chưa kinh qua thực tiễn lao động
và chiến đấu, sự thiếu kinh nghiệm trong cuộc sống cho nên các em mơ hồ
về chính trị, ngại tham gia công tác đoàn thể. Chính vì vậy, nhiều khi các
thế lực phản động lợi dụng đặc điểm tâm lý này đến lôi kéo thế hệ trẻ vào
những mục đích của chúng. Để khắc phục hạn chế này đối với các em thì
công tác giáo dục, đặc biệt là giáo dục chính trị tư tưởng phải thường xuyên
liên hệ chặt chẽ với thực tiễn, phải có sự tác động tích cực của nhiều phương
thức giáo dục phù hợp với lứa tuổi để tạo ra nhu cầu và cũng là chiếm lĩnh
khoảng trống trong họ trên mặt trận chính trị tư tưởng.
- Do các em có nhu cầu muốn khẳng định mình trong xã hội nhưng lại

chưa đủ kinh nghiệm sống và không phải lúc nào mục tiêu các em đặt ra đều
được ý thực rõ ràng. Cho nên các em cảm thấy không được thoả mãn và
mục tiêu các em đặt ra dễ thay đổi. Trong cuộc sống các em thường quan
tâm đến bản thân và nhân cách của mình nhiều hơn, chính vì thế các em hay
đề cao mình quá mức. Do đó trong mọi hoạt động các em đều muốn thử sức,
muốn bộc lộ khả năng của mình và nhiều khi không phân biệt được hoạt
động nào là tốt là xấu. Những đặc điểm này làm các em dễ thay đổi trước
những bước ngoặt của cuộc đời, trước những vấn đề phức tạp của cuộc
sống. Không ít những trường hợp thanh niên học sinh bị bế tắc trong cuộc
sống đã có những hành động bột phát trái với đạo đức, trái với pháp luật.
Nhận xét về thanh niên trong bức thư gửi thanh niên đã Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: “Nói tóm lại: ưu điểm của thanh niên là hăng hái giàu kinh

I. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1. Nhân cách là gì?

Định nghĩa: Hiện nay có nhiều định nghĩa về nhân cách nhưng nhìn chung, nhân cách thường được xác định như là một hệ thống các quan hệ của con người đối với thế giới xung quanh và đối với bản thân mình. Theo đó, “Nhân cách là tổ hợp những thuộc tính tâm lý của cá nhân biểu hiện ở bản sắc và giá trị xã hội của người ấy.

Nhân cách không phải là tất cả các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ bao hàm những đặc điểm quy định con người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý xã hội, giá trị và cốt cách làm người của mỗi cá nhân. Tuy nhiên nhân cách không phải là một nét, một phẩm chất tâm lý riêng lẻ mà là một cấu tạo tâm lý mới. Do đó không phải con người sinh ra đã có nhân cách. Ngoài ra, nhân cách còn quy định bản sắc, cái riêng của cá nhân trong sự thống nhất biện chứng với cái chung, cái phổ biển của cộng đồng mà cá nhân đó là đại biểu. Ví dụ: mỗi sinh viên Việt Nam đều là nhân cách duy nhất với tất cả những đặc điểm riêng biệt của mình, song đều có cái chung của con người Việt Nam là tình yêu làng xóm, yêu quê hương Việt Nam.

Qua những phân tích trên có thể thấy nhân cách có một số đặc điểm sau:

– Tính thống nhất: thống nhất giữa việc nói và việc làm, giữ ý thức và hành động, giữa đức và tài..

– Tính ổn định: nhân cách con người là quá trình hình thành từ từ, nhân cách là tổ hợp các thuộc tính ổn định, tiềm tàng của cá nhân, nó khó hình thành mà cũng khó mất đi.

– Tính tích cực: nhân cách con người là chủ thể của hoạt động và giao lưu các mối quan hệ giữa người này với người khác

– Tính giao lưu: Nhân cách chỉ có thể hình thành, phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động và trong mối quan hệ giao tiếp với những cá nhân khác. Thông qua quan hệ giao tiếp với người khác, con người gia nhập các quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống giá trị xã hội; được đánh giá, được nhìn nhận theo quan hệ xã hội. Điều quan trọng là thông qua giao tiếp, con người còn đóng góp các giá trị nhân cách của mình cho người khác, và cho xã hội.

Đó là 04 đặc điểm của với nhân cách, nó rất quan trọng với đời sống con người.

2. Giáo dục là gì?

Giáo dục là quá trình tổ chức có ý thức, hướng tới mục đích khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của ngời dạy và người học theo hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các yêu cầu tồn tại và phát triển của con người trong xã hội đương đại.

Theo nghĩa rộng, giáo dục là toàn bộ sự tác động của gia đình, nhà trường, xã hội [bao gồm cả dạy học và các tác động giáo dục khác] đến con người.

