Cảm nhận về vẻ đẹp của người lính lái xe qua 3 khổ thơ cuối

Cảm nhận 3 khổ thơ cuối bài thơ Tiểu đội xe ko kính của Phạm Tiến Duật để thấy được tình đồng chí đồng đội cao cả của các chiến sĩ lái xe trong thời đoạn kháng chiến chống Mỹ oanh liệt. Sau đây là mẫu bài phân tách 3 khổ cuối bài Tiểu đội xe ko kính hay và cụ thể, mời các bạn cùng tham khảo.

  • Cảm nhận 2 khổ thơ đầu trong Bài thơ về tiểu đội xe ko kính
  • Top 3 bài cảm nhận về Tiểu đội xe ko kính hay nhất

I. Mở bài:

– Giới thiệu về tác giả, tác phẩm

+ Phạm Tiến Duật: cá tính sáng tác, tác phẩm điển hình

+ “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính”: tình cảnh sáng tác, nội dung bài thơ

– Giới thiệu về 3 khổ thơ cuối của bài thơ:

+ Trích dẫn 3 khổ thơ

+ Nêu qua nội dung của 3 khổ thơ

II. Thân bài:

a. Khổ 5: Vẻ đẹp của người lính được trình bày qua cái nhìn sáng sủa, yêu đời trước hiện thực trận đánh đấu còn nhiều gian nan.

– “Những chiếc xe… kính vỡ rồi”

+ Nghệ thuật: Những câu thơ ghi nhận 1 cách sống động hà khắc nhưng các anh phải chịu đựng lúc bom đạn đối thủ đã giật, rung, hủy hoại tấm kính chắn xe. Hơi thở nhẹ nhõm như lời chuyện trò, nhưng là chuyện vui, chuyện thường nhật vẫn xảy ra với các anh, chẳng phải khiến các anh phải bận lòng. Nhịp thơ mạnh,, dứt khoát. Các cụm từ “chưa cần rửa”, “chưa cần thay” ko chỉ đem lại cảm giác về sức trẻ dồi dào nhưng còn hé mở 1 điều đáng nể sợ ở người lính: với các anh nhiệm vụ là trên hết còn những thứ khác ko đáng bận lòng.

+ Liên hệ: bài “Nhớ”

=> Những con người tương tự hẳn nhiên càng ko chỉ vì cái chuyện cái mặt hay lắm nhưng làm chậm cuộc hành trình “Tất cả vì tiền phương, tất cả vì miền Nam cật ruột”.

b. Khổ 6: Tình đồng đội, đồng chí

– “Bếp Hoàng Cầm… trời xanh thêm”

+ Nghệ thuật: hình ảnh giàu sức gợi, nhịp thơ 2/2/3

+ Nội dung: Niềm vui đoàn tụ được mở ra sau chặng đường chạy dưới mưa bom đạn của đối thủ.

c. Khổ cuối: Tình yêu quê hương, tổ quốc

– “Không có kính… 1 trái tim”

+ Nghệ thuật: điệp từ “ko”

+ Nội dung: Vẻ đẹp của người lính trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian nan: trẻ trung, sáng sủa, dù nguy hiểm vẫn chắc tay đua chống chọi ra tiền phương.

* Liên hệ với lí tưởng sống của tuổi xanh trong thời đại hiện nay

– Gicửa ải thích: lí tưởng sống là gì?

– Chứng minh:

+ Nguyễn Ngọc Ký, Jack ma

– Bình luận:

+ Cuộc sống thật vô dụng nếu ko hợp lí tưởng sống

+ Lí tưởng sống sẽ là động lực giúp bạn vươn lên trong cuộc sống.

– Liên hệ bản thân

III. Kết bài:

– Khẳng định trị giá của bài thơ

– Tình cảm dành cho bài

Từ mái trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Phạm Tiến Duật bước vào đời lính đấu tranh và hoạt động trên tuyến đường chiến lược Trường Sơn những 5 tháng đánh Mỹ tàn khốc nhất. Lửa khói trận mạc, chủ nghĩa người hùng Việt Nam, những cô gái thanh niên xung phong, những chiến sĩ lái xe can đảm… in dấu chói lọi, kỳ vĩ như những tượng đài trong thơ Phạm Tiến Duật.

Bài thơ về tiểu đội xe ko kính điển hình cho hồn thơ Phạm Tiến Duật trong Vầng trăng – Quầng lửa những bài ca mặt trận thấm đẫm màu sắc lãng mạn. Đây là đoạn cuối bài thơ đánh dấu cảnh trú quân dã chiến của tiểu đội xe ko kính, truyền tụng tình đồng chí và lý tưởng đấu tranh cao cả của những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh:

… Những chiếc xe từ trong bom rơi

………………………………..

Chỉ cần trong xe có 1 trái tim

Sau những ngày tháng chiến dịch chở vũ khí lương thực… tăng viện cho tiền tuyến, vượt qua hàng ngàn hàng vạn cây số trong mưa bom bão đạn, tiểu đội xe ko kính “đã về đây… 1 cái bắt tay thắm tình bạn bè, tình đồng đội:

Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi đến

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Cũng là cái nắm tay, cái bắt tay của người lính, mà mỗi thời 1 khác. Anh vệ quốc quân trong những 5 đầu kháng chiến chống Pháp:

Miệng cười buốt giá

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.

[Đồng đội – Chính Hữu, 1948]

Anh giải phóng quân trên đường chiến dịch, gặp bạn bè đồng chí “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Tình thương mến đồng đội đồng chí là thực chất, là sức mạnh của người lính chẳng phải chỉnh sửa. Từ cái “nắm lấy bàn tay” tới cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” là 1 giai đoạn trưởng thành và đương đại của quân đội ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc và tổ quốc.

Cuộc trú quân dã chiến của tiểu đội xe ko kính ngắn ngủi nhưng thắm tình đồng đội, tình đồng chí. Chỉ bằng 3 cụ thể mà rất tiêu biểu: “bếp Hoàng Cầm”, “chung bát đũa”, “ võng mắc cheo leo”, đời lính vốn giản dị, bình dị nhưng mà rất quyền quý. Giữa trận mạc đầy bom đạn nhưng họ vẫn tử tế: “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời”. Giữa trời là giữa thanh thiên bạch nhật. Bữa cơm dã chiến chỉ có 1 bát canh rau rừng, có lương khô… thế nhưng rất đặm đà: “Chung bát đũa tức là gia đình đó”. 1 chữ “chung” rất hay gợi tả gia tài người lính, tấm lòng, tình cảm của người lính. Tiểu đội xe ko kính đã biến thành 1 tiểu gia đình tràn đầy tình thương.

“ Thơ là nữ vương nghệ thuật”, có người đã nói tương tự. Nếu thế thì ngôn từ là chiếc áo của nữ vương. Hai chữ “tức là” chỉ dùng để “đưa đẩy” mà dưới ngòi bút của những tài thơ thực sự thì nó trở thành lóng lánh, duyên dáng. Với Xuân Diệu, mùa xuân tuổi xanh thật đẹp, thật dễ thương, 1 đi ko quay về

Xuân đang đến tức là xuân đang qua

Xuân còn non tức là xuân sẽ già

Nhưng xuân hết tức là tôi cũng mất…

[Vội vã – 1938]

Với Tố Hữu, người thanh niên cộng sản quyết đấu tranh và hy sinh vì 1 lý tưởng cách mệnh cao đẹp thì hận, nhục, đấu tranh là lẽ sống thiêng liêng:

Tôi chưa chết tức là chưa hết hận

Nghĩa là chưa hết nhục của muôn thuở

Nghĩa là còn đấu tranh mãi ko thôi

Còn trừ diệt cả 1 loài thú độc!

[Tâm sự trong tù – 1939]

Với Phạm Tiến Duật, tình đồng chí cũng là tình anh em cật ruột, cực kỳ thân thiện:

Chung bát đũa tức là gia đình đó.

