Bài học lấy dân làm gốc của 30 năm đổi mới

Quân giải phóng miền Đông Nam bộ hành quân trong Chiến dịch Đông Xuân năm 1964 – 1965. Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát

Bài 1: Có dân là có tất cả “Dân là gốc”, tức dân là nền tảng cho mọi thành tựu của một quốc gia, dân tộc. Lịch sử của đất nước cho thấy, từ thời phong kiến, triều đại nào biết thực thi chính sách an dân, lấy dân làm gốc ắt quy tụ được lòng dân, đất nước hưng thịnh, thái bình.

Đi ngược lại với điều này, đất nước rơi vào loạn lạc, bị các thế lực ngoại bang xâm lăng bờ cõi…

Sức mạnh từ nội lực nhân dân  Bộ luật Hình thư đầu tiên của nước ta dưới triều nhà Lý công bố năm 1042 đã xác định: “Chăm lo đến đời sống người dân trăm họ, chỉnh đốn pháp luật sao cho giảm bớt nỗi khổ của dân, xóa bớt bất công trong thiên hạ”. Sự ra đời của Bộ luật Hình thư đầu tiên đã ghi nhận những thay đổi trong nhận thức của triều Lý so với các triều đại trước đó về tầm quan trọng của lòng dân đối với vận mệnh của một quốc gia. Những quyết sách quan trọng của triều Lý về chính trị, kinh tế, giáo dục, luật pháp cũng rất chú trọng chăm lo đến cuộc sống người dân. Nền tảng vững chắc ấy đã giúp triều Lý phát triển hưng thịnh trong hơn 200 năm. Kế thừa những di sản triều Lý, triều đại nhà Trần trong hoàn cảnh đất nước bị giặc xâm lăng, bài học “lấy dân làm gốc” đã được vua tôi nhà Trần thấm nhuần, thể hiện qua Hội nghị Diên Hồng năm 1284, tập hợp được sức mạnh, thống nhất được ý chí của quân dân, nhờ đó đã ba lần đánh tan giặc Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới thời đó. Một câu chuyện minh chứng cho chân lý “lấy dân làm gốc” là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn từng dốc lòng tâu vua Trần Anh Tông về kế sách giữ nước: “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”. Lịch sử đã minh chứng, có dân là có tất cả, không biết dựa vào dân sẽ phải chịu thất bại. Nhà Hồ lâm vào cảnh nước mất, nhà tan, thất bại trước giặc Minh hung tàn cũng bởi không thấu triệt chân lý này. Đến thời Hậu Lê, tư tưởng “lấy dân làm gốc” được phát huy, sau 9 năm trường kỳ kháng chiến, quân dân nhà Lê đã đánh bại giặc Minh, khôi phục xã tắc. Nguyễn Trãi, khi thay mặt Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo” đã nêu rõ: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Bản Tuyên ngôn độc lập của triều Lê đã khẳng định tư tưởng vì dân và an dân. Nhà chính trị, quân sự kiệt xuất Nguyễn Trãi cũng khẳng định: “Chở thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân”, thể hiện quan điểm quốc gia muốn tồn tại dài lâu và vững mạnh đều phải dựa vào dân, đặt mục đích yên dân lên hàng đầu, bởi dân có yên thì nước mới thịnh. Không chỉ là tư tưởng xuyên suốt qua các triều đại phong kiến, trong công cuộc đấu tranh giành độc lập và bảo vệ đất nước của dân tộc thế kỷ XX, sức mạnh của quần chúng đã được minh chứng ngay từ những năm 1930-1940 mà đỉnh cao là Xô viết Nghệ-Tĩnh của công nhân, nông dân Nghệ An và Hà Tĩnh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, hàng triệu người dân đang sống trong cảnh lầm than nô lệ đã được khích lệ, gắn kết với nhau để nhất tề đứng lên. Tinh thần ấy đã làm nên thành công cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, lật đổ chế độ thực dân - phong kiến trên đất nước ta, dẫn đến sự ra đời của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới của dân tộc, kỷ nguyên độc lập dân tộc, gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bản Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử có đoạn: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”; “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Đây chính là khát vọng cháy bỏng, là mục tiêu sống của mỗi con người. Bài học nằm lòng “lấy dân làm gốc” của cha ông đến thời đại Hồ Chí Minh tiếp tục là ngọn đuốc soi đường. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn đặc biệt coi trọng sức mạnh của nhân dân. Người khẳng định: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”, “Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”, “Dân là gốc của một nước, nước lấy dân làm gốc”, “Gốc có vững, cây mới bền, xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân”. Sau Cách mạng Tháng Tám, đất nước bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, quyết giữ vững nền độc lập dân tộc, đưa kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn. Ở cuộc kháng chiến đó, có những dân công hỏa tuyến, những bà mẹ Việt Nam ngày đêm đào hầm nuôi giấu cán bộ, những nắm gạo sẻ chia của từng gia đình được gom lại, giúp bộ đội ta có thêm sức mạnh, niềm tin để vững bước vào trận đánh lớn. Đó chính là minh chứng rõ nét nhất cho ý chí và sức mạnh của tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, cũng là một trong những nhân tố quyết định để làm nên một Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Sức mạnh từ nội lực nhân dân một lần nữa làm nên đỉnh cao Đại thắng mùa Xuân năm 1975, non sông thu về một mối.

