Cảm nhận về tâm hồn nhà văn Võ Quảng

      Văn bản Vượt thác được trích từ chương XI truyện Quê nội [1974] của Võ Quảng - nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi. Đoạn trích đưa ta về cảnh thiên nhiên sông nước trên sông Thu Bồn trong một cuộc vượt thác gian nan, vất vả của con người.

      Vượt thác đã đưa bạn đọc cùng với hành trình của con thuyền do dượng Hương Thư chỉ huy, từ vùrg đồng bằng trù phú, vượt qua những thác ghềnh ở vùng núi để tới thượng nguồn lấy gỗ về dựng trường học cho làng Hoà Phước sau Cách mạng 1945 thành công.

      Vượt thác là bức tranh thiên nhiên trên dòng sông Thu Bồn. Bức tranh đó được miêu tả có sự thay đổi theo từng chặng đường của con thuyền, theo điểm nhìn của tác giả. Nhà văn đã chọn vị trí quan sát là ở trên thuyền nên có thể nhìn thấy cảnh quan hai bên bờ cũng như dòng nước trên sông: con thuyền đi đến đâu thì cảnh hiện ra đến đấy. Có thể nói đó là một vị trí quan sát thích hợp nhất để tả cảnh. 

      Ở đây, cảnh vật được nhân hoá, so sánh khiến cho bức tranh thiên nhiên sông nước có hồn, sinh động và gợi cảm. Con thuyền như đang nhớ núi rừng phải lướt cho nhanh để về cho kịp... Nước từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng chảy đứt đuôi rắn... Rồi thuyền vượt qua khỏi thác cổ Cò. Dòng sông cứ chảy quanh co dọc những núi cao sừng sững. Nhưng hàm chứa nhiều ý nghĩa là hình ảnh những cây cổ thụ trên bờ sông mà tác giả đã miêu tả đến hai lần ở đoạn đầu và cuối bài văn. Khi con thuyền đã qua đoạn sông êm ả, sắp đến chỗ có nhiều thác dữ thì dọc bờ sông hiện ra những chòm cổ thụ dáng mãnh liệt đứng trầm ngâm lặng nhìn xuống nước như là cảnh báo con người: phía trước là khúc sông có nhiều thác dữ, cần phải chuẩn bị tinh thần để vượt qua. Đến khi con thuyền vượt qua nhiều thác dữ thì dọc sườn núi lại hiện ra.

      Điều đặc sắc hơn là những cây cổ thụ đều được ví với người để biểu hiện thêm những tầng nghĩa mới. Song điều đặc biệt ở đây là mỗi hình ảnh so sánh đều có nét riêng độc đáo không gây sự nhàm chán. Cho nên, nếu hình ảnh ở đoạn cuối văn bản là một hình ảnh so sánh rõ ràng [có từ so sánh “như”] thì hình ảnh ở đoạn trước [đầu văn bản] là một sự so sánh kín đáo, được thể hiện bằng một cách nhân hoá [qua cái dáng đứng trầm ngâm lặng nhìn - đặc điểm chỉ có ở con người để miêu tả cho những chòm cổ thu]. Tạo được những hình, ảnh giàu sức biểu hiện như vậy là một thành công của Võ Quảng.

      Khung cảnh thiên nhiên dù có đẹp đến đâu cũng chỉ là một cái nền để tôn vẻ đẹp của con người bởi con người bao giờ cũng là trung tâm của cảnh. Đó là chú Hai, vi tiêu biểu nhất, đẹp nhất là dượng Hương Thư ở cảnh vượt thác dữ. Nhà văn đã đặc tả nhân vật này với những chi tiết đầy ấn tượng thể hiện một quyết tâm lớn để chiến thắng hoàn cảnh. Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cẩn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào, giống như một hiệp sĩ của Trường sơn oai linh hùng vĩ. Biện pháp so sánh được sử dụng nối nhau liên tiếp trong đoạn đã khắc hoạ vẻ đẹp rắn chắc, dũng mãnh của nhân vật, biểu thị sức mạnh, sự cố gắng hết sức tập trung tất cả tinh thần và nghị lực để chiến đấu với dòng thác. 