Theo nghĩa hẹp, giáo dục có thể xe, như quá trình tác động đến tư tưởng, đạo đức, hành vi con người [giáo dục đạo đức, giáo dục lao động, giáo dục lối sống, hành vi]

NHÂN CÁCH VÀ ĐỊNH HƯỚNG NỘI DUNG GIÁO DỤC NHÂN CÁCH HỌC SINH PHỔ THÔNG

PGS.TS Phan Trọng Ngọ

Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Tóm tắt. Bài báo phân tích các khái niệm, định nghĩa và các cấu trúc nhân cách trong tâm lí học; khái quát những thành tựu hiện có theo tiếp cận hệ thống; từ đó đề xuất định nghĩa và cấu trúc nhân cách theo quan điểm động và mở với nền tảng là các yếu tố tự nhiên và văn hoá của nhân cách; còn hạt nhân của nó là cái Tôi. Một quan niệm như vậy, gợi ra nội dung giáo dục nhân cách tập trung vào các yếu tố tầng sâu và cốt lõi là giáo dục lương tâm, lí tưởng và cái Tôi của nhân cách - những vấn đề ít được coi trọng trong thực tiễn hiện nay.

Từ khóa: Nhân cách, khái niệm nhân cách, cấu trúc nhân cách, cái Tôi, ý thức bản ngã, giáo dục nhân cách.

1. Mở đầu

Chú trọng giáo dục nhân cách học sinh là quan điểm nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam, được thể hiện trong Nghị Quyết 29/ về đổi mới giáo dục và đào tạo [1]. Đồng thời được nhấn mạnh trong chương trình giáo dục phổ thông mới [2]. Muốn vậy cần xác lập cơ sở khoa học cho hoạt động giáo dục nhân cách học sinh phù hợp và hiệu quả. Trong khi đó, nhân cách hiện là vấn đề rất phức tạp [3] và hiện có nhiều ý kiến khác nhau [4]. B.R. Hergenhahn đã xác lập 150 nhà tư tưởng, nhà tâm lí học phương Tây có thành tựu nghiên cứu về nhân cách [5]. Trong một tài liệu, Nguyễn Thơ Sinh đã giới thiệu 22 lí thuyết tâm lí về nhân cách [6]. Leslie Stevenson và cộng sự, phân tích các di sản văn hóa từ cổ đến hiện đại và đã chọn lọc, phân tích 12 học thuyết điển hình về nhân cách, từ Khổng Giáo, Ấn Độ Giáo, Platon, Aristoteles đến Darwin, Freud hay Sartre [7]. Trong tài liệu "Các lí thuyết nhân cách", Duane P. Schultz, Sydney Ellen Schultz đã giới thiệu 21 lí thuyết [8]. Barry D. Smith - Harold J. Vetter, phân tích 19 học thuyết về nhân cách [2]. Lê Đức Phúc, mô tả 14 hệ thống [quan điểm] nghiên cứu nhân cách [9]. Còn trong Từ điển bách khoa Tâm lí học - Giáo dục học Việt Nam, Phạm Minh Hạc đề cập 11 cách tiếp cận [10]. Ngoài ra, còn rất nhiều định nghĩa khác, chưa được tổng quan. Sự phức tạp và nhiều quan niệm về nhân cách là một khó khăn đối với những người làm công tác giáo dục. Bài viết góp phần làm sáng tỏ vấn đề nhân cách cá nhân, cấu trúc của nó, trên cơ sở đó đề xuất các định hướng xác định nội dung giáo dục nhân cách cá nhân.

2. Nội dung nghiên cứu

2.1. Khái niệm nhân cách và cấu trúc nhân cách

2.1.1. Định nghĩa nhân cách trong tâm lí học

Theo Barry D. Smith - Harold J.Vetter, hiện có hàng trăm định nghĩa về nhân cách [9]. Allport khái quát thành 3 nhóm: dựa vào sự tác động, gây ảnh hưởng của cá nhân đến người khác hay xã hội; hoặc tập trung vào các đặc điểm có tính ổn định, các cấu trúc tâm- sinh lí nội tại của cá nhân. Nhóm thứ ba là những định nghĩa chỉ giới hạn nhân cách vào các hành vi biểu hiện ra bên ngoài có thể kiểm chứng được [3]. Trong các nhóm trên, đa số theo hướng phân tích các nét hay các cấu trúc tâm - sinh lí nhất định [9]. Chẳng hạn: Nhân cách là tổng thể những đặc tính tâm- sinh lí của cá nhân, là nét [nét tính cách] tiêu biểu mang tính bẩm sinh, hoặc do rèn luyện mà có của riêng cá nhân đó [3]; Là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá nhân quy định bản sắc và giá trị xã hội của con người [11]; Là cấu tạo tâm lí phức hợp bao gồm những thuộc tính tâm lí cá nhân, được hình thành và phát triển trong đời sống và hoạt động, tạo nên nhân diện và quy định giá trị xã hội của mỗi người [12]; Là tổ hợp các thái độ giá trị của con người với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật, với xã hội, với người xung quanh và với bản thân [4].

Giá trị thực tiễn của các định nghĩa là đã xác định được những nét tâm lí hay hành vi của cá nhân, phục vụ cho việc chẩn đoán và phát triển các cấu trúc tâm lí đó. Tuy nhiên, các định nghĩa theo hướng này cũng bộc lộ một số bất cập.