Có thể thấy, tôn trọng, phát huy quyền làm chủ, chăm lo đời sống nhân dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong sự lãnh đạo của Đảng. Có dân là có tất cả đã trở thành phương pháp luận, phương châm hoạt động cách mạng của Người: “Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong”...

Nhân dân là trung tâm, là chủ thể

Nhân dân Tây Nguyên cùng bộ đội kéo pháo để đánh chiếm các đỉnh cao ở Pleiku trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975. Ảnh: TTXVN

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đổi mới đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn lấy nhân dân là trung tâm, là chủ thể. Tại Đại hội VI của Đảng, một trong bốn bài học lớn được Đảng rút ra trong toàn bộ hoạt động của mình là Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Bài học này tiếp tục được quán triệt sâu sắc trong các kỳ Đại hội VII và Đại hội VIII của Đảng. Đánh giá quá trình đổi mới, Đại hội IX của Đảng một lần nữa khẳng định: Đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. Đến Đại hội Đảng lần thứ XII, một trong năm bài học mà Đại hội đúc kết là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “Dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện đúng nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Tại Đại hội XIII, tư tưởng dân là gốc đã được đúc kết thành bài học riêng, với những nguyên tắc cơ bản, đồng thời tiếp tục được phát triển bổ sung. Theo đó, để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, cùng với thực hiện dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, văn kiện Đại hội nhấn mạnh việc dân giám sát và dân thụ hưởng.  Đặc biệt, tại Hiến pháp năm 2013 - văn bản chính trị, pháp lý cao nhất của đất nước - cụm từ “nhân dân” được viết hoa một cách trang trọng, điều mà các bản Hiến pháp trước đó chưa thể hiện đã cho thấy sự tôn vinh của Đảng, Nhà nước đối với nhân dân - chủ thể của đất nước, đồng thời khẳng định bản chất Nhà nước do dân, vì dân và tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Theo nguyên Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nguyên Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật của Quốc hội Phan Trung Lý - người trực tiếp tham gia vào quá trình sửa đổi Hiến pháp, từ khi nghiên cứu chủ trương sửa đổi đến khi Hiến pháp năm 2013 được thông qua, hai chữ nhân dân được viết hoa, khẳng định mạnh mẽ quan điểm “lấy dân làm gốc”. Nhân dân là chủ thể của Hiến pháp, chủ thể của quyền lực Nhà nước. Tầm vóc của Hiến pháp, sức sống của Hiến pháp cũng chính từ hai chữ “Nhân dân” đó. Thông điệp mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta muốn khẳng định đến toàn thể nhân dân và bạn bè quốc tế rằng, ở Việt Nam, mọi chủ trương, chính sách đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Đất nước ta vì thế mà đạt được những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử, “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Thành quả này thuộc về nhân dân. Qua đại dịch COVID-19, điều này càng được khẳng định mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Quan điểm “vì dân” được thể hiện xuyên suốt trong chiến lược của Đảng, Nhà nước về phòng, chống đại dịch COVID-19. Với một đất nước đang nỗ lực vươn lên, rất nhiều khó khăn phía trước, nhưng trong mọi đường lối của Đảng, sự điều hành của Nhà nước đều trước sau như một, chấp nhận thiệt hại về kinh tế nhưng bằng mọi giá, phải bảo vệ tính mạng nhân dân, đảm bảo an sinh xã hội. Khó có thể kể hết ra đây những chỉ đạo, những quyết sách kịp thời trong hơn hai năm qua để hỗ trợ người dân vượt qua đại dịch, hay phục hồi kinh tế đất nước. Tuy là một nước còn nhiều khó khăn, nhưng Việt Nam là 1 trong 6 nước có tỷ lệ bao phủ vaccine phòng COVID-19 cao nhất thế giới.

Khẳng định "dân là gốc" tiếp tục là tư tưởng, phương châm hành động của Đảng, Nhà nước ta, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng mới đây đã nêu rõ, cán bộ, đảng viên phải tôn trọng nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, học hỏi nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, giữ gìn an ninh, trật tự, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. “Phải kiên quyết loại bỏ thái độ bàng quan, vô cảm trước những bức xúc của nhân dân; kiên quyết loại bỏ mọi hành vi lạm dụng, lợi dụng quyền lực để xâm phạm lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân”, Tổng Bí thư nhấn mạnh.