      Lại một so sánh tưởng chừng như lạc lõng: Dượng Hương Thư đang vượt thác khác hẳn dượng Hương Thư ở nhà, nói năng nhỏ nhẹ, tính nết nhu mì, ai gọi cũng vâng vâng dạ dạ, thực chất đã mang lại hiệu quả bất ngờ. Nó không những chỉ đối lập và thống nhất hai tư thế, hai hình ảnh khác nhau của cùng một con người mà còn hé mở cho người đọc biết thêm những phẩm chất đáng quí của người lao động: khiêm tốn, nhu mì đến nhút nhát trong cuộc sống đời thường, nhưng lại dũng mãnh, nhanh nhẹn, quyết liệt trong công việc, trong khó khăn thử thách.

      Đoạn văn là sự thống nhất cao độ và thành công tột bậc giữa tả thiên nhiên và tả người, tả chân dung con người trong hoạt động, giữa kể và tả với hai biện pháp nghệ thuật phó biến: nhân hoá và so sánh.

      Võ Quảng đã thành công trong việc thể hiện chủ đề của bài văn qua cảnh vượt thác của dượng Hương Thư, chú Hai và thằng Cù Lao. Nhà văn ca ngợi cảnh thiên nhiên miền trung đẹp, hùng vĩ, ca ngợi con người lao động Việt nam hào hùng mà khiêm nhường, giản dị.

Loigiaihay.com

Trích đoạn ngắn viết về con thuyền vượt thác, trên đó có bốn người: dượng Hương, cha con chú Hai và tôi - nhân vật phát ngôn cho cả nhóm. Những chuyến đi như thế có lẽ là câu chuyện thường nhật trong cuộc mưu sinh vất vả nhọc nhằn, nhưng với người kể là một em nhỏ [do tác giả hoá thân] thì lại như là một phát hiện. Những tinh khôi, đậm đà trong cảm nhận vì vậy mới có sức hút trước hết là với người kể, và qua lời kể mà đến với người nghe về một vùng sông nước miền Trung. Đoạn văn có ba cảnh - một chặng hành trình, nếu tách ra, có ý nghĩa riêng, còn đem nhập lại, ta có một bức tranh liên hoàn cùng trên một dòng chảy của con sông nghe tên thì hiền hoà nhưng lại không ít những "quanh quanh" ghềnh thác.

Con thuyền từ bến ra đi đầy khí thế. Nhưng bến ấy là bến nào, xuất phát từ đâu, con thuyền không để ý. Hình như nó chỉ biết đợi chờ và cái giờ phút đợi chờ kia đã đến: "Gió nồm vừa thổi, dượng Hương nhổ sào". Câu văn gấp gáp, khẩn trương, kiệm lời, không thừa một tiếng. Nó im lặng đến lầm lì vì chất chứa trong lòng bao nhiêu hớn hở, dù chỉ là một "cánh buồm nhỏ" [vì là thuyền nhỏ] vẫn "căng phồng" náo nức, say mê. Đoạn văn nôn nao như là ra đi từ nỗi nhớ "Thuyền rẽ sóng lướt bon bon như đang nhớ núi rừng phải lướt cho nhanh để về cho kịp". Đó là con thuyền tâm trạng, con thuyền tương tư.

Những chi tiết đời thường qua quan sát và liên tưởng đã đi vào nghệ thuật. Quá trình tái tạo và sáng tạo ấy là bản chất của văn chương. Bởi thế nên cảnh vật hai bên bờ được ống kính quay phim lia lướt rất nhanh. Nó chỉ thực sự dừng lại, chầm chậm, từ từ khi con thuyền đến ngã ba sông. Ở đây có đến ba chi tiết được đưa vào cận cảnh: những bãi dâu bạt ngàn ước lượng cái rộng lớn của không gian, những con đường chất đầy hương vị núi rừng đang xuôi dòng như chẳng có gì vội vã, và giữa um tùm vườn tược, những chòm cổ thụ hiện ra cùng những ngọn núi cao chắn ngang trước mặt.

Những chi tiết ấy vừa có hoạ [bức tranh cảnh vật ven bờ], vừa có nhạc [cái náo nức của những câu vãn lúc trào dâng, khi lắng đọng], tâm hồn người nhìn cảnh vật như thư giãn, khoan thai trước vẻ đẹp của thiên nhiên kì thú ấy. Cái phút thư thái, lãng du, mơ mộng chỉ chấm dứt để trở về cái thực hằng ngày với câu văn tín hiệu giống như một biển báo giao thông: "Đã đến Phường Rạnh", Trước mát chỉ còn là một công việc, công việc đầy khó khăn không dễ chểnh mảng, vô tâm "Thuyền chuẩn bị vượt nhiều thác nước".

