Bản chất của phương pháp dạy học lấy người học làm trung tâm

Le Duy Phong

unread,
Jun 2, 2012, 2:52:47 PM6/2/12
Reply to author
Sign in to reply to author
Forward
Sign in to forward
Delete
You do not have permission to delete messages in this group
Link
Report message as abuse
Sign in to report message as abuse
Show original message
Either email addresses are anonymous for this group or you need the view member email addresses permission to view the original message
to Nhom Tri thuc tre lop NVSPDH-CD-K9

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Dạy học được định nghĩa là quá trình tương tác qua lại giữa giáo viên
và học sinh, khi đó học sinh dưới sự hướng dẫn của thầy có thể tìm ra,
khám phá ra những tri thức mới mà bản thân chưa biết, hình thành những
thói quen tư duy độc lập, sáng tạo; đồng thời phát triển toàn diện các
kĩ năng sống và những phẩm chất đạo đức phù hợp với chuẩn mực xã
hội...Giảng dạy lấy người học là trung tâm có nghĩa là trong quá
trình đào tạo, người học giữ vị trí then chốt, quyết định chất lượng
đào tạo.

II. NỘI DUNG CỦA VẤN ĐỀ

1. Thế nào là dạy học lấy học sinh làm trung tâm

a] Định nghĩa

Về tên gọi, Dạy học lấy học sinh làm trung tâm được các nhà nghiên
cứu, các nhà PPGD gọi bằng nhiều tên khác nhau. Một số người cho rằng
đó là một đường hướng, một số khác cho rằng đó là một tư tưởng, một
quan điểm giáo dục, một số khác nữa cho rằng nó là một phương pháp.

Thực chất của quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm, đó là hệ
phương pháp dạy - học tích cực lấy người học làm trung tâm còn gọi là
hệ PP dạy - tự học, được xem như là một hệ thống PPDH có thể đáp ứng
được các yêu cầu cơ bản của mục tiêu giáo dục trong thời kỳ đổi mới
hiện nay.

Dạy học lấy học sinh làm trung tâm là đặt người học vào vị trí trung
tâm của hoạt động dạy - học, xem cá nhân người học - với những phẩm
chất và năng lực riêng của mỗi người - vừa là chủ thể vừa là mục đích
của quá trình đó, phấn đấu tiến tới cá thể hóa quá trình học tập với
sự trợ giúp của các phương tiện thiết bị hiện đại, để cho tiềm năng
của mỗi HS được phát triển tối ưu, góp phần có hiệu quả vào việc xây
dựng cuộc sống có chất lượng cho cá nhân, gia đình và xã hội.

b] So sánh với phương pháp dạy học lấy người dạy làm trung tâm

Dạy học lấy người dạy làm trung tâmlà hình thức dạy học phổ biến trong
nền giáo dục thời phong kiến ở nhiều nơi, trong đó có nước ta. Hoạt
động dạy học này gợi chúng ta nhớ đến hình ảnh thầy đồ ngồi trên sạp
gỗ hoặc cầm roi bước tới bước lui, còn học trò thì ngồi im trên những
manh chiếu trải trước sân hoặc trong căn phòng vách lá, lắng tai nghe
và đọc theo những điều thầy dạy, đôi khi cần phải chuyển thân lắc đầu
theo nhịp điệu âm thanh gắn với từng bài học.

Phương pháp này được sử dụng phổ biến ở thời kì chưa hình thành tổ
chức nhà trường, một giáo viên thường dạy cho một nhóm nhỏ học sinh,
có thể chênh lệch nhau khá nhiều về lứa tuổi và trình độ. Chẳng hạn
thày đồ Nho ở nước ta thời kì phong kiến dạy trong cùng một lớp từ đứa
trẻ mới bắt đầu học Tam tự kinh đến môn sinh đi thi tú tài cử nhân,
trong kiểu dạy học này, ông thày bắt buộc phải coi trọng trình độ,
năng lực, tính cách của mỗi học trò và cũng có điều kiện để thực hiện
cách dạy thích hợp với mỗi HS, vai trò chủ động tích cực của người học
được đề cao, tuy nhiên năng suất dạy học quá thấp.

