Cảm nhận bài hát ở hai đầu nỗi nhớ

Trang chủ/Thư tình thể loại khác/Ở HAI ĐẦU NỖI NHỚ!!!

Có một không gian nào đo chiều dài nỗi nhớ

Có khoảng mênh mông nào sâu thẳm hơn tình thương…

Đúng vậy, có nỗi nhớ nào hơn khi chúng ta ở hai nơi, một khoảng không gian xa vời vợi! Có nỗi buồn nào chất ngất tâm hồn khi muốn có nhau trong vòng tay mà chẳng được dù chỉ phút giây. Khi ngày nhạt nắng, trong chiều hoang vắng, nhìn những cánh chim vội bay về tổ ấm… bỗng chạnh lòng, bâng khuâng. Lại một ngày nữa trôi qua. Dù chưa là tất cả… nhưng những gì đã có giữa hai chúng ta cũng đủ để nhấn anh chìm sâu vào tương tư.

Một ngày…và như mọi ngày, niềm đau, nỗi nhớ cứ dâng tràn, dâng mãi… làm thổn thức, ngây dại cả tâm hồn vốn đã cằn khô tự bấy lâu.

Ở đâu đây nỗi nhớ, anh mơ về bên em

Ngôi sao như xuống thấp cho ta gần nhau thêm.

Em ơi, đêm đến, giữa bao la hoang vắng, trong tĩnh lặng của không gian, trong cô liêu ở một góc đời u tịch ta lại nhớ về nhau, thầm thì bao lời thương lời nhớ. Chỉ biết gửi theo cơn gió qua hiên, nhắn với mây trời đến người ta yêu ngàn câu ân tình da diết. Dẫu biết yêu là khổ, là đợi chờ… nhưng sao vẫn thấy lòng trĩu nặng ưu tư. Giờ này em đang ở đâu, làm gì, có cùng ngắm trời sao với anh và nguyện ước cho tình mình lên xanh như chồi lá. Khi mơ về bên em… một giấc mơ giản dị, đời thường, yên bình như dòng suối róc rách giữa ngàn lau, có lẽ trời cao cũng thấu nên anh cảm nhận được sự gần gủi, ấm nồng của làn da, hương tóc em.

đếm mấy triệu hạt rồi mà chưa vơi nỗi nhớ Làm sao vơi được đây em, khi chính những hạt mưa kia cũng góp thêm phần hiu quạnh, làm nỗi cô đơn đong đầy hơn bao giờ. Đếm những hạt mưa tí tách rơi, những mong phần nào nhẹ đi khắc khoải… nhưng rồi những nỗi niềm như sương khói phủ quanh căn phòng đã vắng lạnh càng lạnh vắng hơn trong mưa đêm. Nổi cô đơn, sự trống vắng, đợi chờ, mơ ước… là những chất xúc tác ăn mòn vào tâm trí anh khiến từ đó bật lên bao tình cảm, tình cảm ấy chân thành, sâu sắc như ca từ trong bài hát mà anh muốn gửi đến em.

Ở hai đầu nỗi nhớ yêu và thương sâu hơn

Ở hai đầu nỗi nhớ nghĩa tình đằm thắm hơn

Câu chuyện tình tôi Năm cuối khoá, tôi bắt đầu vai trò của một thực …

Tác giả bài thơ “Ở hai đầu nỗi nhớ” là một nhà thơ nghiệp dư. Anh tên thật là Trần Đình Chính, sinh năm 1955 tại Hà Nội. Học trường cấp III Trần Phú – Hoàn Kiếm. Năm 1973, anh được lệnh nhập ngũ khi đang học lớp 10. Trong những ngày đi lính, vào giai đoạn cuối của cuộc chiến Trần Đình Chính suýt hy sinh trong một cuộc giao tranh ở vùng tiếp giáp hai tỉnh Cần Thơ và Vĩnh Long.

Sau này, cởi áo lính, Trần Đình Chính theo học khoa Ngữ văn tại trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Ra trường, ông được nhận vào làm báo Nhân dân, rồi được phân công vào Đoàn cán bộ sang Campuchia hỗ trợ nước bạn làm báo. Dù lúc này ông chỉ là phóng viên thực tập. Cùng thời gian ấy, có một Đoàn của Sở Thương nghiệp, TP. Hồ Chí Minh sang giúp nước bạn xây dựng mạng lưới bán hàng. Trong đoàn khi ấy có Mai Đào, từng là sinh viên khoa Văn Sài Gòn.