Đến Phường Rạnh, cuộc vượt thác mới thật sự bắt đầu. Lặng lẽ hai bên nghênh chiến, về phía con người, hậu cần và vũ khí thật đơn giản, thô sơ như Sơn Tinh đánh giặc nước thuở nào. Chỉ một bữa cơm ăn cho chắc bụng với ba chiếc sào tre đầu bịt sắt cho thích hợp với sỏi đá dưới lòng sông. Vậy lấy gì để chiến thắng? Trong lúc trận địa thác thì mạnh mẽ, biến hoá và hiểm trở khôn lường: "Nước từ trên cao phóng giữa hai vách đá dựng đứng chảy đứt đuôi rắn". Những động từ [phóng], tính từ [dựng đứng] cùng với cách nói ẩn dụ [chảy dứt đuôi rắn] phác hoạ chân dung một thứ thiên nhiên hoang sơ, mù quáng mang sức mạnh vô hình vốn có từ hàng ngàn năm, triệu năm đe doạ con người, nhất là kẻ nào dám dương đầu với nó.

Trong cuộc đấu trí, đấu lực dường như không ngang sức, ai sẽ là chủ nhân của vòng nguyệt quế vinh quang? Cả hai cứ lăn xả vào nhau theo cách đánh giáp lá cà, túm lấy thắt lưng nhau như vào sới vật. Cả hai đã vắt đến giọt sức cuối cùng. Phía chiếc thuyền, dượng Hương "đánh trần đứng sau lái co người phóng chiếc sào xuống lòng sông nghe một tiếng "soạc" ! Thép đã cắm vào sỏi !" Đó là cách đánh trúng và chắc, không khoa trương nhưng có hiệu quả. Một mình dương một mũi chủ công, phối hợp với hai cánh [chú Hai và thằng Cù Lao] tạo thành thế chân vạc vững như thành, đẩy con thuyền vượt thác.

Để hỗ trợ cho nhau, phải giữ vững trận địa, nhưng cái cách "giữ vững trận địa" của dượng Hương là quyết liệt hơn cả, phải chăng đó là vị trí của người đứng mũi? Chiếc sào tre chắc như thế, không hiểu sức lực ghì chống của dượng đến mức nào, chỉ thấy nó bị cong lại. Còn về phía đối phương, khi con thác rơi vào tình thế bị động, nó tức tối "văng bọt tứ tung" làm cho con thuyền không còn ổn định, thăng bằng, mà "vùng vằng cứ chực trụt xuống, quay đầu chạy về lại Hoà Phước".

Trong trận chiến ác liệt ấy, nổi bật lên nhân vật dượng Hương, vừa là đại diện cho cả ba người vừa là sự kết tinh riêng cho những phẩm chất phi thường của con người luôn phải đối mặt với thác cao, sóng cả. Trước hết, khi xung trận, dượng như là một con người khác. Có một cái gì thần bí, trang nghiêm hem, đáng sùng kính hơn, người viết đã không thể gọi con người quen thuộc ấy bằng cái tên thường gọi. Phải là "Dượng Hương Thư" [một cách gọi đầy đủ] mới nói được tất cả sự ngạc nhiên cùng với lòng ngưỡng mộ. Người chiến thắng một kẻ thù như thế ! Phải gọi lên như thế ! Thứ hai, dượng có một vẻ đẹp bất ngờ. Câu văn sau đây là một bức phù điêu: "Dượng Hương Thư như một pho tượng đồng đúc, các bắp thịt cuồn cuộn, hai hàm răng cắn chặt, quai hàm bạnh ra, cặp mắt nảy lửa ghì trên ngọn sào giống như một hiệp sĩ của Trường Sơn oai linh hùng vĩ".

Trong bức tượng đài hoàn chỉnh đến mẫu mực trên đây, người đọc nhận ra một thứ chân dung đặc tả, cả khuôn hình cơ thể, nhất là gương mặt nguyên khối và thống nhất hài hoà. Đằng sau đó là cả một ý chí, một sức mạnh toàn năng. Cái đẹp có thực ấy vì thế được đẩy lên một tầm cao cần đến một liên tưởng kì vĩ "một hiệp sĩ của Trường Sơn". Liên tưởng này được bắt rễ từ những trường ca Đam San, Xinh Nhã trước đây và còn được chứng thực bằng những tấm gương của những anh hùng Núp, Bi-năng-tắc sau này. Thứ ba, cái đẹp ở dượng Hương là sự thống nhất giữa hai tính cách: vừa quyết đoán, dũng cảm, đầy uy lực vừa "nhỏ bé", "nhu mì" ai gọi gì cũng "vâng vâng dạ dạ". Phát hiện bất ngờ này ở một đứa trẻ [người kể chuyện] giống như một cánh cửa nhận thức và lâm hồn cùng một lúc mở ra: cái đẹp thuộc về con người, thuộc về cuộc sống.