Trong hoạt động dạy học này, chương trình học tập được thiết kế
chủ yếu theo logic nội dung khoa học của các môn học, chú trọng trước
hết đến hệ thống kiến thức lí thuyết, sự phát triển tuần tự của các
khái niệm, định luật, học thuyết khoa học. Người thầy chủ yếu diễn
giảng những điều có sẵn trong sách vở cho học trò nghe. Người thầy nói
những điều mình đã học đã biết và học trò chỉ việc nghe, ghi chép lại
và học thuộc lòng. Việc trao đổi qua lại giữa thầy trò hầu như không
tồn tại, học trò chỉ hỏi thêm những điều chưa hiểu ngoài giờ lên lớp
và nhiều khi, những trường hợp phát biểu trái ý kiến thầy của học trò
bị xem là vô phép, thiếu lễ độ.

Các loại sách vở được nhắc đến ở đây chủ yếu là những sách vở Nho gia
dạy đạo lý thánh hiền hay những trật tự khuôn phép để sống ở đời, cũng
có khi là sách văn chương thơ phú. Có thể đây là một hình thức dạy học
được xem là tích cực trong thời phong kiến, bằng chứng là nhiều người
hấp thụ nền giáo dục đó cũng có thể trở thành những người tài trong xã
hội xưa. Nhưng từ khi xuất hiện tổ chức nhà trường với những lớp học
có nhiều HS cùng lứa tuổi và trình độ tương đối đồng đều thì GV khó có
điều kiện chăm lo cho từng HS, giảng dạy cặn kẽ cho từng em. Từ đó
hình thành kiểu dạy học thông báo - đồng loạt. GV quan tâm trước hết
đến việc hoàn thành trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết nội
dung quy định trong chương trình và SGK, cố gắng làm cho mọi HS trong
lớp hiểu và nhớ những lời thày giảng. Cũng từ đó hình thành kiểu học
thụ động, thiên về ghi nhớ, ít chịu suy nghĩ. Tình trạng này ngày nay
càng phổ biến, đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy học, không đáp ứng
được yêu cầu của xã hội đối với sản phẩm của giáo dục nhà trường. Hình
thức dạy học này hoàn toàn không phù hợp với khuynh hướng giáo dục
hiện đại, khi mà những kĩ năng sống thiết yếu của một con người xã hội
trở thành đơn đặt hàng cho ngành giáo dục.

Gần đây, nhu cầu đẩy mạnh phát triển giáo dục theo hướng hiện đại, đẩy
lùi hình thức dạy học cũ làm thui chột khả năng tư duy của con người
đã thúc đẩy sự ra đời của hình thức dạy học lấy người học làm trung
tâm. Đây là hình thức dạy học được áp dụng từ lâu ở nhiều nước tiên
tiến có nền giáo dục hiện đại, phái triển. Trong đó chủ yếu hướng vào
việc chuẩn bị cho học sinh sớm thích ứng với đời sống xã hội, hòa nhập
và phát triển cộng đồng, tôn trọng nhu cầu,lợi ích, tiềm năng người
học. Về nội dung: người ta cho rằng hệ thống kiến thức lí thuyết chưa
đủ để đáp ứng mục tiêu chuẩn bị cho cuộc sống. Cần chú trọng các kĩ
năng thực hành vận dụng các kiến thức lí thuyết, năng lực phát hiện và
giải quyết những vấn đề thực tiễn. Dạy học không chỉ đơn giản là cung
cấp tri thức mà còn phải hướng dẫn hành động. Khả năng hành động là
một yêu cầu được đặt ra không phải đối từng cá nhân mà cả ở cấp độ
cộng đồng địa phương và toàn xã hội. Chương trình giảng dạy phải giúp
cho từng các nhân người học biết hành động và tích cực tham gia vào
các chương trình hành động của cộng đồng ;từ học làm đến biết làm,
muốn làm và cuối cùng muốn tồn tại phát triển như nhân cách một con
người lao động tự chủ, năng động và sáng tạo.