Có yêu thơ mới tìm tới thơ. Tìm tới thơ, 1 phần là tìm tới ngôn từ chữ nghĩa. Thơ đâu là chuyện “nhai câu nhá chữ’”[chữ dùng của Cao Bá Quát]. Thi sĩ có thực tài mới có thể thổi hồn vào ngôn từ. Chỉ qua 2 chữ “tức là”, ta đã thấy thi sĩ trẻ rất xứng đáng với các nhà thơ đàn anh. Cảnh sum vầy tri kỷ: “võng mắc cheo leo đường xe chạy”. Sau 1 bữa cơm thân tình, 1 vài câu chuyện thân mật khi nằm võng, những người lính trẻ lại lên đường. Tiền phương vẫy gọi:

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Điệp ngữ “lại đi” diễn đạt nhịp bước hành binh, những cung đường, những chặng đường hành binh lên phía trước của tiểu đội xe ko kính. Hình ảnh “trời xanh thêm” là 1 nét vẽ rất tài giỏi mang ý nghĩa biểu trưng thâm thúy: sáng sủa, yêu đời, chan chứa kì vọng. Là kì vọng, là chiến công đang đón nhận. Đây là 1 đoạn thơ trình bày sinh hoạt vật chất và ý thức người lính thời đánh Mỹ, rất lạ mắt nhưng ta ít gặp trong thơ thời đấy:

Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa tức là gia đình đó

Võng mắc cheo leo đường xe chạy

Lại đi, lại đi trời xanh thêm.

Khổ cuối bài thơ nói lên nghĩ suy của tác giả về tiểu đội xe ko kính. Chiếc xe đầy thương tích, chiến tích. Không kính, ko đèn, ko mui xe, thùng xe bị xước. Chiếc xe vận chuyển quân sự mang tầm vóc những người hùng lẫm liệt vô danh. ”Không” nhưng mà “có”, có “1 trái tim” của người lính. Trái tim rực lửa, chuẩn bị hy sinh, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, hợp nhất Non sông:

Không có kính, rồi xe ko có đèn,

Không có mui xe, thùng xe có xước

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:

Chi cần trong xe có 1 trái tim.

Các điệp ngữ “ko có”, các từ ngữ tương ứng: “vẫn … chỉ cần có…” đã khiến cho giọng thơ, ý thơ trở thành mạnh bạo, hào hùng. Quyết tâm đấu tranh và chí khí người hùng của người lính ko có bom đạn nào của kẻ thù có thể làm biến chuyển được. “Trái tim” trong thơ Phạm Tiến Duật là 1 hình ảnh hoán dụ, tuy ko mới mẻ mà đầy ý vị.

Đoạn thơ trên đây trình bày rất thực, rất hay cách sống, cách nghĩ, cách cảm của những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh thời đánh Mỹ. Tình đồng chí, ý thức đấu tranh can đảm ngoan cường vì sự nghiệp giải phóng miền Nam của người lính rạng ngời vần thơ.

Ngôn từ, hình ảnh, vần thơ, giọng thơ… đều mang chất lính, trình bày 1 hồn thơ trẻ trung phất phới, tài giỏi, người hùng. Đoạn thơ trên đây là 1 tiếng ca của khúc tráng ca Bài thơ về tiểu đội xe ko kính.

Phạm Tiến Duật là 1 trong những bộ mặt điển hình của lớp thi sĩ trẻ trong những 5 chống Mĩ. Thơ ông tập hợp trình bày lứa tuổi trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và những cô gái thanh niên xung phong trên con đường Trường Sơn. Thi phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” sáng tác 5 1969, nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả. Bài thơ nhưng tiêu biểu là 3 khổ thơ cuối đã khắc họa hiện thực tàn khốc của chiến tranh mà qua ấy làm nổi trội lên hình tượng người lính với bao nhân phẩm cao đẹp.

Sau những chặng đường dây mưa bom bão đạn đây gió bụi, mưa tuôn, người lính lái xe vẫn có phút chốc bình an:

“Những chiếc xe từ trong bom rơiĐã về đây họp thành tiểu độiGặp bạn bè suốt dọc đường đi đến

Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.”

Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gợi nên qua thử cái ý những chiếc xe gan dạ, những chiếc xe đã qua thách thức. Vượt qua những đoạn đường “bom giật, bom rung”, những chiếc xe lại được quây quần bên nhau thành “tiểu đội” – đơn vị bé nhất trong quân ngũ [gồm 12 người]. Tiểu đội xe ko kính là mười 2 chiếc xe và cứ như thế có biết bao lăm tiểu đội trên đường ra trận, kể sao cho hết? Suốt dọc đường vào Nam, tất cả những người lính lái xe gặp nhau dù chỉ trong phút chốc mà đều là bạn bè “Gặp bạn bè suốt dọc đường đi đến”. Mặt khác tuyến đường đi đến là đường chính nghĩa, càng đi càng gặp nhiều bạn hữu.

Kế bên ấy, phút chốc gặp nhau đấy thật thú vị qua cái “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” – 1 cử chỉ thật gần gũi, cảm động. Có biết bao lăm điều muốn nói trong cái bắt tay đấy. Đấy là thú vui trong họ vừa thoát khỏi chặng đường nguy hiểm gian lao. Họ cổ vũ nhau dù trong tình cảnh nào cũng vẫn nỗ lực cầm chắc tay lái để đưa xe về tới đích. Chỉ 1 cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi cũng đủ để họ san sớt cho nhau, cảm hiểu lẫn nhau giữa những người đồng đội, đồng chí chung 1 hào chiến đấu, chưng 1 nhiệm vụ thiêng liêng cao cả nhưng Non sông và quần chúng uỷ thác. Cái bắt tay qua ô cửa kính là sự bù đắp ý thức cho sự thiếu thốn về vật chất.

Người lính trên đường ra trận còn có chung những điểm tựa và tình cảm, tâm hồn, sinh hoạt. Chúng ta hãy nghe Phạm Tiến Duật kể về những cái chung đấy:

“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trờiChung bát đũa tức là gia đình đóVõng mắc cheo leo đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”

Bếp Hoàng Cầm – hình ảnh không xa lạ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ là dấu hiệu của sự sum họp, hội ngộ sau chặng đường hành binh khó nhọc. Ngọn lửa ấm áp như nối kết tấm lòng người chiến sĩ với nhau. Tất cả là 1 gia đình êm ấm, tràn đầy mến thương. Phạm Tiến Duật đã đưa ra 1 định nghĩa gia đình thật lạ, thật giản đơn: “chung bát đũa” là tiêu chuẩn. Câu thơ toát lên tình đời, tình người gắn bó keo sơn. Họ có chung bát đũa, chung mâm cơm, chung bếp lửa, chung ánh sao trời, chung gió bụi, mưa tuôn, chung 1 tuyến đường hành binh, 1 hào chiến đấu, 1 nhiệm vụ. Những tình cảm đấy chỉ có những người lính cách mệnh mới được thưởng thức và nếm trải. Nó thật phổ biến mà cũng thật cao đẹp thiêng liêng. Câu thơ đẹp về tình cảm, cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ. Trong các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, tình đồng đội đã biến thành sức mạnh vô giá, giúp người lính trụ vững nơi trận mạc bom đạn, giành thắng lợi trước kẻ thù.

Sau 1 bữa cơm đoàn tụ thân tình, 1 vài câu chuyện thân mật, những người lính trẻ lại tiếp diễn lên đường: “Lại đi , lại đi trời xanh thêm”. Hình ảnh “Trời xanh” là 1 nét vẽ rất tài giỏi mang ý nghĩa biểu trưng thâm thúy. Nó ko chỉ tượng trưng cho sự sống nhưng còn tượng trưng cho tự do, hòa bình, chan chứa hi vọng chiến công béo đang chờ. Người chiến sĩ lái xe chính là tự do của loài người. Họ đấu tranh để giành lại trời xanh. Chính thành ra dù gian lao nguy hiểm tới đâu, họ cũng vẫn nỗ lực lái xe bon bon về phía trước. Đây không hề là 1 mệnh lệnh khô khan, là nhiệm vụ thuần tuý nhưng là ý thức, là ý chí, là tình cảm của người lính luôn hướng trái tim về miền Nam cật ruột.

Khổ thơ kết, hình ảnh thơ được lặp lại những chiếc xe ko kính. Nhưng từ đây để làm nổi trội vẻ đẹp của người lính lái xe:

“Không có kính rồi xe ko có đènKhông có mui xe, thùng xe có xướcXe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có 1 trái tim.”