Phần kết của đoạn văn vừa kể, vừa tả. Câu kể nói vé cuộc hành trình đã kết thúc: "Cho đến chiểu tối, thuyền vượt qua khỏi thác Cổ Cò", vẻn vẹn chỉ một dòng nhật kí, giản dị vậy thôi nhưng là sự đơn sơ có hàm chứa: một cơn bão đã tan. Trận chiến vẻ vang, kết thúc thắng lợi, tất cả như đã thuộc vé quá khứ. Còn câu tả là những câu còn lại viết về người và cảnh ven sông. Trong số những tay sào, nếu nói tới những tay sào lão luyện, không thấy dượng Hương đâu? Hình như là dượng vẫn đứng ngồi đâu đó trên con thuyền nhỏ bé đó thôi, khi dòng thác đã trở lại là sông, "đồng ruộng lại mở ra", vai trò của dượng đã lẫn vào bản tình ca - và lần này không cần người chỉ huy hay lĩnh xướng nữa [bản anh hùng ca đã chấm dứt]. Hoặc cũng có thể hiểu dượng Hương đã hoá thân vào chú Hai lúc này. Từ hình tượng phi thường, người anh hùng đã trở lại trạng thái bình thường trong cái cử chỉ một mỏi, kiệt sức, rã rời rất thực [suốt buổi phải chống liền tay không một phút nghỉ]: "Chú Hai vứt sào, ngồi xuống thở không ra hơi".

Về nghệ thuật, đây là đoạn văn tả cảnh, tả người. Cảnh được nhìn từ đôi mắt biết quan sát và đắm say của một con người trên thuyền, của người trong cuộc. Bởi thế, cảnh trí ven sông, cảnh con thuyền vượt thác rất tự nhiên, sinh động và chân thực. Còn con người ở đây được miêu tả theo lối đậm nhạt, miêu tả bằng cách chấm phá, lấy ngoại hình để khắc hoạ nội tâm [như nhân vật dượng Hương]. Đó là cách miêu tả có chọn lọc, có dụng ý nghệ thuật chứ không phải là tuỳ tiện gặp gì ghi nấy. Chẳng hạn như hệ thống hình ảnh những cây cổ thụ ven sông. Trước hết, chúng là những chứng nhân cho cuộc vượt thác [có mật ở hai chặng đầu và cuối của cuộc hành trình] để dõi theo và ghi nhận.

Những cây cổ thụ giống như những bậc hiền triết phương Đông với tuổi tác và sự trải nghiệm đang chứng kiến những sự tích của con người [ở đây là người vượt thác] và nạp dữ liêu vào cuốn sử triền miên của thời gian vô tận. Cũng có thể hình dung đó là những ông già tốt bụng giữa con cháu của mình [những bụi cây lúp xúp xung quanh], đang đứng phía sau lớp con cháu đã trưởng thành có thể thay thế được cha anh để lập nên những trang đời đẹp. Những chòm cây cổ thụ ấy có những tâm trạng không giống nhau gắn với hai giai đoạn của quá trình vượt thác.

Lần thứ nhất đó là dáng điệu trầm tư, lặng lẽ như tự hỏi mình: con thuyền mảnh mai, nhỏ bé nhường kia liệu có vượt qua được thác dữ hay không? Hoặc ít nhất không nói được, bằng sự trầm tư, lặng lẽ ấy, nó mách bảo con người phải nghiêm cẩn, thận trọng, đề phòng. Còn ở lần thứ hai, thay thế cho dáng điệu trên đây là sự phấn khích, hào hứng và tin tưởng: con đường gian nan đã mở, cứ vững bước mà đi ! Chòm cây cổ thụ ở đây không phải là nhân vật, chúng chỉ là những đường nét có thật của thiên nhiên. Nhưng qua cách quan sát và miêu tả của người viết, nó đã trở nên những biểu tượng có giá trị nghệ thuật và tư tưởng. Nét sáng tạo thành công này đã làm cho trang viết trở nên thi vị, hấp dẫn được bạn đọc chúng ta.

Ảnh minh họa [Nguồn internet]

Video liên quan

Chủ Đề