Trong phương pháp dạy học lấy học sinh làm trung tâm, người
ta coi trọng việc tổ chức cho học sinh hoạt động độc lập hoặc theo
nhóm [thảo luận, làm thí nghiệm, quan sát vật mẫu, phân tích bảng số
liệu] thông qua đó HS vừa tự lực nắm các tri thức, kĩ năng mới, đồng
thời được rèn luyện vè phương pháp tự học, được tập dượt phương pháp
nghiên cứu. GV quan tâm vận dụng vốn hiểu biết và kinh nghiệm của từng
cá nhân và của tập thể HS để xây dựng bài học. Giáo án được thiết kế
theo kiểu phân nhánh. Những dự kiến của GV phải được tập trung chủ yếu
vào các hoạt động của HS và cách tổ chức các hoạt động đó, cùng với
khả năng diễn biến các hoạt động của HS để khi lên lớp có thể linh
hoạt điều chỉnh theo diễn tiến của tiết học, thực hiện giờ học phân
hóa theo trình độ và năng lực của HS, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
bộc lộ và phát triển tiềm năng của mỗi em.

Học sinh tự giác chịu trách nhiệm về kết quả học tập của
mình, được tham gia tự đánh giá và đánh giá lẫn nhau về mức độ đạt các
mục tiêu của từng phần trong chương trình học tập, chú trọng bổ khuyết
những mặt chưa đạt được so với mục tiêu trước khi bước vào một phần
mới của chương trình. GV phải hướng dẫn cho HS phát triển kĩ năng tự
đánh giá, không thể chỉ dừng lại ở yêu cầu tái hiện kiến thức, lặp lại
kĩ năng đã học mà phải khuyến khích óc sáng tạo, phát hiện sự chuyển
biến thái độ và xu hướng hành vi của HS trước những vấn đề của đời
sống gia đình và cộng đồng, rèn luyện khả năng phát hiện và giải quyết
những vấn đề nảy sinh trong tình huống thực tế. Việc sử dụng các
phương tiện kĩ thuật sẽ tạo điều kiện tăng nhịp độ kiểm tra, giúp HS
có thể thường xuyên tự kiểm tra, làm giảm nhẹ lao động chấm bài của
GV.

Hình thức dạy học này chỉ thật sự phát huy tác dụng trong
những điều kiện giáo dục nhất định như: ý thức tự giác học tập của học
sinh cao, cơ sở vật chất phục vụ dạy học đầy đủ và phù hợp, giáo viên
có năng lực khơi gợi tạo tình huống, môi trường giáo dục xã hội thuận
lợi, nguồn tài liệu tham khảo hay sách giáo khoa phong phú, số lượng
học sinh trong một lớp phải vừa đủ, không quá nhiều cũng không quá
ít...

Hình thức dạy học này cần thiết phải kéo theo một loạt các
hoạt động giáo dục khác tương ứng: kiểm tra, đánh giá, thi cử cũng như
nội dung và cách thức thi.

Trong quá trình phát triển, kiểu dạy học lấy học sinh làm trung tâm
ngày càng được chú ý so với kiểu dạy học lấy giáo viên làm trung tâm.
GS.Lê Khánh Bằng đã đưa ra so sánh sau:

Giáo viên làm trung tâm


Học sinh làm trung tâm

I. Nội dung


I. Nội dung

1. Sự kiện, thông tin có sẵn


1. Các khái niệm, vấn đề

II. Phương pháp


II. Phương pháp

2. Ghi nhớ


2. Sự tìm tòi

3. Tập trung vào bài giảng


3. Khám phá và giải quyết vấn đề

4. Người nghe thụ động


4. Người học chủ động tham gia

5. Giáo viên chiếm ưu thế, có quyền lực


5. Giáo viên là người điều khiển, thúc đẩy, tìm tòi

III. Môi trường


III. Môi trường

6. Không khí lớp học hình thức, máy móc


6. Tự chủ, thân mật, không hình thức

7. Sắp xếp chỗ ngồi cố định, giáo viên chiếm vị trí trung tâm


7. Chỗ ngồi linh hoạt

8. Dùng kĩ thuật dạy học ở mức tối thiểu


8. Sử dụng thường xuyên các kĩ thuật dạy học

IV. Kết quả


IV. Kết quả

9. Tri thức có sẵn


9. Tri thức tự tìm

10. Trình độ phát triển nhận thức thấp, có hệ thống. Chủ yếu là ghi
nhớ


10. Phát triển cao hơn về nhận thức, tình cảm và hành vi

11. Phụ thuộc vào tài liệu


11. Tự tin

12. Chấp nhận các giá trị truyền thống


12. Biết tự xác định các giá trị

2. Cơ sở của vấn đề:

Trong lí luận dạy học có những quan niệm khác nhau về vai trò của GV
và vai trò của HS nhưng tựu chung lại có hai hướng: hoặc tập trung vào
vai trò hoạt động của GV [lấy GV làm trung tâm] hoặc tập trung vào vai
trò hoạt động của HS [lấy HS làm trung tâm].