Quỳnh Hoa [TTXVN]
nhandan.vn

[Nguồn: Internet].

Những thành tựu to lớn

Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường. Văn hóa - xã hội có bước phát triển; bộ mặt đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và chế độ xã hội chủ nghĩa. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Những thành tựu to lớn trên tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển trong những năm tới; khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử để chúng ta vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa.

Có được những thành tựu trên đây là do Đảng ta có đường lối đổi mới đúng đắn, sáng tạo, phù hợp lợi ích và nguyện vọng của nhân dân, được nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực thực hiện. Đảng ta đã nhận thức, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại và vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định lý tưởng, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đồng thời nhạy bén, sáng tạo, kịp thời đưa ra những chủ trương, quyết sách phù hợp cho từng giai đoạn cách mạng, khi tình hình thế giới và trong nước thay đổi. Đông đảo cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân đã nỗ lực phấn đấu, tận dụng thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, thực hiện đường lối đổi mới. Sự nghiệp đổi mới của đất nước ta được bạn bè quốc tế ủng hộ, hợp tác, giúp đỡ.

Một số hạn chế và nguyên nhân

Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước còn nhiều vấn đề lớn, phức tạp, nhiều hạn chế, khuyết điểm cần tập trung giải quyết, khắc phục để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.

Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận còn bất cập, chưa làm rõ một số vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới để định hướng trong thực tiễn, cung cấp cơ sở khoa học cho hoạch định đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước. Lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội còn có một số vấn đề phải qua tổng kết thực tiễn để tiếp tục làm rõ.

Kinh tế phát triển chưa bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng, yêu cầu và thực tế nguồn lực được huy động. Trong 10 năm gần đây, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định nhưng chưa vững chắc, tốc độ tăng trưởng kinh tế suy giảm, phục hồi chậm. Chất lượng, hiệu quả, năng suất lao động xã hội và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp. Phát triển thiếu bền vững cả về kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường. Nhiều vấn đề bức xúc nảy sinh, nhất là các vấn đề xã hội và quản lý xã hội chưa được nhận thức đầy đủ và giải quyết có hiệu quả; còn tiềm ẩn những nhân tố và nguy cơ mất ổn định xã hội. Trên một số mặt, một số lĩnh vực, một bộ phận nhân dân chưa được thụ hưởng đầy đủ, công bằng thành quả của công cuộc đổi mới. Năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ.

Nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu đến năm 2020, nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt.

Bốn nguy cơ mà Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng [năm 1994] nêu lên vẫn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp, như nguy cơ "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch với những thủ đoạn mới tinh vi và thâm độc chống phá nước ta và những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân vào Đảng, chế độ có mặt bị giảm sút.

Những hạn chế, khuyết điểm trên đây là do cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan, trong đó nguyên nhân chủ quan là chủ yếu.

Về khách quan: Đổi mới là một sự nghiệp to lớn, toàn diện, lâu dài, rất khó khăn, phức tạp, chưa có tiền lệ trong lịch sử. Tình hình thế giới và khu vực có những mặt tác động không thuận lợi; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch và cơ hội chính trị.

Về chủ quan: Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, chưa được quan tâm đúng mức, đổi mới tư duy lý luận chưa kiên quyết, mạnh mẽ, có mặt còn lạc hậu, hạn chế so với chuyển biến nhanh của thực tiễn. Dự báo tình hình có lúc, có việc làm còn chậm và thiếu chính xác làm ảnh hưởng đến chất lượng các quyết sách, chủ trương, đường lối của Đảng. Nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn còn hạn chế. Đổi mới chưa toàn diện, thiếu đồng bộ, lúng túng trên một số lĩnh vực.

Nhận thức, phương pháp và cách thức lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn nhiều hạn chế. Quyền hạn và chế độ trách nhiệm, nhất là quyền hạn và trách nhiệm của người đứng đầu không được quy định rõ ràng; thiếu cơ chế để kiểm soát quyền lực. Nhiều chủ trương, nghị quyết đúng không được tích cực triển khai thực hiện, kết quả đạt thấp. Một số chính sách không phù hợp thực tiễn, chậm được sửa đổi, bổ sung.

Việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống chưa được coi trọng thường xuyên, đúng mức, hiệu quả thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu, chưa tạo được sự thống nhất cao về nhận thức tư tưởng, ý chí và hành động trong Đảng trước những diễn biến phức tạp của tình hình. Đánh giá, sử dụng, bố trí cán bộ còn nể nang, cục bộ; chưa quan tâm việc xây dựng cơ chế, chính sách để trọng dụng người có đức, có tài.