Giờ đây những chiếc xe đấy ko chỉ mất kính nhưng mà ko đèn, ko mui, thùng xe có xước. Chiếc xe đã biến dạng hoàn toàn. Người lính xế lại chất chồng gieo neo. Sự gian nan nơi trận mạc càng ngày càng nâng lên gấp bội lần mà chẳng thể làm chùn bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước. Nguyên nhân nào nhưng những chiếc xe tàn dạng đấy vẫn băng băng chạy như vũ bão? Nhà thơ đã lí giải: “Chỉ cần trong xe có 1 trái tim”. Câu thơ dập dồn chắc chắn hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe ko kính. Từ hàng loạt những cái ko có ở trên , thi sĩ khẳng định 1 cái có, ấy là “1 trái tim”. Trái tim là 1 hoán dụ nghệ thuật tu từ chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn 5 xưa. Trái tim của họ chua xót trước cảnh quần chúng miền Nam sống trong khói bom thuốc súng, tổ quốc bị chia cắt thành 2 miền. Trái tim đấy dạt dào tình yêu Non sông như máu thịt, như mẹ cha, như vợ như chồng … Trái tim đấy xoành xoạch sôi sục phẫn nộ giặc Mĩ bạo tàn. Mến thương, phẫn nộ chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khao khát giải phóng miền Nam hợp nhất tổ quốc. Để mơ ước này biến thành hiện thực, chỉ có 1 cách độc nhất vô nhị: vững vàng tay đua, cầm chắc tay lái. Thành ra thách thức càng ngày càng tăng mà vận tốc và hướng đi chẳng phải chỉnh sửa.

Đằng sau những ý nghĩa đấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định thắng lợi không hề là vũ khí nhưng là con người giàu ý chí, người hùng, sáng sủa, quyết thắng. Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con mắt thơ, bật sáng chủ đề, rạng ngời vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mĩ.

Với 1 chất liệu hiện thực lạ mắt, giọng thơ ngang tàng, khẩu khí trẻ trung, nhịp độ biến hóa cởi mở: lúc thì như lời đối thoại, lúc thì như khúc văn xuôi thích hợp với nhịp hành binh của đoàn xe trên đường ra tuyến lửa. Qua đây, có thể khẳng định rằng, “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” của Phạm Tiến Duật là 1 trong những thi phẩm điển hình viết về lứa tuổi trẻ Việt Nam trong những 5 tháng chẳng thể nào quên của dân tộc. Các anh đã dệt nên những bản tình khúc bất hủ cho tổ quốc.

Bỏ dở những gieo neo, khó nhọc, những người lính Trường Sơn đã kết thân với nhau trên đường đi đấu tranh, tiếp cho nhau thêm sức mạnh tiến đến. Ba khổ thơ cuối bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” đã đề cao ý thức kết đoàn cao đẹp của người lính cụ Hồ. Chính sức mạnh của họ đã đưa kháng chiến đến chiến thắng.

“Bài thơ tiểu đội xe ko kính” điển hình cho hồn thơ Phạm Tiến Duật trong “Vầng trăng – Quầng lửa”. Đây là đoạn cuối bài thơ đánh dấu cảnh trú quân dã chiến của tiểu đội xe ko kính, truyền tụng tình đồng chí và lí tưởng đấu tranh cao cả của những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh.

Sau mỗi trận mưa bom bão đạn cộng với những chiếc xe bị hủy hoại nặng nề hơn, họ lại gặp nhau trong những phút ngừng chân ngắn ngủi tạo thành 1 “tiểu đội xe ko kính”

Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi đến.

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

Con đường giải phóng miền Nam là tuyến đường đi đến chính nghĩa, họ càng đi càng có thêm nhiều bạn: “Gặp bạn hữu suốt dọc đường đi đến”. Họ có thể “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” nhưng ko cần mở cửa xe, thư thái, kiêu hãnh và thắm tình đồng chí. Cũng là cái nắm tay, cái bắt tay của người lính mà mỗi thời 1 khác. Anh Vệ quốc quân trong những 5 đầu kháng chiến chống Pháp:

Miệng cười buốt giá

Thương nhau nắm lấy bàn tay.

Chỉ 1 cái bắt tay cũng ấm lòng, đủ cổ vũ nhau, thông cảm với nhau. Cái bắt tay thay cho lời nói. Chỉ có những người lính, những chiếc xe thời chống Mĩ mới có thể có những cái bắt tay đấy. Cái bắt tay truyền cho nhau cả tâm hồn, tình cảm. Tình cảm đấy đượm đà như cật ruột, như anh em trong gia đình. “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời – Chung bát đũa tức là gia đình đó” – 1 cách khái niệm về gia đình thật lạ, thật tếu hóm và tình cảm thật sâu nặng, thiêng liêng giúp con người xích lại gần nhau trong những cái chung: chung bát, chung đĩa, nắm cơm, bếp lửa, chung tình cảnh, chung tuyến đường với muôn ngàn thử thách nguy khốn phía trước. Khi hành binh các anh cổ vũ, chào hỏi nhau trong tình cảnh lạ mắt, những sinh hoạt, ngơi nghỉ thật ngắn ngủi, cái ăn, giấc ngủ thật giản dị, gian nan mà tâm hồn người lính thật vui mừng, sáng sủa, có cái gì xao xuyến: “Võng mắc cheo leo đường xe chạy”. “Chông chênh” gì thì cheo leo mà ý chí đấu tranh, khí phách, nghị lực vẫn vững vàng, kiên trì, vượt lên tất cả. Chính mình đồng chí đã tiếp cho họ sức mạnh để tâm hồn họ phất phới sáng sủa.

Tình cảm gia đình người lính thật bình dị, ấm áp, thân yêu hình thành sức mạnh, nâng bước chân người lính, để rồi các anh lại tiếp diễn hành binh: “Lại chuyển động đi trời xanh thêm”. Điệp ngữ “lại đi” diễn đạt nhịp bước hành binh, những cung đường, những chặng đường hành binh lên phía trước của tiểu đội xe ko kính. Hình ảnh “trời xanh thêm” là 1 nét vẽ rất tài giỏi mang ý nghĩa biểu trưng thâm thúy: sáng sủa, yêu đời, tràn đầy hi vọng; “lại đi” là đi tới chiến thắng rốt cục. Trong tâm hồn họ, trời như xanh thêm, chan chứa hi vọng sáng sủa dào dạt.

Khổ thơ cuối hình thành kết cấu đối lập, bất thần, thâm thúy, đối lập giữa 2 bình diện vật chất và ý thức, giữa vẻ bên ngoài và bên trong của chiếc xe. Trcửa ải qua mưa bom bão đạn, những chiếc xe lúc đầu đã ko có kính, bị bom Mỹ khiến cho biến dạng tới trần bụi:

Không có kính, rồi xe ko có đèn,

Không có mui xe, thùng xe có xước

Điệp từ “ko có” được nhắc lại 3 lần nhấn mạnh sự thiếu thốn tới trần truồng của những chiếc xe, còn cho ta thấy chừng độ tàn khốc của trận mạc. Những chiếc xe đầy thương tích, chiến tích: ko kính, ko đèn, ko mui xe, thùng xe bị xước,… Chiếc xe mang tầm vóc của những người hùng lẫm liệt, vô danh đã nguyện hi sinh cả cuộc đời mình vì độc lập, tự do cho dân tộc, những người hùng ko tên đấy cương quyết hi sinh tới phút rốt cục. Ay vậy nhưng những chiếc xe mang trên mình đầy thương tích ấy lại như những chiến sĩ bền chí vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra tiền phương với 1 tình cảm thiêng liêng:

Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước

Chỉ cần trong xe có 1 trái tim.