Thứ nhất: Hầu hết các định nghĩa được hình thành theo khuôn mẫu tư duy cơ giới là tư duy bỏ qua tính hệ thống, sự tương tác và chuyển hóa giữa các đơn vị, các yếu tố của đối tượng [13]. Việc nghiên cứu nhân cách chủ yếu hướng đến các yếu tố [nét tính cách] của cá nhân, còn bản thân nhân cách, hay những yếu tố "tầng sâu" của nó [do khó hoặc không quan sát được trực tiếp] dần bị loại bỏ [9], mặc dù chúng là cốt lõi. Điều này giống như mới biết vật liệu để xây một ngôi nhà, còn việc xây như thế nào và ngôi nhà đó ra sao, còn chưa rõ. Mặt khác, các định nghĩa thể hiện quan niệm về bản chất bền vững của các nét hay đặc điểm nhân cách vốn thường ổn định và giữ nguyên trong suốt cuộc đời cũng như trong các hoàn cảnh xã hội khác nhau [14]. Điều này chưa hẳn phù hợp với thực tiễn và với sự tiến hoá về nhận thức luận khoa học hiện nay: Nhân cách không cố định, mà luôn vận động, phát triển và phải được tiếp cận theo tư duy hệ thống và theo hệ sinh thái phát triển [15].

Thứ hai: Nhiều định nghĩa quá nhấn mạnh nguồn gốc của nhân cách hoặc một hay một số đặc trưng của nhân cách. Thực ra, nguồn gốc của nhân cách không phải từ một vài yếu tố cố định, mà từ nhiều nguồn và có sự tương tác giữa các nguồn [15].

Thứ ba: Nhiều lí thuyết gia có cách tiếp cận tĩnh về nhân cách theo lát cắt tại một thời điểm [12]. Trong khi đó, sự tương tác giữa các thành tố của nhân cách, giữa nhân cách với các môi trường và sự chuyển hóa diễn ra trong quá trình tương tác mới thực sự là cốt lõi, là gốc rễ của sự biến đổi và phát triển nhân cách. Hai vấn đề trên chỉ có thể được giải quyết được theo quan điểm động.

Thứ tư: Có sự không rõ ràng giữa cá nhân và nhân cách trong các định nghĩa và phân tích về nhân cách. Trong nhiều định nghĩa, nhân cách được mở rộng gần như trùng với cá nhân [3]. Một số khác, xét nhân cách trong các mối quan hệ xã hội, giá trị xã hội, theo một hệ quy chiếu của cộng đồng [11]. Thậm chí, nhiều nhà nghiên cứu coi nhân cách không phải là "cái có thực", mà chỉ là khái niệm có tính giả thuyết, phục vụ việc khảo sát các cá nhân có thực [9]. Những quan niệm như vậy chưa thể hiện rõ bản chất của nhân cách và mối quan hệ với cá nhân.

Như vậy, việc phân tích cho thấy, các định nghĩa hiện nay chưa thực sự phản ánh đầy đủ bản chất của nhân cách và mở ra các hướng khám phá nhân cách.

Như vậy, việc phân tích cho thấy, các định nghĩa hiện nay chưa thể hiện đầy đủ về nhân cách. Nhân cách không chỉ được định nghĩa bằng sự kiểm đếm các đặc điểm, các cấu trúc tâm - sinh lí hay các nét tính cách đặc thù của cá nhân, mà cần phản ánh bản chất của nhân cách và mở ra các hướng khám phá nhân cách.

Nhân cách trước hết phải là một cá nhân, nhưng nhân cách không trùng với cá nhân. Cá nhân phát triển đến mức độ nhất định mới xuất hiện và tồn tại nhân cách và trong điều kiện nhất định của cá nhân [16]. Điều này cho phép nhận diện nhân cách ở trẻ em và ở các cá nhân có hoàn cảnh đặc biệt [chẳng hạn bệnh tinh thần] chưa / không phải là nhân cách. Nhiều nghiên cứu chuyên sâu đã chỉ rõ, nhân cách là cấp độ phát triển của cá nhân [17]; là chủ thể của cá nhân [18].

Nhân cách không phải là tổ hợp các cấu trúc tâm - sinh lí, hay các nét tính cách đặc thù của cá nhân. Những tổ hợp cấu trúc đó chưa phản ánh được bản chất nhân cách, chúng chỉ là "vật liệu" để cá nhân xây dựng lên bản thân mình. Muốn có nhân cách phải có nhân tố có vai trò, chức năng, quyền lực phối hợp và tổ chức các vật liệu đó theo phương thức đặc thù. Nhân tố đó là cái Tôi. Cái Tôi là cốt lõi của nhân cách. Nhân cách chính là cách thức cá nhân thể hiện mình qua cái Tôi, quyết định nhân cách [19]. Nhân cách là một thực thể tích cực [18, 20, 21] có khuynh hướng hiện thực, tính tương tác xã hội và phát triển [22].

Nhân cách là cấp độ phát triển của cá nhân; là chủ thể cá nhân; là cách thức cá nhân phát triển và thể hiện mình, trong hoạt động và tương tác xã hội. Nhân cách là các yếu tố tâm- sinh lí được cấu trúc độc đáo bởi cái Tôi, tạo ra bản sắc của cá nhân, hướng cá nhân phát triển và làm chủ cuộc sống của mình, góp phần vào sự thay đổi môi trường sống tự nhiên và xã hội.

2.1.2. Cấu trúc nhân cách

* Các mô hình cấu trúc nhân cách hiện nay trong tâm lí học

Có nhiều mô hình cấu trúc nhân cách, tuy vậy có thể khái quát thành 3 nhóm:

[i] Xu hướng thực chứng với các nghiên cứu định lượng, dựa vào các biểu hiện có thể quan sát được. Nhiều nhà nghiên cứu gắn các biểu hiện tâm lí với các đặc điểm sinh lí, thể tạng của cá nhân, như gắn với các thể dịch của cơ thể [Hypocrate; Gallen và các bác sỹ Hy Lạp cổ đại]; Nhân cách gắn với hoạt động thần kinh cấp cao của cá thể [I. Paplov và các học trò]; Cấu trúc nhân cách dựa vào thể tạng của cá nhân; Gen với các đặc trưng tâm lí của nhân cách [23]. Một số khác, cấu trúc theo các nét tính cách, các đặc trưng tâm lí của nhân cách [3, 12].