Năm bài học kinh nghiệm

Nhìn lại 30 năm đổi mới, từ những thành tựu cũng như những hạn chế, khuyết điểm, rút ra một số bài học sau:

Một là, trong quá trình đổi mới phải chủ động, không ngừng sáng tạo trên cơ sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam. Đây là bài học về “chủ động” và “sáng tạo”.

Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn. Quá trình đổi mới, bên cạnh những cơ hội, luôn xuất hiện những vấn đề mới, những khó khăn, thách thức mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân phải chủ động, không ngừng sáng tạo.

Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, mà là làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh ngày nay là sự nghiệp vô cùng khó khăn, phức tạp và lâu dài, nhưng đó là con đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sự nghiệp cách mạng đó đòi hỏi Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải kiên định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức đúng, vận dụng và không ngừng phát triển sáng tạo học thuyết, tư tưởng đó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng, làm cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để phân tích tình hình, hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới. Kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, vận dụng kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam.

Hai là, đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc. Đây là bài học về “nhân dân” và “phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc”.

Cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân. Đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân. Xa rời, đi ngược lợi ích của nhân dân, đổi mới sẽ thất bại.

Những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân nảy sinh từ thực tiễn là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Nhân dân là người làm nên những thành tựu của đổi mới. Đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm "dân là gốc", vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân.

Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, để nhân dân thật sự là chủ thể tiến hành đổi mới và thụ hưởng thành quả đổi mới. Đổi mới là sự nghiệp khó khăn, phức tạp, càng cần phải phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Để phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, cần phòng, chống đặc quyền, đặc lợi, chống suy thoái, biến chất.

Ba là, đổi mới phải toàn diện, đồng bộ, có bước đi phù hợp; phải tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra. Đây là bài học về đổi mới toàn diện, đồng bộ, tôn trọng quy luật khách quan và thực tiễn.

Thực tiễn đã chỉ rõ, phải đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ nhận thức, tư tưởng đến hoạt động thực tiễn; từ hoạt động lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đến hoạt động trong từng bộ phận của hệ thống chính trị; từ hoạt động của cấp trung ương đến hoạt động của địa phương và cơ sở.

Trong quá trình đổi mới phải tổ chức thực hiện quyết liệt với bước đi, hình thức, cách làm phù hợp, hiệu quả; khắc phục tình trạng nóng vội, chủ quan sẽ gây mất ổn định, thậm chí rối loạn, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch chống phá công cuộc đổi mới; đồng thời phải chủ động, năng động, không ngừng sáng tạo, khắc phục tình trạng bảo thủ, trì trệ, bỏ lỡ cơ hội phát triển.

Phải tôn trọng quy luật khách quan. Coi sự phát triển của thực tiễn là yêu cầu và cơ sở để đổi mới tư duy lý luận, đường lối, chủ trương, cơ chế, chính sách. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đều phải xuất phát từ thực tiễn. Phải bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận để điều chỉnh, bổ sung, phát triển đường lối đổi mới.

Để dân tin, dân ủng hộ, dân tích cực thực hiện đường lối đổi mới, đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra; kịp thời điều chỉnh, bổ sung các thể chế, thiết chế, cơ chế, chính sách không phù hợp, cản trở sự phát triển; thực hiện nói đi đôi với làm.

Bốn là, phải đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên trên hết; kiên định độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là bài học về “lợi ích dân tộc” và “phát huy sức mạnh tổng hợp”.

Luôn luôn coi lợi ích quốc gia - dân tộc là tối thượng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định độc lập, tự chủ đồng thời chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Kết hợp phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là cơ sở để kết hợp sức mạnh thời đại, làm cho sức mạnh toàn dân tộc mạnh hơn, dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Năm là, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ; nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và của cả hệ thống chính trị; tăng cường mối quan hệ mật thiết với nhân dân. Đây là bài học về “xây dựng Đảng và hệ thống chính trị”.

Công cuộc đổi mới là sự nghiệp vĩ đại, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thành công của công cuộc đổi mới. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là nhiệm vụ then chốt. Đảng phải thường xuyên tự chỉnh đốn, tự đổi mới.

Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ có ý nghĩa quyết định đến công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới.

Thường xuyên kiện toàn tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước. Phát huy vai trò Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân trong việc tập hợp các tầng lớp nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc để thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới.

Sức mạnh của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng được bắt nguồn và nhân lên từ sức mạnh của nhân dân. Củng cố, bồi dưỡng quan hệ mật thiết giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị, trước hết là mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân, là vấn đề trọng đại, cấp thiết, có ý nghĩa sống còn đối với cách mạng Việt Nam.

Video liên quan

Chủ Đề