Xu hướng chung của đổi mới phương pháp dạy học đại học là đổi mới theo
quan điểm dạy học lấy người học làm trung tâm. Quan điểm này có cơ sở
lý luận từ việc nhận thức quá trình dạy học [QTDH] luôn luôn vận động
và phát triển không ngừng chịu sự chi phối của nhiều quy luật, trong
đó quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa dạy và học, giữa thầy và
trò trong QTDH là quy luật cơ bản. Thầy và trò - Cả hai chủ thể này
đều chủ động, tích cực bằng hoạt động của mình hướng tới tri thức.
Thầy giữ vai trò chủ đạo, tổ chức điều khiển hoạt động nhận thức của
trò. Trò thì hoạt động tích cực chiếm lĩnh tri thức và biến nó thành
vốn hiểu biết của mình để tiếp tục hoạt động nhận thức và hành động
thực tiễn. Bàn về phương pháp dạy học [PPDH] chúng ta phải bàn đến PP
dạy của thầy và PP học của trò. Sự phù hợp của PPDH sẽ cho ta hiệu quả
thực sự của việc dạy học. Hệ thống các PPDH tích cực lấy người học làm
trung tâm là kết quả của sự kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, thực
nghiệm ở nhà trường Việt Nam từ nhiều năm. Đó là sự tổng hợp, tích hợp
nhiều PP gần gũi nhau như : PP tích cực, PP hợp tác, PP học bắng hành
động, PP tình huống, PP nêu và giải quyết vấn đề..., và một phần nào
đó có sự kết hợp với các PPDH truyền thống được cải tiến, vận dụng
theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, sáng tạo của người học

3. Vai trò của người thầy giáo trong lối dạy học lấy học sinh làm
trung tâm

Vai trò người thầy trong quá trình dạy học theo quan điểm lấy người
học là trung tâm không thể bị mờ nhạt mà trái lại còn rõ nét hơn,
người thầy vẫn là linh hồn của giờ học sinh động và sáng tạo. Giáo
vien phải có trình độ chuyên môn sâu, có trình độ sư phạm lành nghề,
có đầu óc sáng tạo và nhạy cảm cái mới có thể đóng vai trò là người
gợi mở, xúc tác, trợ giúp, hướng dẫn, động viên, cố vấn, trọng tài
trong các hoạt động độc lập của HS, đánh thức năng lực tiềm năng trong
mỗi em, chuẩn bị tốt cho các em tham gia phát triển cộng đồng. Định
hướng cách dạy học như trên không mâu thuẫn với quan niệm truyền thống
về vị trí chủ đạo, vai trò quyết định của GV đối với chất lượng, hiệu
quả dạy học. Bởi vì, để có thể làm người hướng dẫn, cung cấp thông
tin, trọng tài, cố vấn người thầy phải hiểu biết sâu sắc những kiến
thức cơ bản của môn học mình đảm nhiệm, đồng thời phải tự bổ sung vốn
kiến thức của mình thường xuyên và có định hướng rõ ràng qua tài liệu,
sách báo Người thầy phải nắm vững bản chất và các quy luật của quá
trình dạy học để có thể tìm ra hoặc ứng dụng những phương pháp dạy học
phù hợp với đối tượng của mình nhất.

Thực hiện chương trình dạy học theo quan điểm dạy học lấy người học
làm trung tâm thì hoạt động của thầy và trò tương ứng như sau:

· Người học khai phá tri thức, tự nghiên cứu - Thầy chỉ hướng
dẫn và cung cấp thông tin.

· Người học tự trả lời các thắc mắc do chính mình đặt ra, tự
kiểm tra mình - Thầy là trọng tài.

· Người học tự hành động, tự kiểm tra, tự điều chỉnh - Thầy làm
cố vấn.

II. HIỆN TRẠNG DẠY HỌC Ở NƯỚC TA

Lối học của nền giáo dục Việt Nam từ xưa đến nay là thuyết
minh hàng loạt các kiến thức qua sách giáo khoa, giáo trình, bài
giảng với một hình ảnh quen thuộc là ông thầy đồ với quyển sách và
cây roi trong tay hệ quả là người học phải cố nhớ, lắng nghe và ghi
chép toàn bộ kiến thức từ người dạy. Và từ thế hệ này sang thế hệ khác
chúng ta sẽ đào tạo ra những con người thụ động, giáo điều, nguyên tắc
theo sách vở mà khả năng độc lập, tư duy và sáng tạo kém.