Cấu trúc theo thực chứng đã mở ra hướng đánh giá và phát triển nhân cách thông qua việc phân tích các yếu tố tâm lí của cá nhân. Tuy vậy, khó khăn là giới hạn số lượng các yếu tố trong cấu trúc nhân cách phụ thuộc chủ quan của mỗi nhà nghiên cứu. Đồng thời, rất khó xác định mối quan hệ và sự chuyển hoá giữa những yếu tố tâm lí "tầng sâu" với "bề mặt" của nhân cách [9].

Xu hướng thứ hai, chủ yếu phân tích định tính nguồn gốc, bản chất của nhân cách như nguồn gốc tự nhiên: theo tiến hoá học [24], Di truyền học [23]. Tâm lí văn hoá [14], Hiện sinh, thuyết nhân văn. Những lí thuyết này là kho tư liệu giàu sức khai mở các vấn đề có ý nghĩa quyết định về nhân cách. Nhưng điểm khó khăn từ các lí thuyết này là việc mô hình hoá và kiểm chứng bằng định lượng không dễ dàng.

Xu hướng thứ 3 là những nghiên cứu chuyển hoá giữa các đơn vị, các hành phần trong nhân cách cá nhân và giữa cá nhân với môi trường bên ngoài trong một hệ sinh thái phát triển. Các nghiên cứu về triết học hoạt động của K. Marx [18], về lịch sử - văn hoá của các chức năng tâm lí cấp cao của L.X. Vưgotski và về hoạt động tâm lí của A.N. Leonchev [17] và Phân tâm học [25, 26] v.v đã mở ra các nguyên lí, cơ chế chuyển hoá và phát triển các cấu trúc tâm lí của nhân cách.

Việc phân tích cho thấy bức tranh về cấu trúc nhân cách theo các xu hướng khác nhau, nhưng sự kết dính giữa chúng chưa cao. Vì vậy, cần có một cấu trúc phản ánh được yếu tố cốt lõi, tầng sâu, vừa thể hiện được sự chuyển hoá và mở ra các khả năng, các hướng vận động và phát triển của nhân cách.

* Mô hình cấu trúc nhân cách theo nguyên lí tảng băng [cây nhân cách]

Một cấu trúc nhân cách thoả mãn các yêu cầu trên, chỉ có thể được thiết kế mở theo nguyên lí tảng băng trôi hoặc theo cây nhân cách với các nhân tố cốt lõi:

[i] Phần sâu thẳm của nhân cách: Yếu tố bản năng tự nhiên và văn hoá

Trong sâu thẳm của nhân cách có yếu tố bản năng tự nhiên và văn hoá.Bản năng hiện diện và có vai trò quan trọng trong nhân cách cá nhân. Điều này đã được phát hiện ngay từ thời cổ đại bởi Plato [27], sau đó được nhấn mạnh trong lí thuyết về Ý chí tự do của A. Schopenhauer [28] thuyết về nguồn lực sống của D. Nietzsche [29]; Thuyết tiến hoá của Darwin [23] và trong lí thuyết của các nhà Phân Tâm học [25, 26].

Cùng với bản năng tự nhiên, trong tầng sâu nhân cách còn có nguồn gốc văn hoá. Các biểu tượng trong văn hoá cổ xưa được lặp đi lặp lại trong đời sống của cộng đồng và cá nhân qua ngàn đời đã tạo ra các dấu vết sinh học, làm biến đổi gen [23]; Tạo ra các cổ mẫu, trở thành vô thức tập thể trong tầng sâu vô thức của nhân cách [26]. Trong quá trình phát triển của cá nhân, ngay từ khi còn ấu thơ, đứa trẻ đã đồng nhất hoá những biểu tượng văn hoá từ cha/ mẹ và người khác, chuyển hoá chúng thành cái Siêu Tôi [dưới dạng lương tâm và lí tưởng] và được chuyển vào cái Ấy, trở thành bản năng của nhân cách [25].

Như vậy, trong sâu thẳm của nhân cách có các năng lượng bản năng tự nhiên [Nature] và văn hoá [Culture]. Đây chính là nguồn năng lượng thúc đẩy mọi hoạt động tâm lí của cá nhân.

[ii] Tầng trung tâm, hạt nhân của nhân cách: Cái Tôi hay tự ý thức của bản ngã

Nhân cách có tính chủ thể [18]. Hạt nhân tạo ra tính chủ thể của nhân cách là Cái Tôi [Ego] hay Ý thức bản ngã [19]

Ngay từ thời cổ đại, Aritstotle đã cho rằng, bản ngã [Self] là một hữu thể có lí trí, lí tính, nhận thức và ý thức [30]. R. Descartes nhấn mạnh cái Tôi tư duy [31]. W. Jame [32] chia bản ngã thành cái Tôi vật chất, cái Tôi xã hội và cái Tôi tinh thần. K. Roger cho rằng bản ngã là toàn bộ đặc điểm của riêng mỗi cá nhân, từ cơ thể đến các cấu trúc tâm lí, là một tổng thể được nhận thức, ý thức, như là chức năng của cái Tôi [22]. Cái Tôi chính là ý thức về bản thân, nhưng không phải mọi ý thức về bản thân đều trở thành cái Tôi.