Mọi thứ của xe có thể ko còn nguyên lành, chỉ cần nguyên lành trái tim người lính – trái tim hướng về miền Nam cật ruột thì xe vẫn chạy. Bom đạn kẻ thù có thể làm biến dạng chiếc xe mà ko đè bẹp được ý thức, ý chí đấu tranh của người lính. Đối lập với những cái “ko có” ở trên, chỉ có 1 cái “có” độc nhất vô nhị ấy là có “trái tim”. Vậy là đoàn xe đã thắng lợi, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền phương béo với 1 tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì trận đánh đấu giành độc lập, hợp nhất tổ quốc đang vẫy gọi. Bởi vì trong những chiếc xe ấy lại nguyên lành 1 trái tim can đảm. Hình ảnh trái tim là 1 hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra biết bao ý nghĩa. Trái tim là hình ảnh tụ hội vẻ đẹp tâm hồn và nhân phẩm của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng nàn 1 lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân thương, trái tim chứa đựng khả năng hiên ngang, lòng can đảm hoàn hảo. Trái tim mang ý thức sáng sủa và 1 niềm tin mãnh liệt vào ngày hợp nhất Bắc Nam. Thì ra nguồn cội sức mạnh của cả đoàn xe, cỗi rễ, nhân phẩm người hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan dạ, bền chí, giàu khả năng và tràn đầy tình mến thương này. Trái tim người lính rạng ngời đặc sắc mãi tới muôn lứa tuổi tương lai. Nhà văn đã tô đậm những cái “ko” để làm nổi trội cái “có” – nổi trội chân lí của thời đại: bom đạn, chiến tranh có thể làm sai lệch những chiếc xe, huỷ hoại những trị giá vật chất mà chẳng thể bẻ gãy được những trị giá ý thức cao đẹp… để rồi 1 nước bé như Việt Nam đã thắng lợi 1 cường quốc béo.

Như vậy, qua 3 khổ thơ cuối bài thơ đã cho ta thấy ý thức chiến đấu bền chí, can đảm của những người lính. Họ đấu tranh bằng tất cả lòng tâm huyết và niềm tin của mình vào ngày mai tươi sáng, họ luôn hướng đến miền Nam phía trước. Đây là tấm gương sáng cho tuổi teen mọi lứa tuổi noi theo.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy gay cấn và oanh liệt cúa quần chúng đã xong xuôi chiến thắng. Trong “mưa bom bão đạn” trên con đường Trường Sơn trước đây có bao kỳ tích xảy ra. 1 trong những thần thoại của thế kỷ XX là hình ảnh nhửng đoàn xe ko có kính vẫn băng ra trận tuyến, nối đuôi nhau đi lên phía trước, góp phần làm nên những kỳ tích của dân tộc. Xúc động trước hiện thực béo lao ấy của đồng chí, Phạm Tiến Duật đã sáng tác “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính”. Trong bài ca người lính lạ mắt này, tác giả đã biểu thị xúc cảm, nghĩ suy của mình về những chiến sĩ lái xe, về dân tộc và tổ quốc :

“…Những chiếc xe từ trong bom rơi….

Chỉ cần trong xe có 1 trái tim.”

Mày mò bài thơ và đặc trưng 3 đoạn thơ trên ta sẽ cảm thu được cái hay, cái đẹp kỳ diệu của thơ ca Việt Nam thời chống mỹ cứu nước.

Bắt đầu bài thơ tác giả viết:

“Những chiếc xe từ trong bom rơi

Đã về đây họp thành tiểu đội

Gặp bạn bè suốt dọc đường đi đến

Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”

Nhịp đập ở đây hơi lắng lại. Người chiến sĩ đang nói về đồng chí và cũng đang tự nói về mình. “Từ trong bom rơi” có tức là từ trong tàn khốc, từ trong cái chết trở về. Vượt qua tuyến lửa, bom rơi, những chiếc xe bỗng tụ nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú vị. Tiểu đội những chiếc xe ko kính. Những con người đã qua thách thức trên tuyến đường đi đến bỗng biến thành bạn hữu và cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi “ mới thật kiêu hãnh, sảng khoái biết bao! Dường như, chính ô cửa vỡ đấy khiến họ gần nhau thêm, khiến cái bắt tay của họ thêm chặt hơn và tình đồng chí lại càng thêm đượm đà. Cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ như là sự chia sẽ, thông cảm lẫn nhau của người lính Trường Sơn. Đấy là sự mừng vui, là chúc mừng nhau kết thúc nhiệm vụ,cũng là niềm tin, niềm kiêu hãnh của người thắng lợi.

Đoàn xe ko kính càng ngày càng ra đi xa. Càng đi sâu vào trận mạc. Khổ thơ tiếp theo nói đến sinh hoạt trên đường của họ :

“Bếp hoàng cầm ta dựng giữa trời….

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm“

Sinh hoạt của người tài xế, cái ăn cái ngủ phổ biến của con người, được tóm tắt vào trong 2 hình ảnh “Bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc cheo leo[”. Cái gì cũng tạm bợ, cơ động, gian khổ nhưng cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ vế chúng thật tươi tắn và cảm động : là gia đình đấy. Chất thơ nghịch ngợm đầy ý vị đã mở ra từ những hình ảnh chân chất đời lính đã ấm lên tình đồng ngũ, nghĩa anh em. Sức sống thơ cững chính là ở đây và câu thơ đó đã cất cánh bay cao :” Lại đi, lại đi, trời xanh thêm”. Hai chữ “lại đi” được lặp lại biểu hiện đoàn xe không ngừng tiến tới, không một sức mạnh bạo tàn nào của giặc Mỹ có thể ngăn nổi. “Trời xanh thêm” là một hình ảnh đầy chất thơ và giàu ý nghĩa. Trời xanh là trời đẹp, bầu trời yên tĩnh, không gian cao xa.

Câu thơ đã gợi mở biết bao tâm hồn vẫn sôi nổi lên đường, rộng mở những ngày mai, những ngày vẫn “xanh thêm” niềm tin chiến thắng. Khổ thơ cuối cùng, vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói bình thường. Vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng, vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người chiến sĩ vận tải Trường Sơn:

“ Không có kính rồi xe không có đèn….

Chỉ cần trong xe có một trái tim”

Bốn câu thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ, thú vị. Hai câu đầu dồn dập, những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống : không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước. Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, êm ru. Hình ảnh đậm nét. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam.” Vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. đặc biệt, tỏa sáng chói ngời cả đoạn thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim.” Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rể phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái ?

Tình yêu tổ quốc, tình thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vững tay lái xe về tới đích ? Và ẩn sau ý nghĩa “trái tim cầm lái”, câu thơ còn muốn hướng ngưới đọcvề một chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ… mà là co người, con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niền lạc quan và mọi niền tin vững chắc. Có thể nói, cả bài thơ, hay nhất là câu thơ cuối cùng. Nó là “con mắt của thơ” bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hìng tường nhân vật trong thơ. Bài thơ được khép lài mà âm hưởng của nó như vẫn vang xa chính là nhờ câu thơ ấy.

Tóm lại, những khổ thơ trên đã phác họa những hình tượng đẹp về người lính lái xe trên tuyền đường Trường Sơn trong những năm cứu nước. những câu thơ giản dị, hình ảnh sinh động cụ thể, sự đối lập ở từng khổ thơ, tác giả đõa để lại những ấn tượng đẹp về tiểu đội xe không kính. Cám ơn nhà thơ đã cho thế hệ trẻ ngày nay hiểu thêm về cha anh trước đây trong thời đất nước có chiến tranh. Hiểu được điều đó, có lẽ ,chúng ta, những học sinh sẽ sống tốt hơn.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của CNTA VN.

Top 4 mẫu phân tách 3 khổ cuối bài Tiểu đội xe ko kính

Cảm nhận 3 khổ thơ cuối bài thơ Tiểu đội xe ko kính của Phạm Tiến Duật để thấy được tình đồng chí đồng đội cao cả của các chiến sĩ lái xe trong thời đoạn kháng chiến chống Mỹ oanh liệt. Sau đây là mẫu bài phân tách 3 khổ cuối bài Tiểu đội xe ko kính hay và cụ thể, mời các bạn cùng tham khảo.