Theo kết quả phân tích của tác giả Lê Ngọc Oánh về phương
pháp giảng dạy truyền thống của Việt Nam và các phương pháp giảng dạy
tiên tiến

Phương pháp giảng dạy


Phương tiện GD và học tập


Phương pháp giảng dạy


Phương pháp học tập


Tâm lý vận dụng


Phương pháp đánh giá


Kết quả giáo dục

Phương pháp giảng dạy truyền thống của VN


Sách giáo khoa, giáo trình, bài giảng


Thuyết trình


Lắng nghe, ghi chép, học thuộc lòng, lập lại


Trí nhớ


Kỳ thi [gợi lại trí nhớ]


Hàn lâm, theo sách vở

Các phương pháp giảng dạy tiên tiến


Thư viện, phòng LAB, xưởng thực hành


Đặt vấn đề, nêu tình huống, phân công tìm hiểu, thảo luận


Tìm tòi, quan sát, so sánh, nghiên cứu tình huống, thảo luận, báo cáo


Óc tò mò, nhận xét, phân tích, đối chiếu, phê bình, tổng hợp, sáng tạo


Công trình đóng góp suốt khoá học


Sưu tầm, nghiên, cứu, phát minh, sáng tạo

Ở nước ta, mầm mống tư tưởng dạy học lấy học sinh làm trung tâm đã có
từ lâu. Chúng ta có thể thấy được điều này qua các câu ngạn ngữ Học
thầy không tày học bạn, Không thầy đố mày làm nên, Học một biết
mười

Vấn đề phát huy tích cực chủ động của HS nhằm đào tạo
những người lao động sáng tạo đã được đặt ra trong ngành giáo dục từ
những năm 1960. Khẩu hiệu biến quá trình đào tạo thành quá trình tự
đào tạo cũng đã đi vào các trường sư phạm từ thời điểm đó. Giáo sư Lê
Khánh Bằng đã đề cập đến vấn đề lấy học sinh làm trung tâm trên hai
phương diện vĩ mô và vi mô, ở đây người dạy phải tính đến nhu cầu,
nguyện vọng của người học, đến những đặc điểm tâm sinh lí và các cấu
trúc tư duy của từng người [Dạy học lấy học sinh làm trung tâm, tr.
14].

Tuy nhiên, thuật ngữ dạy học lấy người học làm trung
tâm [dạy học tập trung vào người học] chỉ mới xuất hiện và được sử
dụng phổ biến trong những năm gần đây. Vấn đề lấy người học làm trung
tâm là vấn đề còn mới đối với người dạy do trước đây quan niệm chủ yếu
là người dạy truyền đạt kiến thức cho người học, quá trình học thường
là tiếp nhận thụ động. Vì vậy, mặc dù đã thấy vấn đề trên là cần thiết
trong giai đoạn hiện nay và sau này, người dạy chưa được trang bị đủ
cơ sở lí luận về dạy học lấy học sinh làm trung tâm. Việc lấy học
sinh làm trung tâm mới chỉ được thực hiện ở mức để cho học sinh phát
biểu ý kiến, cho học sinh thảo luận theo nhóm Dạy học cũng như mọi
quá trình tự nhiên, trải qua thời kì hình thành, tồn tại và phát triển
lâu dài của mình.

Hiện nay, trong ngành giáo dục nước ta vấn đề phát huy tích
cực chủ động sáng tạo của người học được mọi người nhất trí nhưng vấn
đề HSTT chưa phải là đã được mọi người chấp nhận và được quan niệm một
cách thống nhất. Có người phản đối vì cho rằng cách dịch thuật ngữ này
sang tiếng Việt không thành công, có thể gây ra sự hiểu lầm. Có người
không chấp nhận vị trí trung tâm của người học trong hoạt động dạy học
vì e rằng sẽ hạ thấp vai trò của giáo viên, tạo ra sự đổi ngôi trong
nhà trường. Cũng có người cho rằng lấy hcoj sinh làm trung tâm là một
lí thuyết giáo dục đã lỗi thời, thậm chí đã bị bác bỏ tại chính nơi
sản sinh ra nó

Trên thực tế, trong giai đoạn phát triển ban đầu, tư tưởng
HSTT cũng đã từng có những lệch lạc bị phê phán như quá đề cao hứng
thú cá nhân HS, coi đó là động lực quan trọng nhất của quá trình học
tập, hoặc quan niệm quá khích rằng nhà trường phải dạy những gì HS cần
chứ không phải dạy những gì nhà trường có.