Tại thủ đô Phnom Penh nước bạn, định mệnh đã khiến Trần Đình Chính vừa gặp đã yêu cô gái Mai Đào. Ngày ấy, Chính 24 tuổi còn Mai Đào mới 20. Chàng là dân Hà Nội, còn nàng là người Sài Gòn. Tên của nàng góp cả hai loài hoa tượng trưng cho mùa Xuân ở Sài Gòn và Hà Nội và nàng cũng đẹp như hoa Xuân. Những lúc rảnh rỗi, Chính thường đưa Mai Đào đo thăm các đền chùa cổ kính. Đêm đến, đôi tình nhân sánh vai nhau ngồi ngắm sao trời. Để rồi sau này, những phút giây hạnh phúc ấy khắc sâu vào nỗi nhớ của Trần Đình Chính: “Ngôi sao như xuống thấp, cho ta gần nhau hơn!”.

Thế nhưng, họ chỉ hạnh phúc bên nhau khoảng một năm, bởi thời điểm mới giải phóng, người ta còn nặng xét lại thành phần lý lịch “bên này, bên kia”. Rồi gia đình của Mai Đào phải rời Sài Gòn đi kinh tế mới ở tỉnh Sông Bé, cô phải về nước phụ giúp cha mẹ. Đến tháng 4 năm 1980, Trần Đình Chính được trở về Hà Nội sau một năm rưỡi sống trên nước bạn.

Những đêm mưa rơi ở Hà Nội, Chính nhớ Mai Đào đến vật vã, khổ sở. Trong lòng cứ tự hỏi: “Người ấy bây giờ ra sao rồi?”. Nằm ở Hà Nội mà trong lòng chàng trai trẻ cứ nghĩ mãi về một nơi nào đó ở tỉnh Sông Bé – cả một không gian cách trở xa xôi. Bởi dạo ấy, điều kiện giao thông còn rất hạn chế. Và vào mùa hè năm 1980, một đêm mưa Hà Nội, nỗi nhớ cồn cào như dao cứa vào lòng, Trần Đình Chính đã ngồi bật dậy làm thơ:

“Có một không gian nào

Đo chiều dài nỗi nhớ?

Có khoảng mênh mông nào?

Sâu thẳm hơn tình thương?

Anh đang ở Pai-lin

Rừng khộp khô trong nắng

Thương em ngoài ấy lạnh

Muốn gửi chút nắng rừng

Chào Phnom Penh mến yêu

Ở đầu này nỗi nhớ

Anh mơ về bên em

Ngôi sao như xuống thấp

Cho ta gần nhau hơn

Ở đầu kia nỗi nhớ

Nằm đếm tiếng mưa rơi

Đếm mấy triệu hạt rồi

Mà chưa vơi nỗi nhớ

Ở hai đầu nỗi nhớ

Yêu và thương sâu hơn

Ở hai đầu nỗi nhớ

Nghĩa tình đằm thắm hơn”.

Bài thơ được làm vỏn vẹn trong 8 phút. Dưới bài thơ, anh ký tên “Trần Hoài Thu”. Năm 1984, bài thơ được đăng trên báo Nhân Dân. Đến năm 1987, bài thơ “lọt vào mắt xanh” của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu. Với khả năng phổ nhạc bậc thầy, vị “nhạc sĩ của tình yêu” đã chắp cánh cho bài thơ được bay cao, bay xa…

Cho đến bây giờ, sau hơn 30 năm, không ai biết “người đẹp mang tên hai loài hoa Xuân” ấy giờ đang ở đâu giữa dòng đời ngược xuôi. Riêng tác giả của bài thơ “Ở hai đầu nỗi nhớ” - Trần Đình Chính lại có một cuộc đời đầy trắc trở với một hậu vận buồn. Ông có một cuộc hôn nhân đổ vỡ, sau đó lại tái hôn với một đồng nghiệp nữ còn khá trẻ. Thế nhưng, hạnh phúc chưa được bao lâu thì anh phát hiện mình bị tiểu đường giai đoạn cuối. Trần Đình Chính từ trần vào ngày 09/05/2014.

Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã đánh giá: “Bài thơ “Ở hai đầu nỗi nhớ” thực sự là một tác phẩm thơ xuất sắc và được nhớ đến. Bài thơ đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật sử dụng ngôn từ. Nó không ồn ào, không nỉ non, những từ ngữ trong sáng, mượt mà đẹp như những vầng trăng sáng. Không cần cầu kỳ tự bản thân nó đã toát lên vẻ thanh khiết của một mối tình ngây thơ, trong sáng. Bài thơ là tiếng nói đầy ắp yêu thương của tình yêu và nỗi nhớ. Cái dạt dào tình thương ấy đã vượt lên trên tất cả niềm tin, niềm hy vọng ở một tình yêu được hội tụ bởi tinh hoa của trời đất, của con người với con người…”

Nhà báo Thép Mới từng viết: “Đời mỗi người làm văn, làm thơ, làm báo cũng chỉ cần một tác phẩm như “Ở hai đầu nỗi nhớ” là đủ!”.

Trần Quang Dũng biên soạn.

Xem thêm:Người ngoại tình khi về già nhận lại được gì? – Câu chuyện đầy sâu sắc

Có một điều rất hiển nhiên, đôi khi trong cuộc sống, người ta rất dễ bị đánh lừa bởi cái vẻ hào nhoáng, mã thượng. Nhưng ngược lại, đôi khi, người ta cũng dễ bị đánh lừa bởi cái vẻ xù xì, lầm lũi, mà không biết rằng, dưới cái vẻ khô xác ấy, có "chất ngọc" của tâm hồn.

Lần ấy, nhân kết thúc một kỳ thi tốt nghiệp trung học phổ thông, cánh nhà báo nữ chúng tôi được các quan chức giáo dục cơ sở mời đi ăn [có cả hát karaoke]. Nói thực, trong mối quan hệ giữa báo chí với các quan chức giáo dục, nhất là phái nữ như chúng tôi, luôn giữ khoảng cách vừa đủ gần, vừa đủ xa, lịch lãm và tôn trọng.

Giữa cuộc vui, một giọng hát cất lên: "Có một không gian nào. Đo chiều dài nỗi nhớ. Có khoảng mênh mông nào. Sâu thẳm hơn tình thương. Ở đầu này nỗi nhớ. Anh mơ về bên em. Ngôi sao như xuống thấp. Cho ta gần nhau hơn. Đêm nghe tiếng mưa rơi. Đếm mấy triệu hạt rồi. Mà không vơi nỗi nhớ. Ở hai đầu nỗi nhớ. Yêu và thương sâu hơn. Ở hai đầu nỗi nhớ. Nghĩa tình đằm thắm hơn".

Tất cả  như lặng đi. Tôi cũng lặng đi. Giọng hát của một vị quan chức. Da diết, sâu lắng, chân thành. Ông dường như đang sống những giây phút thật nhất của con người mình. Không có vẻ mặt đạo mạo, thậm chí cau có cáu kỉnh. Không có cái động tác bút phê, vừa nghiêm cẩn, vừa lạnh lùng. Chỉ có giọng hát ngọt ngào, ấm áp, đầy sức truyền cảm như của một nghệ sĩ, như của một chàng trai trẻ đang yêu. Nghe giọng ông hát, bỗng thấy cảm thông với ông hơn, và thấy ông "dễ thương" hơn.

Thế rồi, bài hát "Ở hai đầu nỗi nhớ" được giới thiệu là của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, tôi được nghe nhiều lần từ các ca sĩ tài danh Thu Hiền, Bảo Yến, trở thành nỗi ám ảnh tôi. Nhất là những đêm mưa cuối đông. Tiếng mưa lắc rắc trên mái hiên lành lạnh, trên lá cây buồn buồn, nhè nhẹ, như âm thầm... Không ngủ được, tôi cũng nằm nghe tiếng mưa rơi, bỗng nhớ những giai điệu đẹp của ca từ: "Đêm nghe tiếng mưa rơi. Đếm mấy triệu hạt rồi. Mà không vơi nỗi nhớ...", cảm nhận con tim yêu da diết, thanh tân đến không ngờ của người nhạc sĩ già nổi tiếng. Làm sao mà đếm được mấy triệu hạt mưa, mà đếm được cái vô cùng, vô hạn...?