Cái Tôi là sự tập trung cao độ của Ý thức [26]. Ý thức cá nhân chỉ trở thành cái Tôi khi phát triển đến độ xuất hiện sự phản tư, tức là năng lực quay trở lại bản thân của Tư duy, ý thức tách bản thân thành khách thể, thành đối tượng nhận thức [16]. Cái Tôi là nhân tố cốt lõi, trung tâm của nhân cách cá nhân. Sự khủng khoảng của cá nhân thực chất là khủng hoảng cái Tôi, ứng với từng giai đoạn phát triển [20]. Sự phát triển của cá nhân là sự trưởng thành của cái Tôi [19].

[iii] Tầng cận trung tâm: Các cấu trúc tâm lí phản ánh thái độ, tình cảm, đạo đức xã hội, năng lực và các nét tính cách của nhân cách

Các cấu trúc tâm lí phản ánh thái độ, tình cảm, đạo đức xã hội, năng lực và các nét tính cách của nhân cách được coi là các thành tố tạo nên thân của cây nhân cách.

Cuộc sống và phát triển của mỗi cá nhân là một dòng hoạt động và tương tác không ngừng. Bất kì hoạt động và tương tác xã hội nào của cá nhân cũng có hai mặt. Một mặt, phản ánh tính chất và chiều hướng của chủ thể trong quan hệ với đối tượng [mặt thái độ]; còn mặt kia thể hiện hiệu quả tác động của chủ thể đến đối tượng [mặt năng lực] của nhân cách.

Trong các cấu trúc tâm lí, thái độ cá nhân được đặc biệt coi trọng. Theo Allport, thái độ là một trạng thái sẵn sàng về tâm lí và thần kinh, có ảnh hưởng mang tính hướng dẫn hay động lực trong phản ứng của cá nhân với đối tượng và tình huống có liên quan; là nguyên nhân hành động của người này đối với người khác hoặc một đối tượng khác; khái niệm thái độ còn giúp lí giải hành động kiên định của một người đó” [33]. Phạm Minh Hạc quan niệm thái độ là thái độ đối với giá trị, gọi là thái độ giá trị bản thân và nhân cách được coi "là tổ hợp các thái độ giá trị của con người với thế giới tự nhiên, thế giới đồ vật, với xã hội, với người xung quanh và với bản thân". Cấu trúc nhân cách được quy về tổ hợp các thái độ giá trị [4].

Bên cạnh và tiếp sau thái độ cá nhân là hàng loạt cấu trúc tâm lí phản ánh quan hệ tích cực của chủ thể với đối tượng: Các tình cảm xã hội [tình yêu, tình bạn và các tình cảm cao cấp khác]; đạo đức xã hội [nhận thức, thái độ và hành vi đối với các quy chuẩn xã xã hội]; Các nét tính cách cá nhân; niềm tin, xu hướng v.v, cũng như việc huy động các yếu tố chủ quan và khách quan để thực hiện hoạt động, tương tác của cá nhân đó. Đây chính là các "vật liệu" để cái Tôi, cái chủ thể xây dựng nhân cách, đồng thời cũng là phương thức biểu hiện của nhân cách, qua các hoạt động và tương tác xã hội.

[iv] Tầng biểu hiện [bề mặt] của nhân cách: Hành động, thao tác và các biểu hiện đa dạng khác của cá nhân trong hoạt động và tương tác xã hội

Các yếu tố hành động, thao tác hay các biểu hiện hiện hữu và đa dạng của cá nhân là các cành, nhánh của cây; là phần nổi của tảng băng nhân cách.

Giữa các yếu tố "tầng sâu" của nhân cách với các biểu hiện của nó có quan hệ phức tạp. Ở mức khái quát nhất và trong trạng thái bình thường của cá nhân, thường có sự tương quan theo chiều hướng nào đó giữa các yếu tố này. Tuy nhiên trong từng trường hợp cụ thể, hành động, thao tác của cá nhân không hoàn toàn tương ứng với các yếu tố tâm lí tầng sâu của nó, mà phụ thuộc nhiều vào tính chất và sức mạnh của hoàn cảnh khách quan tại thời điểm diễn ra hành động. Vì vậy, nghiên cứu nhân cách nhất thiết không chỉ dừng lại ở các biểu hiện hiện hữu của nó, mà cần "vượt qua" các biểu hiện đó, để xác lập các yếu tố chiều sâu của nhân cách đó và tác động của ngoại cảnh tới hành động và biểu hiện của nhân cách.

[v] Sinh thái phát triển nhân cách

Trước thập niên 50 của thế kỉ XX, hầu hết nghiên cứu được dựa trên khuôn mẫu tư duy cơ giới, máy móc. Những năm sau đó, theo tư duy hệ thống với nguyên lí tổng thể lớn hơn tổng số và đặt trọng tâm vào các mối tương tác giữa các thành phần, đơn vị của tổng thể. Sang cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, nhân loại tiến bước dài trong nhận thức luận khoa học, nghiên cứu theo tư duy mạng lưới, tức là xét đối tượng trong hệ sinh thái phát triển, giống mạng lưới gen hay mạng thần kinh, với tương tác và phụ thuộc và thống nhất đa chiều [13]. Mọi sự vận động và phát triển của nhân cách đều diễn ra trong hệ thống sinh thái của nó. Theo Lewin [34]: tổng thể các lực được hình thành do sự tác động tương hỗ giữa các yếu tố bên trong của cá nhân và bên ngoài của môi trường xung quanh được cá nhân ý thức, ngay tại một thời điểm nhất định.