Cảm nhận 2 khổ thơ đầu trong Bài thơ về tiểu đội xe ko kính
Top 3 bài cảm nhận về Tiểu đội xe ko kính hay nhất

1. Dàn ý phân tách 3 khổ cuối bài thơ Tiểu đội xe ko kính I. Mở bài: – Giới thiệu về tác giả, tác phẩm + Phạm Tiến Duật: cá tính sáng tác, tác phẩm điển hình + “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính”: tình cảnh sáng tác, nội dung bài thơ – Giới thiệu về 3 khổ thơ cuối của bài thơ: + Trích dẫn 3 khổ thơ + Nêu qua nội dung của 3 khổ thơ II. Thân bài: a. Khổ 5: Vẻ đẹp của người lính được trình bày qua cái nhìn sáng sủa, yêu đời trước hiện thực trận đánh đấu còn nhiều gian nan. – “Những chiếc xe… kính vỡ rồi” + Nghệ thuật: Những câu thơ ghi nhận 1 cách sống động hà khắc nhưng các anh phải chịu đựng lúc bom đạn đối thủ đã giật, rung, hủy hoại tấm kính chắn xe. Hơi thở nhẹ nhõm như lời chuyện trò, nhưng là chuyện vui, chuyện thường nhật vẫn xảy ra với các anh, chẳng phải khiến các anh phải bận lòng. Nhịp thơ mạnh,, dứt khoát. Các cụm từ “chưa cần rửa”, “chưa cần thay” ko chỉ đem lại cảm giác về sức trẻ dồi dào nhưng còn hé mở 1 điều đáng nể sợ ở người lính: với các anh nhiệm vụ là trên hết còn những thứ khác ko đáng bận lòng. + Liên hệ: bài “Nhớ” => Những con người tương tự hẳn nhiên càng ko chỉ vì cái chuyện cái mặt hay lắm nhưng làm chậm cuộc hành trình “Tất cả vì tiền phương, tất cả vì miền Nam cật ruột”. b. Khổ 6: Tình đồng đội, đồng chí – “Bếp Hoàng Cầm… trời xanh thêm” + Nghệ thuật: hình ảnh giàu sức gợi, nhịp thơ 2/2/3 + Nội dung: Niềm vui đoàn tụ được mở ra sau chặng đường chạy dưới mưa bom đạn của đối thủ. c. Khổ cuối: Tình yêu quê hương, tổ quốc – “Không có kính… 1 trái tim” + Nghệ thuật: điệp từ “ko” + Nội dung: Vẻ đẹp của người lính trong cuộc kháng chiến chống Mỹ gian nan: trẻ trung, sáng sủa, dù nguy hiểm vẫn chắc tay đua chống chọi ra tiền phương. * Liên hệ với lí tưởng sống của tuổi xanh trong thời đại hiện nay – Gicửa ải thích: lí tưởng sống là gì? – Chứng minh: + Nguyễn Ngọc Ký, Jack ma – Bình luận: + Cuộc sống thật vô dụng nếu ko hợp lí tưởng sống + Lí tưởng sống sẽ là động lực giúp bạn vươn lên trong cuộc sống. – Liên hệ bản thân III. Kết bài: – Khẳng định trị giá của bài thơ – Tình cảm dành cho bài 2. Phân tích 3 khổ cuối bài thơ về Tiểu đội xe ko kính – mẫu 1 Từ mái trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Phạm Tiến Duật bước vào đời lính đấu tranh và hoạt động trên tuyến đường chiến lược Trường Sơn những 5 tháng đánh Mỹ tàn khốc nhất. Lửa khói trận mạc, chủ nghĩa người hùng Việt Nam, những cô gái thanh niên xung phong, những chiến sĩ lái xe can đảm… in dấu chói lọi, kỳ vĩ như những tượng đài trong thơ Phạm Tiến Duật. Bài thơ về tiểu đội xe ko kính điển hình cho hồn thơ Phạm Tiến Duật trong Vầng trăng – Quầng lửa những bài ca mặt trận thấm đẫm màu sắc lãng mạn. Đây là đoạn cuối bài thơ đánh dấu cảnh trú quân dã chiến của tiểu đội xe ko kính, truyền tụng tình đồng chí và lý tưởng đấu tranh cao cả của những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh: … Những chiếc xe từ trong bom rơi ……………………………….. Chỉ cần trong xe có 1 trái tim Sau những ngày tháng chiến dịch chở vũ khí lương thực… tăng viện cho tiền tuyến, vượt qua hàng ngàn hàng vạn cây số trong mưa bom bão đạn, tiểu đội xe ko kính “đã về đây… 1 cái bắt tay thắm tình bạn bè, tình đồng đội: Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi đến Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Cũng là cái nắm tay, cái bắt tay của người lính, mà mỗi thời 1 khác. Anh vệ quốc quân trong những 5 đầu kháng chiến chống Pháp: Miệng cười buốt giá Thương nhau tay nắm lấy bàn tay. [Đồng đội – Chính Hữu, 1948] Anh giải phóng quân trên đường chiến dịch, gặp bạn bè đồng chí “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi”. Tình thương mến đồng đội đồng chí là thực chất, là sức mạnh của người lính chẳng phải chỉnh sửa. Từ cái “nắm lấy bàn tay” tới cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” là 1 giai đoạn trưởng thành và đương đại của quân đội ta trong chiến tranh giải phóng dân tộc và tổ quốc. Cuộc trú quân dã chiến của tiểu đội xe ko kính ngắn ngủi nhưng thắm tình đồng đội, tình đồng chí. Chỉ bằng 3 cụ thể mà rất tiêu biểu: “bếp Hoàng Cầm”, “chung bát đũa”, “ võng mắc cheo leo”, đời lính vốn giản dị, bình dị nhưng mà rất quyền quý. Giữa trận mạc đầy bom đạn nhưng họ vẫn tử tế: “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời”. Giữa trời là giữa thanh thiên bạch nhật. Bữa cơm dã chiến chỉ có 1 bát canh rau rừng, có lương khô… thế nhưng rất đặm đà: “Chung bát đũa tức là gia đình đó”. 1 chữ “chung” rất hay gợi tả gia tài người lính, tấm lòng, tình cảm của người lính. Tiểu đội xe ko kính đã biến thành 1 tiểu gia đình tràn đầy tình thương. “ Thơ là nữ vương nghệ thuật”, có người đã nói tương tự. Nếu thế thì ngôn từ là chiếc áo của nữ vương. Hai chữ “tức là” chỉ dùng để “đưa đẩy” mà dưới ngòi bút của những tài thơ thực sự thì nó trở thành lóng lánh, duyên dáng. Với Xuân Diệu, mùa xuân tuổi xanh thật đẹp, thật dễ thương, 1 đi ko quay về Xuân đang đến tức là xuân đang qua Xuân còn non tức là xuân sẽ già Nhưng xuân hết tức là tôi cũng mất… [Vội vã – 1938] Với Tố Hữu, người thanh niên cộng sản quyết đấu tranh và hy sinh vì 1 lý tưởng cách mệnh cao đẹp thì hận, nhục, đấu tranh là lẽ sống thiêng liêng: Tôi chưa chết tức là chưa hết hận Nghĩa là chưa hết nhục của muôn thuở Nghĩa là còn đấu tranh mãi ko thôi Còn trừ diệt cả 1 loài thú độc! [Tâm sự trong tù – 1939] Với Phạm Tiến Duật, tình đồng chí cũng là tình anh em cật ruột, cực kỳ thân thiện: Chung bát đũa tức là gia đình đó. Có yêu thơ mới tìm tới thơ. Tìm tới thơ, 1 phần là tìm tới ngôn từ chữ nghĩa. Thơ đâu là chuyện “nhai câu nhá chữ’”[chữ dùng của Cao Bá Quát]. Thi sĩ có thực tài mới có thể thổi hồn vào ngôn từ. Chỉ qua 2 chữ “tức là”, ta đã thấy thi sĩ trẻ rất xứng đáng với các nhà thơ đàn anh. Cảnh sum vầy tri kỷ: “võng mắc cheo leo đường xe chạy”. Sau 1 bữa cơm thân tình, 1 vài câu chuyện thân mật khi nằm võng, những người lính trẻ lại lên đường. Tiền phương vẫy gọi: Lại đi, lại đi trời xanh thêm. Điệp ngữ “lại đi” diễn đạt nhịp bước hành binh, những cung đường, những chặng đường hành binh lên phía trước của tiểu đội xe ko kính. Hình ảnh “trời xanh thêm” là 1 nét vẽ rất tài giỏi mang ý nghĩa biểu trưng thâm thúy: sáng sủa, yêu đời, chan chứa kì vọng. Là kì vọng, là chiến công đang đón nhận. Đây là 1 đoạn thơ trình bày sinh hoạt vật chất và ý thức người lính thời đánh Mỹ, rất lạ mắt nhưng ta ít gặp trong thơ thời đấy: Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời Chung bát đũa tức