Bất ngờ, tôi biết được bài hát ấy chỉ có nhạc là của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu, lời là thơ của Trần Hoài Thu. Bất ngờ nữa, Trần Hoài Thu chính là Trần Đình Chính, một nhà báo, đồng nghiệp với tôi ở Báo Nhân Dân. Trong mắt tôi, Trần Đình Chính là một người hướng nội, hơi lặng lẽ, khắc khổ, một "tuýp" người không dễ chia sẻ. Cùng cơ quan đấy, nhưng chúng tôi ít gặp nhau vì ai cũng bận rộn với mảng công việc của mình.

Hóa ra, sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, nhưng quê gốc Chính là Ngọc Lũ [Hà Nam], mảnh đất của trống đồng Ngọc Lũ, thấm đẫm hồn cốt nước Việt thuở khai thiên lập địa. Trong ký ức Chính, cha của Chính, một người thợ may từng có cửa hàng may ở phố Huế, là người hiền lắm, dễ tính lắm, đến nỗi có lần bà nội của Chính bảo: "Bố mày mà là con gái thì chửa hoang không biết bao lần".

Chính cười khục khục khi kể tôi nghe vậy, đôi mắt hơi xếch nghịch ngợm, tinh quái, khác hẳn lúc bình thường trầm tư, khi nào cũng như đang nghĩ ngợi một việc gì. Những vần vũ của cuộc đời đã xô đẩy cha của Chính, một con người, từng có lúc làm Chủ tịch UBND xã Ngọc Lũ, những năm Cách mạng Tháng Tám, trôi dạt lên Hà Nội mưu sinh, đẻ một lũ sáu đứa con mà Chính là đứa con thứ hai, nhưng là con trai trưởng. Những ngày tháng của tuổi thơ trèo me, trèo sấu, bắt chim, bắt cá vụng dại, lêu lổng mọi ngóc ngách Hà Nội, ăn roi, ăn vọt của cha, rồi cũng qua. Chính trở thành anh lính Hà Nội vào tháng 9/1973, khi mới học lớp 10 [cũ] của Trường cấp 3 [nay gọi trung học phổ thông] Trần Phú được mấy hôm. Bắt đầu cuộc đời mới.

Huấn luyện được sáu tháng ở miền Bắc, tháng 3/1974, Chính cùng đồng đội vào chiến trường... Cái khắc nghiệt và khốc liệt của chiến tranh, trước Chính chỉ đọc, chỉ cảm nhận trong trang sách học trò, trong các tác phẩm văn học, giờ nếm trải đến gan ruột trong trang đời...

Hỏi, kỷ niệm Chính nhớ nhất những năm tháng đời lính là gì? Chính bảo, đó là cái thời khắc gần cái chết nhất, trước ngày Chiến thắng vĩ đại 30-4-1975. Buổi chiều 27/4 ấy, được cấp trên thông báo có một đoàn xe địch đang chuẩn bị chạy qua đoạn Vĩnh Long và Cần Thơ. Chính và đồng đội phải chốt chặn tại quốc lộ 4, nằm trong đơn vị cối, đơn vị hỏa lực C12. Loạt cối đầu tiên vừa bắn ra, một chiếc xe vận tải của địch. Quân địch nháo nhào nhảy xuống hai bên đường.

Vừa nhìn thấy địch, bỗng Chính nghe thấy "cộc" một tiếng, tiếng nổ đầu nòng của một loại súng cối của quân đội Sài Gòn. Linh cảm và kinh nghiệm trận mạc cho biết nó sẽ nổ rất gần mình, Chính chỉ kịp nhào vào phía trong công sự thì đạn nổ. Đất đá mù mịt, anh em ai cũng tưởng Chính "dính" rồi. Chiến tranh là vậy, cái sống, cái chết mong manh cách nhau chỉ một sợi tóc. Giờ, Chính vẫn nhớ rõ như in cái tiếng "cộc" khô khốc, lạnh tanh, lạnh gáy ấy.

Hai năm sau thống nhất đất nước, chàng lính trẻ người Hà Nội xuất ngũ, trở về với 36 phố phường. Số phận may mắn và run rủi, Chính được vào làm việc ở Báo Nhân Dân, cơ quan ngôn luận lớn nhất. Làm nhân viên giao thông, rồi làm chân sửa bài của Ban Thư ký Tòa soạn báo, Chính vừa học tiếp và tốt nghiệp bổ túc văn hóa [lớp 10] để chuẩn bị thi đại học và được cơ quan cử trong đoàn cán bộ, nhân viên sang giúp báo bạn Campuchia. Chính ở nơi này, tại thủ đô Phnôm Pênh của nước bạn, anh gặp tình yêu đầu tiên của mình, gặp người con gái, nhân vật chính của bài thơ.