Phương trình của hành vi là: B = f [P, E]

trong đó B [Behavior] là hành vi; P [Person] là đặc điểm của chủ thể/cá nhân [đang] tương tác với các yếu tố của môi trường; E [Environment] là môi trường xung quanh như các sự vật, đồ vật, bạn bè, gia đình, cộng đồng.

Như vậy, một quan niệm động và mở về nhân cách dẫn đến cấu trúc nhân cách như một "cây" hay một "tảng băng" nhân cách với 5 tầng lớp của nhân cách. Trong đó các tầng [i], [ii] và [iii] là gốc rễ, là cốt lõi và là phần chìm của tảng băng nhân cách, còn tầng [iv] và [v] là phần động, phần nổi, có thể quan sát và lượng hoá.

2.2. Một số định hướng nội dung giáo dục nhân cách cá nhân

Để đảm bảo tính toàn diện, giáo dục nhân cách cần tập trung vào các nội dung: Giáo dục lương tâm, lí tưởng và đam mê; Giáo dục cái Tôi; Giáo dục các phẩm chất nhân cách, năng lực hoạt động, hình thành và phát triển cá tính; Hình thành và phát triển các hành động, kĩ năng và thói quen; Giáo dục môi trường sinh thái của sự phát triển nhân cách. Các nội dung trên được tích hợp với nhau thành một hệ thống hoàn chỉnh và tương tác. Trong đó nhấn mạnh giáo dục những yếu tố cốt lõi, nền tảng và năng lực chuyển hoá của chủ thể của nhân cách, tạo ra bản sắc riêng, hướng đến làm chủ cuộc sống của mình và góp phần vào sự thay đổi môi trường sống tự nhiên và xã hội. Dưới đây đề cập tới một số định hướng về nội dung chính.

2.2.1. Giáo dục lương tâm

Lương tâm và lí tưởng là các giá trị văn hoá gốc của nhân loại cũng như của cá nhân. Giáo dục lương tâm và lí tưởng là chạm đến gốc rễ của nhân cách.

Lương tâm, hiểu khái quát nhất, là năng lực tự ý thức, tự đánh giá, tự kiểm soát và giám sát của con người - một cảm thức nội tại về cái đúng và cái sai; cái nên và không nên về suy nghĩ, thái độ [đức tin] và hành động đạo đức của cá nhân. Lương tâm, ban đầu là những chuẩn mực, giá trị đạo đức xã hội, tồn tại trong nền văn hoá, bên ngoài cá nhân, được cái Tôi nhận thức, chuyển hoá thành cái Siêu Tôi và chuyển vào vô thức, vào cái Ấy, trở thành năng lượng bản năng văn hoá của nhân cách [25].

Lương tâm được thể hiện qua các phức cảm đạo đức bao gồm các cảm xúc "xấu hổ", "mặc cảm tội lỗi" hoặc "tự hào", "hạnh phúc" v.v., khi cá nhân [cái Tôi] ý thức [tự vấn] về các suy nghĩ, thái độ và hành động không phù hợp/phù hợp với các chuẩn mực, giá trị văn hoá. Những phức cảm đạo đức thường rất mạnh và bền vững, thậm chí tồn tại trong thời gian rất dài, tác động tới mọi hoạt động sống của cá nhân [toà án lương tâm mạnh hơn toà án xã hội]. Lương tâm vừa là quyền lực, vị quan toà, người giám sát và là nhà hướng đạo của cá nhân. Nhờ cơ chế kiểm soát và định hướng của lương tâm, cá nhân tránh được những suy nghĩ, thái độ hay hành động không phù hợp với đạo lí. Ngược lại, sự chai lì, vô cảm [vô lương tâm] chính là căn nguyên dẫn đến thái độ và hành động vô đạo lí.

Giáo dục lương tâm chính là hình thành và thường xuyên thức tỉnh các phức cảm đạo đức ở cá nhân, đặc biệt là các phức cảm xấu hổ, tội lỗi và phục thiện. Biết xấu hổ và nhận ra tội lỗi của mình, có ý thức sửa chữa khuyết điểm [phục thiện] là nguồn gốc của hành vi đạo đức xã hội của cá nhân.

2.2.2. Giáo dục lí tưởng nhân cách

Trong sự phát triển của nhân cách thường xuyên có hai cấp độ lí tưởng: Lí tưởng bản thân và lí tưởng xã hội.

Lí tưởng bản thân hay lí tưởng bản ngã [Lí tưởng của cái Tôi hay cái Tôi lí tưởng theo cách gọi của S. Freud] là niềm tin, sự đam mê vươn tới sức mạnh và sự hoàn thiện; quyền lực và các tình cảm xã hội cao đẹp [25]; là khuynh hướng mạnh mẽ hiện thực hoá tiềm năng của mình; nhu cầu được khẳng định tích cực bản thân trong xã hội [21]; khuynh hướng tự do, vươn lên làm chủ bản thân [19]. Đây là những lí tưởng thể hiện bản chất và xu thế phát triển của nhân cách, rất cần được khuyến kích và tạo điều kiện cá nhân thực hiện.