Phương pháp dạy - học lấy trẻ em làm trung tâm là phương
pháp học tập tích cực, khác với phương pháp dạy học truyền thống trước
đây là giáo viên giảng giải, học sinh lắng nghe và ghi nhớ thụ động.
Giáo viên được tập huấn cách thiết kế và giảng dạy theo phương pháp
dạy - học tích cực, lấy học sinh làm trung tâm, áp dụng các kỹ năng tổ
chức làm việc nhóm, kỹ năng đặt câu hỏi, phương pháp đóng vai, tự làm
đồ dùng dạy học bằng nguyên vật liệu sẵn có ở địa phương, sử dụng trò
chơi trong học tập, tối ưu hóa không gian lớp học.

III. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỂ TRIỂN KHAI VÀ ÁP DỤNG VÀO THỰC TẾ
QUAN ĐIỂM DẠY HỌC LẤY HỌC SINH LÀM TRUNG TÂM

Dạy học lấy học sinh làm trung tâm có nội hàm rộng hơn phương pháp dạy
học tích cực. Quan điểm này cần được quán triệt trong tất cả các khâu
của quá trình dạy học: mục tiêu, nội dung, phương pháp, hình thức tổ
chức và đánh giá

Khi vận dụng HSTT chớ nên máy móc và hình thức. GV phải biết lựa chọn
mức độ thích hợp với từng ngành học, bậc học, môn học, phù hợp với
phương tiện thiết bị dạy học và điều kiện học tập của HS.

- Việc dạy học phải xuất phát từ đầu vào [người học], tức là từ nhu
cầu, động cơ, đặc điểm và điều kiện của người học. Ở đây, cần thấy học
sinh là học sinh như nó đang tồn tại, với những ưu điểm và nhược điểm,
những điều chưa biết và đã biết. Phải tiến hành việc học tập trên cơ
sở hiểu biết năng lực đã có của học sinh.

- Cần đòi hỏi học sinh tham gia tích cực vào quá trình học tập, không
tiếp thu một cách thụ động. Học sinh cần tích cực suy nghĩ, tích cực
hoạt động.

- Thực hiện phân hóa, chú ý đến tư duy của từng học sinh, không gò bó
theo cách suy nghĩ đã định trước của giáo viên.

- Động viên, khuyến khích và tạo điều kiện để học sinh tự kiểm tra, tự
đánh giá quá trình học tập của mình tiến tới tự đào tạo và giải quyết
các vấn đề lí luận và thực tiễn một cách độc lập, sáng tạo.

- Mềm hóa quá trình đào tạo. Đây là biện pháp chung và cơ bản để phát
huy cao tính tích cực, độc lập, sáng tạo của sinh viên. Bản chất của
học chế là sự mềm dẻo từ mục tiêu, nội dung, phương thức đến quy trình
học tập. Có thể cho phép sinh viên không phải lên lớp nghe giảng ở một
số môn, cho phép sinh viên học vượt, học chậm lại Phương thức và quy
trình đào tạo cũng không nhất thiết phải giống nhau. Mục đích của việc
tổ chức quá trình đào tạo mềm dẻo là nhằm kích thích tinh thần tích
cực, chủ động của sinh viên thông qua việc sinh viên tự xây dựng mục
tiêu và kế hoạch học tập, cũng như việc lựa chọn phương thức học tập
thích hợp cho bản thân trong phạm vi cho phép. Học chế mềm dẻo đòi hỏi
phải cải tiến việc quản lí và kiểm tra kết quả học tập, đòi hỏi việc
xây dựng các quy chế mới về giáo vụ;

- Thực hiện cá biệt hóa, phân hóa và sàng lọc qua các giai đoạn và các
năm học;