Cô gái ấy có cái tên rất lạ, M.Đ., cái tên là sự kết hợp của hai loài hoa tiêu biểu nhất của Sài Gòn và Hà Nội mỗi khi xuân về. M.Đ. rất xinh đẹp, rực rỡ và phúc hậu. Cô cũng ở trong một đoàn cán bộ của TP Hồ Chí Minh sang giúp bạn. Đang là sinh viên Văn khoa Sài Gòn, cách mạng về, bị cuốn vào luồng gió mới, M.Đ. rời trường đại học, tham gia hoạt động, thuộc thế hệ thanh niên "Cách mạng 30-4".--PageBreak--

Thủ đô Phnôm Pênh ngày đó hoang vắng lắm nhưng vẫn giữ được vẻ kiêu sa. Thành phố có những đường phố lớn, quyến rũ bởi những ngôi biệt thự kiến trúc cổ Âu-Á đặc sắc, có thần rắn Naga hai đầu, có những hồ nước, những rặng cây bằng lăng tím trầm tư, hay những rặng cây trâm anh vàng rực rỡ. Sự sống của Phnôm Pênh trở lại, bắt đầu từ những cọng hành xanh mướt được bán ở các chợ tại Phnôm Pênh. Giữa vẻ mỹ lệ của thủ đô cổ kính, Chính đã gặp M.Đ. Thanh xuân gặp thanh xuân. Lúc đó, Chính mới 22 tuổi, còn M.Đ 20. Trai Hà Nội, gái Sài Gòn. Cái gì phải đến đã đến. Tình yêu dù kín đáo đến dường nào cũng khó giấu được.

Ngoài thời gian bận rộn, làm đủ các việc theo yêu cầu cơ quan, hầu như ngày nghỉ, chủ nhật nào, Chính cũng lái chiếc xe ôtô Peugeđ 304 đưa M.Đ. đi chơi khắp thành phố. Vào chợ, các bà, các má Campuchia cứ tấm tắc khen đôi trai gái trẻ, đẹp quá. Tình yêu đầu ngọt ngào, êm đềm và say đắm. Cơ quan biết chuyện, ai cũng vun vào cho chàng lính trẻ và cô sinh viên Văn khoa. Thế nhưng, giống như những câu chuyện tình buồn, trong quấn quýt đã có mầm chia xa.

Cản ngại lớn lại từ phía gia đình M.Đ. Sau chiến thắng 30-4, cả gia đình cô bỏ Sài Gòn về Sông Bé sinh sống. Tình yêu đầu non nớt của đôi trẻ, mãnh liệt đấy, nhưng lại quá mong manh, đã không vượt qua nổi núi cao, sông rộng của sự mặc cảm, định kiến. Tháng 4/1980, sau một năm rưỡi công tác ở nước bạn, Chính được lệnh trở về Hà Nội.

Những gì đẹp đẽ nhất, êm ái nhất, với Chính, đã để lại ở Phnôm Pênh. Những buổi chiều Hà Nội, Chính bảo, ngắm nhìn phố xá, con người Hà Nội thấy đẹp quá, nhưng ai ai cũng có đôi, chỉ riêng Chính có một mình. Những đêm mưa Hà Nội sao dài thế. Không sao ngủ được, Chính nằm co, đếm tiếng mưa rơi, nhớ khắc khoải, nhớ miên man những kỷ niệm...

Rồi một buổi chiều, tình cờ, Chính nghe tin bộ đội tình nguyện Việt Nam  từ Campuchia rút về nước, trong đó có Binh đoàn Cửu Long. Lúc đó, Chính đang công tác ở Ban An ninh - Quốc phòng của Báo Nhân Dân, bắt đầu học và được viết báo. Nỗi nhớ những kỷ niệm chiến tranh, nhớ đồng đội, nhớ M.Đ. ập đến, da diết.