Lí tưởng xã hội là những hình mẫu lí tưởng về con người, về phẩm chất nhân cách, đạo đức, tình cảm xã hội, năng lực hoạt động, nghề nghiệp v.v mà xã hội thiết kế và kì vọng sẽ hình thành và phát triển ở cá nhân trong hiện thực cuộc sống của họ.

Lí tưởng xã hội là "mô hình lí tưởng" mà cá nhân cần có để thích ứng tích cực với yêu cầu của cuộc sống xã hội. Những lí tưởng này ban đầu ở bên ngoài và xa lạ, thậm chí mâu thuẫn với lí tưởng bản thân của cá nhân. Vì vậy, giáo dục lí tưởng nhân cách không phải là hình thành một cách "cơ học" lí tưởng xã hội cho cá nhân, mà là quá trình "xã hội hoá" lí tưởng bản thân của cá nhân. Giáo dục lí tưởng nhân cách, thực chất là chuyển lí tưởng xã hội thành lí tưởng của cá nhân, tức là tổ chức sự chuyển hoá cái siêu tôi khách quan thành "cái Siêu Tôi cá nhân" thông qua cái Tôi của nhân cách. Điều này liên quan trực tiếp tới giáo dục cái Tôi.

2.2.3. Giáo dục cái Tôi

Giáo dục cái Tôi quyết định sự giáo dục nhân cách. Giáo dục cái Tôi cần lưu ý tính đặc thù so với giáo dục nhân cách nói chung. Cụ thể cần phải hướng đến giáo dục cái Tôi ý thức, cái Tôi chủ thể, cái Tôi cá nhân và cái Tôi xã hội.

Đặc trưng đầu tiên của cái Tôi là nhận thức tri giác [25], lí trí và lí tính [30], tức là cái "Tôi ý thức". Vì vậy, trước hết cần giáo dục cái Tôi ý thức.

Có 3 cấp độ của cái Tôi ý thức: Hiểu biết, ý thức và tự ý thức. Trong đó cấp độ tự ý thức có ý nghĩa quyết định sự hình thành cái Tôi. Ở cấp độ ý thức là cái Tôi "biết" "mình" đang thu nhận cái gì, "mình" "hiểu" và tỏ "thái độ" về cái đó như thế nào. Chuyển lên cấp độ tự ý thức, cái Tôi không chỉ biết mình đang nhận thức mà còn biết mình "làm thế nào" để nhận thức cái đó và "xử lí" cái đó như thế nào để biến nó thành cái của mình? Ý thức mang lại sự khám phá bản thân trong quan hệ với cái khách quan, còn tự ý thức giúp cá nhân hình thành cái Tôi. Cái Tôi chính là sự tập trung cao độ của tự ý thức [26]. Để hình thành cấp độ tự ý thức, cá nhân phải có sự phản tư [Reflection] của ý thức. Phản tư là dấu hiệu khẳng định sự xuất hiện tự ý thức, cũng là dấu hiệu sự xuất hiện cái Tôi ý thức [5]. Ngay từ thời cổ đại, Sokrates đã từng khuyên "Hãy tự biết mình". Giáo dục năng lực phản tư là cốt lõi của giáo dục cái tôi nhận thức, hay cái Tôi ý thức.

Một trong những đặc trưng của cái Tôi là tính chủ thể. Tính chủ thể của cái Tôi là sự định vị của cái Tôi trong mọi hoạt động và tương tác xã hội của cá nhân cũng như trong sản phẩm tương ứng. Điều này đỏi hỏi cái Tôi phải phát triển các năng lực làm chủ: Năng lực kiểm soát và làm chủ cảm xúc; làm chủ tình huống hoạt động và tương tác; làm chủ trong việc huy động và phối hợp các tiềm năng tâm- sinh lí vào việc giải quyết các nhiệm vụ khác nhau. Một trong những nội dung cốt lõi của giáo dục cái Tôi là giáo dục thái độ của cái Tôi, với tư cách là yếu tố có vai trò quyết định đối với suy nghĩ và hành động của nhân cách [33], quy định sự lựa chọn các giá trị của nhân cách [4].

Giáo dục cái Tôi cá nhân và cái Tôi xã hội

Nếu tách [trong lí thuyết] cái Tôi để nghiên cứu, cái Tôi có hai phương diện: Cái Tôi cá nhân [hướng vào nhận thức, tự ý thức về bản thân và làm chủ bản thân] và cái Tôi xã hội, tức là cái Tôi liên hệ với người khác, với xã hội và trên địa hạt này, cái Tôi mới thực sự là cái Tôi, mới thực sự thể hiện hết vai trò tích cực của cái Tôi. Về nguồn gốc, nhận thức, ý thức về xã hội xuất hiện trước nhận thức hay tự ý thức. Vì vậy, cái Tôi xã hội xuất hiện trước cái Tôi cá nhân.

Hàng loạt phẩm chất liên quan tới giá trị và hiệu quả của cái Tôi cá nhân cũng như cái Tôi xã họi cần được quan tâm giáo dục: Thái độ giá trị của cái Tôi: Giá trị bản thân, giá trị xã hội, giá trị nghề nghiệp, giá trị thẩm mỹ, đạo đức v.v. Các phẩm chất thể hiện cái tôi với bản thân, cái tôi đối với người khác hay với xã hội: Tự trọng, tự khẳng định, khiêm tốn, trách nhiệm v.v. Các phẩm chất thể hiện hiệu quả hoạt động và tương tác xã hội.