là gia đình đó Võng mắc cheo leo đường xe chạy Lại đi, lại đi trời xanh thêm. Khổ cuối bài thơ nói lên nghĩ suy của tác giả về tiểu đội xe ko kính. Chiếc xe đầy thương tích, chiến tích. Không kính, ko đèn, ko mui xe, thùng xe bị xước. Chiếc xe vận chuyển quân sự mang tầm vóc những người hùng lẫm liệt vô danh. ”Không” nhưng mà “có”, có “1 trái tim” của người lính. Trái tim rực lửa, chuẩn bị hy sinh, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng miền Nam, hợp nhất Non sông: Không có kính, rồi xe ko có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước: Chi cần trong xe có 1 trái tim. Các điệp ngữ “ko có”, các từ ngữ tương ứng: “vẫn … chỉ cần có…” đã khiến cho giọng thơ, ý thơ trở thành mạnh bạo, hào hùng. Quyết tâm đấu tranh và chí khí người hùng của người lính ko có bom đạn nào của kẻ thù có thể làm biến chuyển được. “Trái tim” trong thơ Phạm Tiến Duật là 1 hình ảnh hoán dụ, tuy ko mới mẻ mà đầy ý vị. Đoạn thơ trên đây trình bày rất thực, rất hay cách sống, cách nghĩ, cách cảm của những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh thời đánh Mỹ. Tình đồng chí, ý thức đấu tranh can đảm ngoan cường vì sự nghiệp giải phóng miền Nam của người lính rạng ngời vần thơ. Ngôn từ, hình ảnh, vần thơ, giọng thơ… đều mang chất lính, trình bày 1 hồn thơ trẻ trung phất phới, tài giỏi, người hùng. Đoạn thơ trên đây là 1 tiếng ca của khúc tráng ca Bài thơ về tiểu đội xe ko kính. 3. Phân tích 3 khổ cuối bài thơ về Tiểu đội xe ko kính – mẫu 2 Phạm Tiến Duật là 1 trong những bộ mặt điển hình của lớp thi sĩ trẻ trong những 5 chống Mĩ. Thơ ông tập hợp trình bày lứa tuổi trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và những cô gái thanh niên xung phong trên con đường Trường Sơn. Thi phẩm “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” sáng tác 5 1969, nằm trong chùm thơ Phạm Tiến Duật được tặng giải Nhất cuộc thi thơ của báo Văn Nghệ và được đưa vào tập thơ “Vầng trăng quầng lửa” của tác giả. Bài thơ nhưng tiêu biểu là 3 khổ thơ cuối đã khắc họa hiện thực tàn khốc của chiến tranh mà qua ấy làm nổi trội lên hình tượng người lính với bao nhân phẩm cao đẹp. Sau những chặng đường dây mưa bom bão đạn đây gió bụi, mưa tuôn, người lính lái xe vẫn có phút chốc bình an: “Những chiếc xe từ trong bom rơiĐã về đây họp thành tiểu độiGặp bạn bè suốt dọc đường đi tớiBắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi.” Hình ảnh “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gợi nên qua thử cái ý những chiếc xe gan dạ, những chiếc xe đã qua thách thức. Vượt qua những đoạn đường “bom giật, bom rung”, những chiếc xe lại được quây quần bên nhau thành “tiểu đội” – đơn vị bé nhất trong quân ngũ [gồm 12 người]. Tiểu đội xe ko kính là mười 2 chiếc xe và cứ như thế có biết bao lăm tiểu đội trên đường ra trận, kể sao cho hết? Suốt dọc đường vào Nam, tất cả những người lính lái xe gặp nhau dù chỉ trong phút chốc mà đều là bạn bè “Gặp bạn bè suốt dọc đường đi đến”. Mặt khác tuyến đường đi đến là đường chính nghĩa, càng đi càng gặp nhiều bạn hữu. Kế bên ấy, phút chốc gặp nhau đấy thật thú vị qua cái “Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi” – 1 cử chỉ thật gần gũi, cảm động. Có biết bao lăm điều muốn nói trong cái bắt tay đấy. Đấy là thú vui trong họ vừa thoát khỏi chặng đường nguy hiểm gian lao. Họ cổ vũ nhau dù trong tình cảnh nào cũng vẫn nỗ lực cầm chắc tay lái để đưa xe về tới đích. Chỉ 1 cái bắt tay qua cửa kính vỡ rồi cũng đủ để họ san sớt cho nhau, cảm hiểu lẫn nhau giữa những người đồng đội, đồng chí chung 1 hào chiến đấu, chưng 1 nhiệm vụ thiêng liêng cao cả nhưng Non sông và quần chúng uỷ thác. Cái bắt tay qua ô cửa kính là sự bù đắp ý thức cho sự thiếu thốn về vật chất. Người lính trên đường ra trận còn có chung những điểm tựa và tình cảm, tâm hồn, sinh hoạt. Chúng ta hãy nghe Phạm Tiến Duật kể về những cái chung đấy: “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trờiChung bát đũa tức là gia đình đấyVõng mắc cheo leo đường xe chạyLại đi, lại đi, trời xanh thêm.” Bếp Hoàng Cầm – hình ảnh không xa lạ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ là dấu hiệu của sự sum họp, hội ngộ sau chặng đường hành binh khó nhọc. Ngọn lửa ấm áp như nối kết tấm lòng người chiến sĩ với nhau. Tất cả là 1 gia đình êm ấm, tràn đầy mến thương. Phạm Tiến Duật đã đưa ra 1 định nghĩa gia đình thật lạ, thật giản đơn: “chung bát đũa” là tiêu chuẩn. Câu thơ toát lên tình đời, tình người gắn bó keo sơn. Họ có chung bát đũa, chung mâm cơm, chung bếp lửa, chung ánh sao trời, chung gió bụi, mưa tuôn, chung 1 tuyến đường hành binh, 1 hào chiến đấu, 1 nhiệm vụ. Những tình cảm đấy chỉ có những người lính cách mệnh mới được thưởng thức và nếm trải. Nó thật phổ biến mà cũng thật cao đẹp thiêng liêng. Câu thơ đẹp về tình cảm, cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ. Trong các cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, tình đồng đội đã biến thành sức mạnh vô giá, giúp người lính trụ vững nơi trận mạc bom đạn, giành thắng lợi trước kẻ thù. Sau 1 bữa cơm đoàn tụ thân tình, 1 vài câu chuyện thân mật, những người lính trẻ lại tiếp diễn lên đường: “Lại đi , lại đi trời xanh thêm”. Hình ảnh “Trời xanh” là 1 nét vẽ rất tài giỏi mang ý nghĩa biểu trưng thâm thúy. Nó ko chỉ tượng trưng cho sự sống nhưng còn tượng trưng cho tự do, hòa bình, chan chứa hi vọng chiến công béo đang chờ. Người chiến sĩ lái xe chính là tự do của loài người. Họ đấu tranh để giành lại trời xanh. Chính thành ra dù gian lao nguy hiểm tới đâu, họ cũng vẫn nỗ lực lái xe bon bon về phía trước. Đây không hề là 1 mệnh lệnh khô khan, là nhiệm vụ thuần tuý nhưng là ý thức, là ý chí, là tình cảm của người lính luôn hướng trái tim về miền Nam cật ruột. Khổ thơ kết, hình ảnh thơ được lặp lại những chiếc xe ko kính. Nhưng từ đây để làm nổi trội vẻ đẹp của người lính lái xe: “Không có kính rồi xe ko có đènKhông có mui xe, thùng xe có xướcXe vẫn chạy vì miền Nam phía trướcChỉ cần trong xe có 1 trái tim.” Giờ đây những chiếc xe đấy ko chỉ mất kính nhưng mà ko đèn, ko mui, thùng xe có xước. Chiếc xe đã biến dạng hoàn toàn. Người lính xế lại chất chồng gieo neo. Sự gian nan nơi trận mạc càng ngày càng nâng lên gấp bội lần mà chẳng thể làm chùn bước những đoàn xe nối đuôi nhau ngày đêm tiến về phía trước. Nguyên nhân nào nhưng những chiếc xe tàn dạng đấy vẫn băng băng chạy như vũ bão? Nhà thơ đã lí giải: “Chỉ cần trong xe có 1 trái tim”. Câu thơ dập dồn chắc chắn hẳn lên như nhịp chạy của những chiếc xe ko kính. Từ hàng loạt những cái ko có ở trên , thi sĩ khẳng định 1 cái có, ấy là “1 trái tim”. Trái