Trái tim đau bỗng nở hoa. Chính viết liền một mạch. Bài thơ "Ở hai đầu nỗi nhớ" ra đời như thế: "Có một không gian nào/ Đo chiều dài nỗi nhớ/ Có khoảng mênh mông nào/ Sâu thẳm hơn tình thương?/ Anh đang ở Pai Lin/ Rừng khộp khô trong nắng/ Thương em ngoài ấy lạnh/ Muốn gửi chút nắng rừng/ Chào Nông Pênh mến yêu/ Sức vươn chàng dũng sĩ/ Tạm biệt dòng Bốn Mặt/ Sóng đang hát đôi bờ/ Ở đầu này nỗi nhớ/ Anh mơ về bên em/ Ngôi sao như xuống thấp/ Cho ta gần nhau hơn/ Ở đầu kia nỗi nhớ/ Nằm đếm tiếng mưa rơi/ Được mấy triệu hạt rồi/ Mà chưa vơi nỗi nhớ/ Ở hai đầu nỗi nhớ/ Yêu và thương sâu hơn/ Ở hai đầu nỗi nhớ/ Nghĩa tình đằm thắm hơn". Bài thơ ấy, Chính ký tên Trần Hoài Thu.

Chính nhớ quá những mùa thu. Mùa thu Phnôm Pênh. Mùa thu Hà Nội. Sau này, Trần Hoài Thu cũng là tên đứa con gái đầu của Chính. Nộp bài thơ cho đồng chí phụ trách ban xong mà Chính hồi hộp không thể tả được, hệt như cậu học trò đi thi ấy. Khỏi phải nói, nỗi sung sướng, hạnh phúc đến thế nào khi bài thơ "Ở hai đầu nỗi nhớ" mấy ngày sau đăng trang trọng trên trang bốn Báo Nhân Dân [lúc đó, Báo Nhân Dân in bốn trang]. Cũng phải công bằng mà nói, bài thơ đăng lên, được nhiều người biết, nhất là khi được nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu phổ nhạc.

Năm ấy, 1988, đi công tác TP Hồ Chí Minh, vào chợ Bến Thành, qua cửa hàng bán băng đĩa, Chính bỗng sững người khi nghe giọng Bảo Yến, ca sĩ nổi tiếng một thời, trầm ấm: "Có một không gian nào. Đo chiều dài nỗi nhớ...". Hóa ra, bài thơ của mình đã được phổ nhạc. Phải một lúc mới trấn tĩnh được, Chính vào cửa hàng hỏi mua băng nhạc đó, tập hợp toàn bài hát của nhạc sĩ Phan Huỳnh Điểu với tiêu đề "Ở hai đầu nỗi nhớ". Rồi sau này, sau này nữa, Chính được nghe nhiều lần bài hát "Ở hai đầu nỗi nhớ" trong nhiều hoàn cảnh khác nhau.

Trong đội ngũ đông đảo những nhà báo ở Báo Nhân Dân, có nhiều nhà báo gạo cội, với tôi, Chính luôn là một đồng nghiệp sống với nghề, vì nghề, tâm huyết, cẩn trọng với nghề, một phẩm cách hết sức đáng trọng của nghiệp cầm bút, giữa thời buổi nhiều chen lấn này.... Nhưng thú thật, tôi cũng không dám hỏi sâu hơn về đời riêng của Chính, cũng không muốn hỏi kỹ hơn về M.Đ., người con gái năm xưa. Phận đàn bà, mười hai bến nước, biết bến nào đục, bến nào trong...

Chỉ biết Chính từng có chuyện buồn về gia đình riêng, mà theo Chính, do quá khác nhau về những quan niệm giá trị. Nhưng Chính rất ngay thẳng khi bảo rằng: "Trong chuyện chia tay, thì chắc chắn cả hai người cùng có lỗi". Chính đã ra khỏi ngôi nhà xây đẹp đẽ ấy, một cách rất đàn ông. Giờ đây, cuộc đời như đang mỉm cười với Chính. Anh đang có một hạnh phúc mới, một căn hộ chung cư còn đi thuê, một mụn con gái nhỏ xíu với người vợ trẻ cùng nghề báo mà Chính bảo: "Chẳng bao giờ dám nghĩ tới vì cô ấy còn trẻ quá". Nhưng tình yêu là chuyện con tim, đâu phải chuyện tuổi tác?

Thơ "xưa viết cho một người, giờ hát cho mọi người". Một nhạc sĩ tài danh nào đó đã viết như vậy. Điều kỳ diệu và tuyệt vời của cuộc đời, là có những cái tưởng là mất, nhưng mãi mãi là còn, là được, phải không Chính?

Kim Dung

Video liên quan

Chủ Đề