3. Kết luận

Nhân cách là vấn đề rất phức tạp và hiện có nhiều quan niệm khác nhau. Tuy nhiên, xu hướng chủ đạo là dựa trên các đặc điểm, các nét tâm lí điển hình, ổn định của cá nhân để định nghĩa và cấu trúc nhân cách. Vì vậy, những vấn đề cốt lõi của nhân cách chưa thực sự được tường minh. Việc liên kết, phối hợp và khai thác các quan niệm khác nhau theo tiếp cận hệ thống, nhân cách sẽ được hiểu là một cấp độ phát triển của cá nhân; là chủ thể cá nhân; là cách thức cá nhân phát triển và thể hiện mình với tư cách là cấu trúc độc đáo các yếu tố tâm- sinh lí bởi cái Tôi, tạo ra bản sắc của cá nhân. Cấu trúc nhân cách như một "cây" hay một "tảng băng" bao gồm các yếu tố tầng sâu là các yếu tố bản năng tự nhiên và văn hoá; Cái Tôi hay ý thức bản ngã; Các cấu trúc tâm lí phản ánh thái độ, tình cảm, đạo đức xã hội, năng lực và các nét tính cách; các yếu tố bề nổi là các hành động, thao tác và các biểu hiện đa dạng khác của cá nhân trong hoạt động và tương tác xã hội và môi trường sinh thái phát triển nhân cách.

Với cấu trúc nhân cách tầng sâu và cơ động, việc giáo dục nhân cách cần được tập trung vào những yếu tố nền tảng, gốc rễ của nhân cách là Lương tâm, lí tưởng và cái Tôi của nhân cách- những vấn đề còn ít được quan tâm trong giáo dục nhân cách hiện nay.

Lời cảm ơn. Nghiên cứu này được hỗ trợ bởi đề tài khoa học cấp Bộ " Nghiên cứu phát triển phẩm chất nhân ái ở học sinh Trung học cơ sở". Mã số:B2018-SPH-02HT, do PGS.TS Phan Trọng Ngọ làm Chủ nhiệm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, 2013. Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo

[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2017. Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.

[3] Allport G.W., 1961. Pattern and growth in personality. New York: Holt. Rinehart & Winston.

[4] Phạm Minh Hạc, 2018. Tâm lí học nhân cách. Nxb Giáo dục Việt Nam.

[5] B.R. Hergenhahn, 2003. Nhập môn Lịch sử tâm lí học. Nxb Thống kê.

[6] Nguyễn Thơ Sinh, 2008. Các học thuyết tâm lí nhân cách. Nxb Lao động.

[7] Leslie Stevenson, David L. Haberman, Peter Matthews Wright, 2017. Mười hai học thuyết về bản tính con người. Nxb Khoa học xã hội.

[8] Duane P. Schultz, Sydney Ellen Schultz, 2001. Các lí thuyết nhân cách [Bản dịch tiếng Việt của Nhóm dịch thuật - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân Văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, do Nguyễn Hữu Thụ phụ trách, 2006].

[9] Barry D. Smith - Harold J. Vetter, 2005. Các học thuyết nhân cách. Nxb Văn hóa thông tin.

[10] Phạm Minh Hạc [Chủ biên, 2013]. Từ điển Bách khoa Tâm lí học - Giáo dục học. Nxb Giáo dục Việt Nam.

[11] Trần Trọng Thuỷ, Nguyễn Quang Uẩn, 2000. Tâm lí học Đại cương. Nxb Giáo dục.

[12] Lê Đức Phúc, 2004. Một số vấn đề nghiên cứu nhân cách. Nxb Chính trị Quốc gia

[13] Fritjof Capra, 2017. Tấm lưới sự sống. Một cách hiểu khoa học mới về những hệ sống. Nxb Tri thức.

[14] Knud S. Larsen, Lê Văn Hảo, 2015. Tâm lí học xuyên văn hóa. Nxb Đại học Quốc gia.

[15] Phan Trọng Ngọ - Lê Minh Nguyệt, 2018. Hướng tiếp cận khái niệm và cấu

[16] Pierre Teilhard de Chardin, 2014. Hiện tượng con người. Nxb Tri thức.

[17] A.N. Leonchev, 1989. Hoạt động - Ý thức - Nhân cách. Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

[18] Các Mác, 1989. Bản thảo kinh tế triết học 1844. Nxb Sự thật.

[19] Carl Rogers, 1994. Tiến trình thành nhân. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

[20] Erickson, E.H., 1950. Childhood and Society. New York.

[21] A. Maslow, 1968. Towrd a psychology of being. Princeton. NJ: Van Nostrand Reinhold.

[22] Rogers. C.R, 1959. "A Theory of Therapy, personality, and Interpersonal Relationships, as Developed in the Client -Centered Famework". In Psychology: A Study of a Sience, Vol. 3, edited by S. Koch. New Yok: McGraw - Hill.

[23] Richard Dawkins, 2012. Gen vị kỉ. Nxb Tri thức.

[24] Charles Darwin, 2006. Nguồn gốc muôn loài. Nxb Văn hoá Thông tin

Publish: 6/11/2019 - Views: 1592 - Lastest update: 6/11/2019 2:53:20 PM

Video liên quan

Chủ Đề