tim là 1 hoán dụ nghệ thuật tu từ chỉ người chiến sĩ lái xe Trường Sơn 5 xưa. Trái tim của họ chua xót trước cảnh quần chúng miền Nam sống trong khói bom thuốc súng, tổ quốc bị chia cắt thành 2 miền. Trái tim đấy dạt dào tình yêu Non sông như máu thịt, như mẹ cha, như vợ như chồng … Trái tim đấy xoành xoạch sôi sục phẫn nộ giặc Mĩ bạo tàn. Mến thương, phẫn nộ chính là động lực thôi thúc những người chiến sĩ lái xe khao khát giải phóng miền Nam hợp nhất tổ quốc. Để mơ ước này biến thành hiện thực, chỉ có 1 cách độc nhất vô nhị: vững vàng tay đua, cầm chắc tay lái. Thành ra thách thức càng ngày càng tăng mà vận tốc và hướng đi chẳng phải chỉnh sửa. Đằng sau những ý nghĩa đấy, câu thơ còn muốn hướng con người về chân lý thời đại của chúng ta: sức mạnh quyết định thắng lợi không hề là vũ khí nhưng là con người giàu ý chí, người hùng, sáng sủa, quyết thắng. Có thể coi câu thơ cuối là câu thơ hay nhất của bài thơ. Nó là nhãn tự, là con mắt thơ, bật sáng chủ đề, rạng ngời vẻ đẹp hình tượng người lính lái xe thời chống Mĩ. Với 1 chất liệu hiện thực lạ mắt, giọng thơ ngang tàng, khẩu khí trẻ trung, nhịp độ biến hóa cởi mở: lúc thì như lời đối thoại, lúc thì như khúc văn xuôi thích hợp với nhịp hành binh của đoàn xe trên đường ra tuyến lửa. Qua đây, có thể khẳng định rằng, “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” của Phạm Tiến Duật là 1 trong những thi phẩm điển hình viết về lứa tuổi trẻ Việt Nam trong những 5 tháng chẳng thể nào quên của dân tộc. Các anh đã dệt nên những bản tình khúc bất hủ cho tổ quốc. 4. Phân tích 3 khổ cuối bài thơ về Tiểu đội xe ko kính – mẫu 3 Bỏ dở những gieo neo, khó nhọc, những người lính Trường Sơn đã kết thân với nhau trên đường đi đấu tranh, tiếp cho nhau thêm sức mạnh tiến đến. Ba khổ thơ cuối bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính” đã đề cao ý thức kết đoàn cao đẹp của người lính cụ Hồ. Chính sức mạnh của họ đã đưa kháng chiến đến chiến thắng. “Bài thơ tiểu đội xe ko kính” điển hình cho hồn thơ Phạm Tiến Duật trong “Vầng trăng – Quầng lửa”. Đây là đoạn cuối bài thơ đánh dấu cảnh trú quân dã chiến của tiểu đội xe ko kính, truyền tụng tình đồng chí và lí tưởng đấu tranh cao cả của những chiến sĩ lái xe trên tuyến đường mòn Hồ Chí Minh. Sau mỗi trận mưa bom bão đạn cộng với những chiếc xe bị hủy hoại nặng nề hơn, họ lại gặp nhau trong những phút ngừng chân ngắn ngủi tạo thành 1 “tiểu đội xe ko kính” Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi đến. Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi. Con đường giải phóng miền Nam là tuyến đường đi đến chính nghĩa, họ càng đi càng có thêm nhiều bạn: “Gặp bạn hữu suốt dọc đường đi đến”. Họ có thể “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” nhưng ko cần mở cửa xe, thư thái, kiêu hãnh và thắm tình đồng chí. Cũng là cái nắm tay, cái bắt tay của người lính mà mỗi thời 1 khác. Anh Vệ quốc quân trong những 5 đầu kháng chiến chống Pháp: Miệng cười buốt giá Thương nhau nắm lấy bàn tay. Chỉ 1 cái bắt tay cũng ấm lòng, đủ cổ vũ nhau, thông cảm với nhau. Cái bắt tay thay cho lời nói. Chỉ có những người lính, những chiếc xe thời chống Mĩ mới có thể có những cái bắt tay đấy. Cái bắt tay truyền cho nhau cả tâm hồn, tình cảm. Tình cảm đấy đượm đà như cật ruột, như anh em trong gia đình. “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời – Chung bát đũa tức là gia đình đó” – 1 cách khái niệm về gia đình thật lạ, thật tếu hóm và tình cảm thật sâu nặng, thiêng liêng giúp con người xích lại gần nhau trong những cái chung: chung bát, chung đĩa, nắm cơm, bếp lửa, chung tình cảnh, chung tuyến đường với muôn ngàn thử thách nguy khốn phía trước. Khi hành binh các anh cổ vũ, chào hỏi nhau trong tình cảnh lạ mắt, những sinh hoạt, ngơi nghỉ thật ngắn ngủi, cái ăn, giấc ngủ thật giản dị, gian nan mà tâm hồn người lính thật vui mừng, sáng sủa, có cái gì xao xuyến: “Võng mắc cheo leo đường xe chạy”. “Chông chênh” gì thì cheo leo mà ý chí đấu tranh, khí phách, nghị lực vẫn vững vàng, kiên trì, vượt lên tất cả. Chính mình đồng chí đã tiếp cho họ sức mạnh để tâm hồn họ phất phới sáng sủa. Tình cảm gia đình người lính thật bình dị, ấm áp, thân yêu hình thành sức mạnh, nâng bước chân người lính, để rồi các anh lại tiếp diễn hành binh: “Lại chuyển động đi trời xanh thêm”. Điệp ngữ “lại đi” diễn đạt nhịp bước hành binh, những cung đường, những chặng đường hành binh lên phía trước của tiểu đội xe ko kính. Hình ảnh “trời xanh thêm” là 1 nét vẽ rất tài giỏi mang ý nghĩa biểu trưng thâm thúy: sáng sủa, yêu đời, tràn đầy hi vọng; “lại đi” là đi tới chiến thắng rốt cục. Trong tâm hồn họ, trời như xanh thêm, chan chứa hi vọng sáng sủa dào dạt. Khổ thơ cuối hình thành kết cấu đối lập, bất thần, thâm thúy, đối lập giữa 2 bình diện vật chất và ý thức, giữa vẻ bên ngoài và bên trong của chiếc xe. Trcửa ải qua mưa bom bão đạn, những chiếc xe lúc đầu đã ko có kính, bị bom Mỹ khiến cho biến dạng tới trần bụi: Không có kính, rồi xe ko có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước Điệp từ “ko có” được nhắc lại 3 lần nhấn mạnh sự thiếu thốn tới trần truồng của những chiếc xe, còn cho ta thấy chừng độ tàn khốc của trận mạc. Những chiếc xe đầy thương tích, chiến tích: ko kính, ko đèn, ko mui xe, thùng xe bị xước,… Chiếc xe mang tầm vóc của những người hùng lẫm liệt, vô danh đã nguyện hi sinh cả cuộc đời mình vì độc lập, tự do cho dân tộc, những người hùng ko tên đấy cương quyết hi sinh tới phút rốt cục. Ay vậy nhưng những chiếc xe mang trên mình đầy thương tích ấy lại như những chiến sĩ bền chí vượt lên trên bom đạn, hăm hở lao ra tiền phương với 1 tình cảm thiêng liêng: Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có 1 trái tim. Mọi thứ của xe có thể ko còn nguyên lành, chỉ cần nguyên lành trái tim người lính – trái tim hướng về miền Nam cật ruột thì xe vẫn chạy. Bom đạn kẻ thù có thể làm biến dạng chiếc xe mà ko đè bẹp được ý thức, ý chí đấu tranh của người lính. Đối lập với những cái “ko có” ở trên, chỉ có 1 cái “có” độc nhất vô nhị ấy là có “trái tim”. Vậy là đoàn xe đã thắng lợi, vượt lên bom đạn, hăm hở tiến ra phía trước, hướng ra tiền phương béo với 1 tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam”, vì trận đánh đấu giành độc lập, hợp nhất tổ quốc đang vẫy gọi. Bởi vì trong những chiếc xe ấy lại nguyên lành 1 trái tim can đảm. Hình ảnh trái tim là 1 hình ảnh hoán dụ tuyệt đẹp gợi ra biết bao ý nghĩa. Trái tim là hình ảnh tụ hội vẻ đẹp tâm hồn và nhân phẩm của người chiến sĩ lái xe. Trái tim nồng nàn 1 lẽ sống cao đẹp và thiêng liêng: tất cả vì miền Nam thân thương, trái