- Nhà trường, khoa, bộ môn công bố mục tiêu, nội dung, kế hoạch, các
giai đoạn và quy trình đào tạo cho sinh viên biết ngay từ đầu khóa
học, năm học, môn học để họ có thể chủ động thiết kế quá trình học tập
của mình;

- Giảm tỉ lệ diễn giảng tùy theo bộ môn, chú ý sử dụng kết hợp các
kiểu dạy thông báo, nêu vấn đề, nghiên cứu, chương trình hóa;

- Tăng cường và nâng cao hiệu suất quá trình tự học của người học;

- Tăng cường giúp đỡ riêng bằng cách cho học sinh đăng kí lần lượt gặp
gỡ, trao đổi những vấn đề về học tập và nghiên cứu khoa học;

- Soạn thảo các tài liệu hướng dẫn học tập chung và cho từng bộ môn,
in và bán tài liệu cho học viên;

- Phát huy vai trò của các đoàn thể học sinh, các nhóm nhà khoa học
trẻ, câu lạc bộ khoa học để tạo không khí hăng say học tập, nghiên cứu
trong sinh viên;

- Tăng cường các loại bài tập sáng tạo, bài tập tình huống để học sinh
suy nghĩ tìm ra các phương án giải quyết tối ưu;

- Kiểm tra, thi cử khách quan, khuyến khích người học có những ý kiến
sáng tạo, tránh gò ép theo quan điểm duy nhất của giáo viên. - Định
mục tiêu đào tạo cụ thể đạt các yêu cầu: thích đáng, thực hiện được;

- Chú trọng đến yêu cầu về năng lực thực hành nghề nghiệp khi xây dựng
đầu ra của bộ môn;

- Thay đổi cách tuyển chọn học sinh [đầu vào] sao cho phù hợp với yêu
cầu đầu ra của từng chuyên ngành. Vì vậy, khi xét đầu vào phải xét đủ
các mặt về thể lực, tâm lí, trình độ văn hóa, năng khiếu sao cho phù
hợp với yêu cầu của đầu ra;

- Hướng các bộ môn cơ bản, chuyên ngành vào mục tiêu đào tạo;

- Chú ý rèn luyện kĩ năng nghề nghiệp từ thấp đến cao theo những qui
luật và qui trình nhất định;

- Thực hiện việc đánh giá sinh viên chủ yếu dựa trên kĩ năng vận dụng
và sự thành thạo trong nghề nghiệp mà không phải chỉ dựa trên một số
các tri thức học sinh đã nắm được;

- Yêu cầu mỗi sinh viên có đủ tài liệu và vở ghi, vở bài tập, vở thực
hành, sổ nghiệp vụ, hồ sơ nghiệp vụ .

IV. KẾT LUẬN

Quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm là một xu
hướng tất yếu có lí do lịch sử. Đặt người học vào vị trí trung tâm của
quá trình dạy học, xem cá nhân người học với những phẩm chất và năng
lực riêng của mỗi người vừa là chủ thể, vừa là mục đích của quá
trình đó, phấn đấu tiến tới cá thể hóa quá trình học tập với sự trợ
giúp của các phương tiện, thiết bị hiện đại để cho tiềm năng của mỗi
học sinh được phát triển tối ưu, góp phần có hiệu quả vào xây dựng
cuộc sống có chất lượng cho cá nhân, gia đình và xã hội. Đó chính là
cốt lõi tinh thần nhân văn trong dạy học lấy học sinh làm trung tâm.
Đây là một công việc khó khăn và lâu dài, đòi hỏi sự hoạt động mạnh
mẽ, có sự phối hợp đồng bộ của tất cả các cấp, ban, ngành và đội ngũ
giáo viên. Giải quyết tốt vấn đề dạy học lấy học sinh làm trung tâm sẽ
nâng cao được chất lượng và hiệu quả giáo dục, thúc đẩy quá trình học
tập của học sinh dẫn tới giải quyết tốt vấn đề đầu ra, đáp ứng được
nhu cầu cần thiết của xã hội.

-hết-

[ bài viết sử dụng nhiều nguồn tài liệu trên thư viện Đại học Sư phạm
Hà Nội và trên internet]
[Source: //yume.vn/miumiu_165/article/tim-hieu-ve-quan-diem-day-va-hoc-lay-hoc-sinh-lam-trung-tam-.35D36A40.html]

Reply all
Reply to author
Forward

Video liên quan

Bài Viết Liên Quan

Chủ Đề