tim chứa đựng khả năng hiên ngang, lòng can đảm hoàn hảo. Trái tim mang ý thức sáng sủa và 1 niềm tin mãnh liệt vào ngày hợp nhất Bắc Nam. Thì ra nguồn cội sức mạnh của cả đoàn xe, cỗi rễ, nhân phẩm người hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan dạ, bền chí, giàu khả năng và tràn đầy tình mến thương này. Trái tim người lính rạng ngời đặc sắc mãi tới muôn lứa tuổi tương lai. Nhà văn đã tô đậm những cái “ko” để làm nổi trội cái “có” – nổi trội chân lí của thời đại: bom đạn, chiến tranh có thể làm sai lệch những chiếc xe, huỷ hoại những trị giá vật chất mà chẳng thể bẻ gãy được những trị giá ý thức cao đẹp… để rồi 1 nước bé như Việt Nam đã thắng lợi 1 cường quốc béo. Như vậy, qua 3 khổ thơ cuối bài thơ đã cho ta thấy ý thức chiến đấu bền chí, can đảm của những người lính. Họ đấu tranh bằng tất cả lòng tâm huyết và niềm tin của mình vào ngày mai tươi sáng, họ luôn hướng đến miền Nam phía trước. Đây là tấm gương sáng cho tuổi teen mọi lứa tuổi noi theo. 5. Cảm nhận 3 khổ cuối bài thơ Tiểu đội xe ko kính Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đầy gay cấn và oanh liệt cúa quần chúng đã xong xuôi chiến thắng. Trong “mưa bom bão đạn” trên con đường Trường Sơn trước đây có bao kỳ tích xảy ra. 1 trong những thần thoại của thế kỷ XX là hình ảnh nhửng đoàn xe ko có kính vẫn băng ra trận tuyến, nối đuôi nhau đi lên phía trước, góp phần làm nên những kỳ tích của dân tộc. Xúc động trước hiện thực béo lao ấy của đồng chí, Phạm Tiến Duật đã sáng tác “Bài thơ về tiểu đội xe ko kính”. Trong bài ca người lính lạ mắt này, tác giả đã biểu thị xúc cảm, nghĩ suy của mình về những chiến sĩ lái xe, về dân tộc và tổ quốc : “…Những chiếc xe từ trong bom rơi….Chỉ cần trong xe có 1 trái tim.” Mày mò bài thơ và đặc trưng 3 đoạn thơ trên ta sẽ cảm thu được cái hay, cái đẹp kỳ diệu của thơ ca Việt Nam thời chống mỹ cứu nước. Bắt đầu bài thơ tác giả viết: “Những chiếc xe từ trong bom rơi Đã về đây họp thành tiểu đội Gặp bạn bè suốt dọc đường đi đến Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi” Nhịp đập ở đây hơi lắng lại. Người chiến sĩ đang nói về đồng chí và cũng đang tự nói về mình. “Từ trong bom rơi” có tức là từ trong tàn khốc, từ trong cái chết trở về. Vượt qua tuyến lửa, bom rơi, những chiếc xe bỗng tụ nhau thành tiểu đội thật kỳ khôi, thú vị. Tiểu đội những chiếc xe ko kính. Những con người đã qua thách thức trên tuyến đường đi đến bỗng biến thành bạn hữu và cái “bắt tay qua cửa kính vỡ rồi “ mới thật kiêu hãnh, sảng khoái biết bao! Dường như, chính ô cửa vỡ đấy khiến họ gần nhau thêm, khiến cái bắt tay của họ thêm chặt hơn và tình đồng chí lại càng thêm đượm đà. Cái bắt tay qua ô cửa kính vỡ như là sự chia sẽ, thông cảm lẫn nhau của người lính Trường Sơn. Đấy là sự mừng vui, là chúc mừng nhau kết thúc nhiệm vụ,cũng là niềm tin, niềm kiêu hãnh của người thắng lợi. Đoàn xe ko kính càng ngày càng ra đi xa. Càng đi sâu vào trận mạc. Khổ thơ tiếp theo nói đến sinh hoạt trên đường của họ : “Bếp hoàng cầm ta dựng giữa trời….Lại đi, lại đi, trời xanh thêm“ Sinh hoạt của người tài xế, cái ăn cái ngủ phổ biến của con người, được tóm tắt vào trong 2 hình ảnh “Bếp Hoàng Cầm” và “võng mắc cheo leo[”. Cái gì cũng tạm bợ, cơ động, gian khổ nhưng cách nhìn, cách nghĩ của người chiến sĩ vế chúng thật tươi tắn và cảm động : là gia đình đấy. Chất thơ nghịch ngợm đầy ý vị đã mở ra từ những hình ảnh chân chất đời lính đã ấm lên tình đồng ngũ, nghĩa anh em. Sức sống thơ cững chính là ở đây và câu thơ đó đã cất cánh bay cao :” Lại đi, lại đi, trời xanh thêm”. Hai chữ “lại đi” được lặp lại biểu hiện đoàn xe không ngừng tiến tới, không một sức mạnh bạo tàn nào của giặc Mỹ có thể ngăn nổi. “Trời xanh thêm” là một hình ảnh đầy chất thơ và giàu ý nghĩa. Trời xanh là trời đẹp, bầu trời yên tĩnh, không gian cao xa. Câu thơ đã gợi mở biết bao tâm hồn vẫn sôi nổi lên đường, rộng mở những ngày mai, những ngày vẫn “xanh thêm” niềm tin chiến thắng. Khổ thơ cuối cùng, vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với lời nói bình thường. Vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn ngữ rất đẹp, rất thơ, cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng, vừa sâu sắc để hoàn thiện bức chân dung tuyệt vời của người chiến sĩ vận tải Trường Sơn: “ Không có kính rồi xe không có đèn….Chỉ cần trong xe có một trái tim” Bốn câu thơ dựng hai hình ảnh đối lập đầy kịch tính, rất bất ngờ, thú vị. Hai câu đầu dồn dập, những mất mát, khó khăn do quân địch gieo xuống : không kính, không đèn, không mui, thùng xe có xước. Điệp ngữ “không có” nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách khốc liệt. Hai câu cuối âm điệu đối chọi lại, trôi chảy, êm ru. Hình ảnh đậm nét. Vậy là đoàn xe đã chiến thắng, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tình cảm thiêng liêng “vì miền Nam.” Vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. đặc biệt, tỏa sáng chói ngời cả đoạn thơ là hình ảnh “trong xe có một trái tim.” Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rể phẩm chất anh hùng của người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan chứa tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái ? Tình yêu tổ quốc, tình thương đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ vững tay lái xe về tới đích ? Và ẩn sau ý nghĩa “trái tim cầm lái”, câu thơ còn muốn hướng ngưới đọcvề một chân lý của thời đại chúng ta: sức mạnh quyết định chiến thắng không phải là vũ khí, là công cụ… mà là co người, con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng cảm, niền lạc quan và mọi niền tin vững chắc. Có thể nói, cả bài thơ, hay nhất là câu thơ cuối cùng. Nó là “con mắt của thơ” bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hìng tường nhân vật trong thơ. Bài thơ được khép lài mà âm hưởng của nó như vẫn vang xa chính là nhờ câu thơ ấy. Tóm lại, những khổ thơ trên đã phác họa những hình tượng đẹp về người lính lái xe trên tuyền đường Trường Sơn trong những năm cứu nước. những câu thơ giản dị, hình ảnh sinh động cụ thể, sự đối lập ở từng khổ thơ, tác giả đõa để lại những ấn tượng đẹp về tiểu đội xe không kính. Cám ơn nhà thơ đã cho thế hệ trẻ ngày nay hiểu thêm về cha anh trước đây trong thời đất nước có chiến tranh. Hiểu được điều đó, có lẽ ,chúng ta, những học sinh sẽ sống tốt hơn.

Mời các bạn tham khảo thêm các thông tin hữu ích khác trên chuyên mục Tài liệu của CNTA VN.

TagsVăn học

#Top #mẫu #phân #tích #khổ #cuối #bài #Tiểu #đội #không #kính

#Top #mẫu #phân #tích #khổ #cuối #bài #Tiểu #đội #ko #kính

Cẩm Nang Tiếng Anh

Video liên quan

Chủ Đề